Tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh tế Việt Nam

Hiện nay, Công ty đa quốc gia – MNC (Multinational corporation)/MNE (Multinational

Enterprises) là thuật ngữ khá quen thuộc bởi sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của nó ở khắp nơi

trên thế giới. Tại Việt Nam, các công ty đa quốc gia đã và đang tạo ra những chuyển biến mới cho

nền kinh tế nước ta với những đóng góp về nguồn vốn, khoa học- công nghệ, việc làm Bên cạnh

đó, các công ty này cũng gây ra những tác động tiêu cực trong quá trình hoạt động. Bài báo tập

trung làm rõ đặc điểm hoạt động, chỉ ra những tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh

tế Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty này.

pdf 10 trang kimcuc 19020
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh tế Việt Nam

Tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh tế Việt Nam
 38 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA 
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 
Bùi Thị Bích Hằng 
Khoa Kế toán Tài chính 
Email: hangbtb@dhhp.edu.vn 
Ngày nhận bài: 01/8/2017 
Ngày PB đánh giá: 07/9/2017 
Ngày duyệt đăng: 18/9/2017 
TÓM TẮT 
Hiện nay, Công ty đa quốc gia – MNC (Multinational corporation)/MNE (Multinational 
Enterprises) là thuật ngữ khá quen thuộc bởi sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của nó ở khắp nơi 
trên thế giới. Tại Việt Nam, các công ty đa quốc gia đã và đang tạo ra những chuyển biến mới cho 
nền kinh tế nước ta với những đóng góp về nguồn vốn, khoa học- công nghệ, việc làmBên cạnh 
đó, các công ty này cũng gây ra những tác động tiêu cực trong quá trình hoạt động. Bài báo tập 
trung làm rõ đặc điểm hoạt động, chỉ ra những tác động của các công ty đa quốc gia đến nền kinh 
tế Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty này. 
Từ khóa : Công ty đa quốc gia, tác động, nền kinh tế Việt Nam. 
THE EFFECT OF MULTINATIONAL CORPORATIONS 
ON VIETNAMESE ECONOMY 
 ABSTRACT 
Today, Multinational Corporation (MNC)/Multinational Enterprise (MNE) has become a 
popular term due to its presence and development in all parts of the world. In Vietnam, these 
multinational corporations have been creating many changes in our economy with the 
contributions about sources of capital, science and technology, employment.... Besides, they have 
also caused various negative influences in their operation process. This paper specifies the MNCs‟ 
operational characteristics, points out their effects on Vietnamese economy and puts forward some 
solutions to improve the performance of these corporations. 
Keywords: Multinational corporation (MNC), effect, Vietnamese economy 
1. MỞ ĐẦU 
Công ty đa quốc gia (MNC) là khái 
niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung 
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Với 
phạm vi hoạt động rộng như vậy, các 
công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt 
cả ngân sách của nhiều quốc gia và tạo ra 
những ảnh hưởng lớn đến các mối quan 
hệ quốc tế và các nền kinh tế của các 
quốc gia [1]. 
 39 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế 
thế giới, sự xuất hiện và phát triển của các 
công ty đa quốc gia tại Việt Nam cũng như 
những ảnh hưởng của nó ngày càng trở nên 
rõ nét. Sự thâm nhập của các Công ty đa quốc 
gia ngày càng nhiều vào nền kinh tế Việt Nam 
là một xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy 
tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời 
cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những 
thách thức, những trở ngại nhất định. 
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
2.1. Đặc điểm hoạt động của các công ty 
đa quốc gia tại Việt Nam 
- Các công ty đa quốc gia chủ yếu có 
công ty mẹ tại các nước châu Á. 
Hiện nay, các quốc gia có vốn đầu tư 
vào Việt Nam hầu hết đều đến từ châu Á. Cụ 
thể, phải kể đến các quốc gia: Hàn Quốc, Nhật 
Bản, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc,... Qua 
báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài cho thấy, 
trên 70% các công ty đa quốc gia có mặt tại 
Việt Nam đều thuộc các nước châu Á. 
Bảng 1. Đầu tư của các công ty đa quốc gia 
tại Việt Nam theo đối tác. 
Đơn vị tính: % 
Khu vực 
Năm 
2014 
Năm 
2015 
Năm 
2016 
1. Châu Á 86.44 71.38 78.55 
2. Các quốc gia khác 13.56 28.62 21.45 
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Cục Đầu 
tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 
 Giai đoạn 2014-2016, đầu tư của các 
MNC vào Việt Nam tăng mạnh mẽ. Các nước 
thuộc khu vực châu Á đã trở thành đối tác đầu 
tư lớn nhất tại Việt Nam. Năm 2016, các 
MNC từ các nền kinh tế châu Á đầu tư vào 
Việt Nam với tổng vốn đầu tư 19,145 tỷ USD, 
tăng 11,21% so với năm 2015. Trong đó MNC 
từ các nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật 
Bản đóng góp tới 9,627 tỷ USD vào sự tăng 
trưởng đó. Tuy có sự sụt giảm nhẹ trong tỷ 
trọng qua từng năm nhưng các MNC từ châu 
Á vẫn chiếm hơn 70% trong tổng vốn đầu tư 
tại Việt Nam [5]. 
Mặt khác, qua khảo sát bảng xếp hạng 
VNR500 – Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp 
lớn nhất Việt Nam theo mô hình của 
FORTUNE 500 trong những năm gần đây cho 
thấy, trên 80% các công ty đa quốc gia lớn có 
mặt tại Việt Nam đều thuộc các nước châu Á. 
Như vậy, có thể thấy, đa số các công ty đa 
quốc gia lớn có mặt tại Việt Nam cũng có 
nguồn gốc từ các nước châu Á. Trong các 
quốc gia châu Á này thì Hàn Quốc, Nhật Bản 
là 2 nước có số lượng công ty đa quốc gia 
nhiều nhất tại Việt Nam. Nếu xét theo số 
lượng doanh nghiệp có quy mô lớn thì Nhật 
Bản dẫn đầu, sau đó là Hàn Quốc, Thái Lan, 
Singapore 
- Các MNC tại Việt Nam đầu tư theo 
hình thức 100% vốn nước ngoài là chủ yếu: 
 Tính đến hết năm 2016 đã có 18624 
dự án 100% vốn nước ngoài với tổng số vốn 
đăng ký là 209,33 tỷ USD, chiếm 82,74% số 
dự án và 71,38% tổng vốn đầu tư tại Việt 
Nam. Hình thức đầu tư này tăng lên nhanh 
chóng qua các năm, tỷ trọng về tổng vốn đầu 
tư đã vượt xa các hình đầu tư khác và luôn ổn 
định ở mức trên 80% trong tổng số dự án đầu 
từ vào Việt Nam. Với hình thức đầu tư 100% 
vốn nước ngoài, quyền điều hành hoàn toàn 
thuộc về các MNC. Vì vậy tạo tâm lý thoải 
mái, tự chủ, không chịu sự rằng buộc, qua đó 
đem lại kết quả sản xuất kinh doanh tốt nhất 
cho các MNC. 
 40 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
- Các MNC đầu tư vào Việt Nam với 
các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và 
kinh doanh bất động sản là chủ yếu 
 Công nghiệp chế biến chế tạo và kinh 
doanh bất động sản là hai lĩnh vực đầu tư lớn 
nhất của các MNC vào Việt Nam. Riêng lĩnh 
vực công nghiệp chế biến, chế tạo qua các 
năm đã chiếm tỷ trọng hơn 55% trong tổng 
vốn đầu tư của các MNC và vẫn tiếp tục tăng. 
Tuy nhiên trong lĩnh vực công nghiệp chế 
biến, chế tạo chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc 
tham gia vào phần gia công, lắp ráp, kiểm thử. 
Biểu đồ 1. Tỷ trọng lĩnh vực hoạt động của các MNC tại Việt Nam 
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 
- MNC có công ty mẹ tại Việt Nam đã 
hình thành và có xu hướng phát triển mạnh 
trong thời gian tới. 
Trong số các công ty đa quốc gia có 
công ty mẹ ở Việt Nam phải kể đến Công 
ty cổ phần sữa Việt Nam - Vinamilk. Đây 
là thương hiệu chiếm lĩnh thị trường sữa 
với thị phần khoảng 55% thị trường quốc 
nội. Hiện nay, ngoài 10 trang trại và 13 
nhà máy trong nước, Vinamilk còn có 3 
nhà máy tại Mỹ, New Zeland, 
Campuchia, 1 công ty con tại Ba Lan và 
đang xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu ở các 
thị trường mới như Thái Lan, Myanmar 
và châu Phi. Vinamilk đã đầu tư 22,8% 
vốn cổ phần tại nhà máy Miraka (New 
Zeland), đầu tư 100% cổ phần vào nhà 
máy Drifwood (Mỹ), nắm giữ 51% cổ 
phần đầu tư nhà máy Angkor Milk tại 
Campuchia và công ty con tại Ba Lan để 
làm cửa ngõ giao thương các hoạt động 
thương mại của Vinamilk tại châu Âu. 
Ngoài ra phải kể đến tập đoàn Viễn 
thông Quân đội (Viettel) là doanh nghiệp 
viễn thông, công nghệ thông tin lớn nhất 
Việt Nam, có thương hiệu quốc tế, đã có 
mặt ở thị trường viễn thông 10 quốc gia, 
khởi đầu bằng việc khai trương 2 mạng 
di động tại Campuchia (mạng Metfone, 
tháng 2 năm 2009), Lào (mạng Unitel, 
tháng 10 năm 2009) tiếp đến là 
Mozambique, Peru và Haiti,... 
2.2. Tác động tích cực của MNC tại 
Việt Nam 
2.2.1.Thúc đẩy thương mại Việt Nam 
phát triển 
 41 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
Biểu đồ 2. Tỷ trọng của nhóm MNC trong kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2014-2016 
(Nguồn: Tổng cục Hải quan) 
Đóng góp của các công ty đa quốc 
gia trong hoạt động xuất nhập khẩu của cả 
nước có sự chuyển biến tăng rõ rệt cả về 
giá trị và tỷ trọng. Xuất khẩu của khu vực 
đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) trong 
năm 2016 ước đạt 125,9 tỷ USD, tăng 
10,2% so với cùng kỳ năm 2015 và chiếm 
71,55% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu 
không kể dầu thô trong năm 2016 đạt 
123,55 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ 
2015 và chiếm 70,2% kim ngạch xuất khẩu. 
Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài 
tính trong năm 2016 đạt 102,2 tỷ USD, 
tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2015 và 
chiếm 58,9% kim ngạch nhập khẩu [5]. 
Tính chung trong năm 2016, khu vực 
đầu tư nước ngoài xuất siêu 23,7 tỷ USD kể 
cả dầu thô và xuất siêu 21,35 tỷ USD không 
kể dầu thô. 
2.2.2. Thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam 
Theo số liệu của Hệ thống thông tin 
quốc gia về Đầu tư nước ngoài, tính đến hết 
năm 2016 cả nước có 2.556 dự án mới được 
cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng 
ký là 15,18 tỷ USD, tăng 27% về số dự án và 
bằng 97,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ 
năm 2015. Có 1.225 lượt dự án đăng ký điều 
chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng 
thêm là 5,76 tỷ USD, tăng 50,5% về số dự án 
và bằng 80,3% về vốn tăng thêm so với cùng 
kỳ. Cũng trong năm 2016, có 2.547 doanh 
nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước 
ngoài góp vốn mua cổ phần với tỷ lệ vốn lớn 
hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu 
tư có điều kiện với tổng vốn đầu tư là 3,425 tỷ 
USD. Như vậy, tính đến hết năm 2016, tổng 
vốn đầu tư đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp 
vốn, mua cổ phần đạt 24,4 tỷ USD. 
 42 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
Như vậy, có thể thấy quy mô vốn đầu tư 
từ các công ty đa quốc gia liên tục tăng trong 
những năm gần đây cả về vốn giải ngân và 
vốn đăng ký. Tính đến ngày hết năm 2016, 
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải 
ngân được 15.800 triệu USD, tăng 9% so với 
cùng kỳ năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI 
cao nhất từ trước đến nay. Số vốn đăng ký 
năm 2014 là 21.922 triệu USD, đến năm 2015 
biến động tăng và đạt giá trị 22.757 triệu 
USD. Năm 2016, số vốn đăng ký là 24.373 
triệu USD tăng 7,1% so với năm 2015 
Bảng 2. Tình hình đầu tư nước ngoài giai đoạn 2014-2016 
TT Chỉ tiêu 
Đơn vị 
tính 
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 
1 Vốn thực hiện triệu USD 12.500 14.500 15.800 
2 Vốn đăng ký triệu USD 21.922 22.757 24.373 
2.1 Đăng ký cấp mới triệu USD 16.504 15.578 15.182 
2.2 Đăng ký tăng thêm triệu USD 5.418 7.180 5.765 
2.3 Góp vốn, mua cổ phần triệu USD 3.425 
3 Số dự án 
3.1 Cấp mới dự án 1.843 2.013 2.556 
3.2 Tăng vốn lượt dự án 749 814 1.225 
3.3 Góp vốn mua cổ phần dự án 2.547 
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 
Về số dự án cấp mới và tăng vốn trong 
3 năm gần đây có thể thấy rõ xu hướng biến 
động tăng, đặc biệt là năm 2016. Số dự án 
cấp mới tăng từ 2013 dự án năm 2015 lên 
2556 dự án năm 2016, tương ứng với tỷ lệ 
tăng 27%. Trong khi đó, số dự án tăng vốn từ 
814 dự án tăng lên 1225 dự án, tương ứng 
với tỷ lệ tăng khá lớn 50,5%. 
Những số liệu trên đây cho thấy, Việt 
Nam đã và đang tiếp tục có sức hút đối với các 
nhà đầu tư đến từ các quốc gia. Sự có mặt của 
nhiều tập đoàn, các công ty đa quốc ngày một 
nhiều hơn, cải thiện rõ rệt tình hình đầu tư vào 
nước ta. Trong số đó có thể kể đến một số dự 
án của tập đoàn, công ty đa quốc gia như: Dự 
án LG Display Hải Phòng, cấp phép ngày 
15/4/2016, tổng vốn đầu tư đăng ký 1,5 tỷ USD 
do LG Display Co.,ltd (Hàn Quốc) đầu tư; dự 
án điện BOT Nghi Sơn 2, vốn 2,5 tỷ USD và 
dự án điện Vũng Áng 2, vốn 2,5 tỷ USD được 
cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 
2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực và 
tạo việc làm 
Có thể khẳng định rằng, các công ty đa 
quốc gia có mặt tại Việt Nam đã góp phần nâng 
cao chất lượng lao động, tạo việc làm cho số 
 43 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
lượng lớn người lao động nước ta. Để đáp ứng 
được yêu cầu tuyển dụng những vị trí có thu 
nhập cao, người lao động buộc phải hoàn thiện 
rất nhiều kỹ năng: ngoại ngữ, tin học, khả năng 
làm việc nhóm, khả năng đàm phán,  
Theo khảo sát của mạng việc làm 
Jobstreet, top 10 công ty được người lao 
động mong muốn làm việc nhất năm 2016 
tại Việt Nam hầu hết là những công ty đa 
quốc gia. 
Số người tham gia lao động trong khu 
vực này đã tăng đáng kể từ năm 2014 đến năm 
2015. Tỷ trọng lao động làm việc trong các 
công ty đa quốc gia đã tăng từ 3,9% năm 2014 
lên 4,17% năm 2015. Trong khi tổng số lao 
động cả nước chỉ tăng 0,18% thì số lao động 
trong các công ty này đã tăng tới 7,13%, cho 
thấy số người người tham gia lao động vào khu 
vực này đang có xu hướng tăng rõ rệt. 
2.3. Tác động tiêu cực của MNC đến 
Việt Nam 
2.3.1. Gây thất thu thuế do chuyển giá. 
Trong những năm gần đây, hiện tượng 
chuyển giá trong các doanh nghiệp đầu tư 
nước ngoài đã trở nên phổ biến. Với nhiều 
hình thức khác nhau, có doanh nghiệp đã phù 
phép cho tổng chi phí về thuế trên toàn cầu 
của mình ở mức thấp nhất để tìm tới lợi 
nhuận cao nhất. Trong những năm gần đây, 
số doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá ngày 
càng gia tăng. 
Bảng 3. Tình hình trốn thuế của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam 
 giai đoạn 2011 - 2016 
Năm 
Số MNC bị thanh tra thuế 
(doanh nghiệp) 
Điều chỉnh giảm lỗ 
(tỷ đồng) 
Truy thu và phạt 
(tỷ đồng) 
Năm 2011 921 6.617 1.669 
Năm 2012 2.027 3.703,6 683,5 
 44 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
Năm 2013 2.110 4.192 988 
Năm 2014 2.866 5.830 1.701 
Năm 2015 4.751 10.050 1.063 
Năm 2016 329 5.162,21 607,52 
(Nguồn: Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính) 
Thống kê những năm qua cho thấy, cả 
nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê 
khai lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ 
liên tục trong nhiều năm liên tiếp. Nghiên 
cứu tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - là 
thành phố lớn với số doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài cao nhất Việt Nam cho 
thấy có tới gần 60% trong số trên 3.500 
doanh nghiệp FDI thường xuyên kê khai lỗ 
trong nhiều năm. 
2.3.2. Làm gia tăng sự phụ thuộc kinh 
tế của Việt Nam vào các quốc gia khác 
Sự phụ thuộc kinh tế ở đây cụ thể là 
phụ thuộc về vốn, kỹ thuật - công nghệ và 
mạng lưới sản xuất. Các công ty đa quốc gia 
tiến hành đầu tư, xây dựng nhiều nhà máy 
sản xuất tại Việt Nam với số vốn đầu tư rất 
lớn nhưng các quy trình đều do các Công ty 
mẹ nắm giữ và được chuyển giao cho công ty 
con tại Việt Nam. Các công ty con phải phụ 
thuộc nhiều vào máy móc, thiết bị, linh phụ 
kiện hơn so với các công ty trong nước. 
Đơn cử như Samsung Việt Nam là một 
trong những doanh nghiệp FDI đầu tư lớn tại 
Việt Nam với hệ thống 80 nhà cung cấp linh 
kiện, phụ tùng đến từ 9 quốc gia. Tuy nhiên, số 
lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào 
chuỗi sản xuất, cung ứng cho Samsung hiện 
còn thấp, chiếm chưa đến 10%. 
2.3.3. Gây ô nhiễm cho môi trường 
Các công ty đa quốc gia nhiều lúc vẫn 
chưa chấp hành đúng các quy định của Việt 
Nam về bảo vệ môi trường. Trong khai thác 
hay chế biến sản xuất, nhiều công ty đa quốc 
gia vẫn còn xem nhẹ trách nhiệm bảo vệ môi 
trường, gây ra những ảnh hưởng nghiêm 
trọng cho môi trường sinh thái, và môi 
trường sống của dân cư. Các trường hợp của 
công ty Formosa Hà Tĩnh (năm 2016) hay 
Vedan Việt Nam (năm 2008) là những 
trường hợp điển hình gây những thiệt hại lớn. 
2.3.4. Tác động tiêu cực đến các công 
ty trong nước. 
Sự đầu tư của Công ty đa quốc gia 
vào Việt Nam đã mang các mặt hàng kinh 
tế vào thị trường Việt Nam. Các mặt hàng 
này có thể có chất lượng cao hơn, giá thành 
rẻ hơn bởi vì họ dùng công nghệ cao hơn sẽ 
chèn ép, cạnh tranh với các mặt hàng trong 
nước, làm cho sức tiêu thụ của các mặt 
hàng trong nước giảm dần và dần thay thế 
các mặt hàng trong nước. Có thể thấy rõ 
điều này qua một số ngành nghề, lĩnh vực 
kinh doanh sau: 
- Ngành dịch vụ giao nhận vận tải, 
kho vận (logistics): Theo Hiệp hội doanh 
nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, Việt 
Nam có hơn 1.300 doanh nghiệp cung cấp 
dịch vụ logistics. Số doanh nghiệp nội địa 
chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp 
logistics ở Việt Nam nhưng chỉ chiếm gần 
25% thị phần. Số lượng các tập đoàn lớn 
trên thế giới xuất hiện và hoạt động ngày 
 45 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
càng nhiều (APL Logistics, Maersk 
Logistics, NYK Logistics, Schenker, 
BirKart, ) có nguồn tài chính mạnh, dồi 
dào, nguồn nhân lực chất lượng cao và 
chuyên nghiệp đang chiếm lĩnh tới 75% thị 
phần. Chính điều này sẽ gây sức ép cho các 
doanh nghiệp trong nước bởi áp lực cạnh 
tranh với các đối thủ rất lớn. 
- Ngành sản xuất nước giải khát: Khi 
chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thì Coca-
cola và Pepsi đã giảm giá về mức thấp nhất 
để hạ các đối thủ trong nước bởi họ có lợi 
thế về công nghệ, vốn lớn nên dễ dàng chấp 
nhận lỗ ban đầu, còn các doanh nghiệp 
trong nước thì nhỏ bé về tài chính, về công 
nghệ thì lạc hậu nên không cạnh tranh nổi. 
Sau khi giành được thị trường thì mặt hàng 
này lập tức tăng giá. 
- Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi: 
Trong thời gian vừa qua, việc công ty sản 
xuất thức ăn chăn nuôi của Trung Quốc là 
C.P Pokphand (CPP) mua và kiểm soát Công 
ty Cổ phần chăn nuôi Việt Nam dẫn đến mối 
lo ngại thị trường chăn nuôi bị nước ngoài 
thao túng. 
2.4. Một số kiến nghị và giải pháp 
- Tạo lập đối tác đầu tƣ trong nƣớc 
có năng lực, có khả năng hợp tác với 
nƣớc ngoài. Thực tiễn trong nhiều năm qua 
cho thấy, trong các liên doanh nước ngoài, 
nếu đối tác có năng lực, có vốn góp thì 
thường thu hút thêm được vốn mở rộng dự 
án đầu tư, ngược lại thì bị thu hẹp quy mô, 
phải chuyển hình thức đầu tư, hoặc bị rút 
giấy phép. Vì thế, Việt Nam cần phải tiếp 
tục củng cố, phát triển và xây dựng các tập 
đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích đầu tư 
phát triển của các thành phần kinh tế. 
Trong đó, việc xây dựng và phát triển các 
doanh nghiệp mạnh vừa có ý nghĩa trong 
việc thu hút, tiếp nhận đầu tư từ các MNC, 
vừa là cách tốt nhất để thực hiện đầu tư ra 
nước ngoài. 
- Phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế 
– kĩ thuật. Giải quyết tốt các mối quan hệ 
kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ 
chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế 
quốc tế để có được những khoản hỗ trợ 
phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào 
các đề án xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Xây 
dựng và phát triển các đặc khu kinh tế bao 
gồm: khu chế xuất, khu thương mại tự do, 
khu công nghệ cao với quy mô thích hợp 
để tiếp cận các nguồn vốn và kỹ thuật cao 
của nước ngoài. 
- Đẩy mạnh các biện pháp chống 
chuyển giá. 
+ Hoàn thiện hành lang pháp lý về 
chống chuyển giá, có những văn bản luật về 
chống chuyển giá được tách rời. Hoàn thiện 
quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng 
có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt 
động chống chuyển giá. 
+ Để hạn chế tình trạng chuyển giá, 
Nhà nước cần có những biện pháp giảm 
thiểu ưu đãi về thuế, song cần cân nhắc các 
cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh 
tế. Chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những 
trường hợp đó là hình thức có lợi nhất so 
với các hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn 
như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển kết 
cấu hạ tầng. 
+ Hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ 
liệu về người nộp thuế. Có hai việc quan 
trọng cần làm để hoàn thiện hệ thống 
thông tin, dữ liệu về người nộp thuế là: 
 46 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
Mở rộng nguồn thu thập thông tin bằng 
các hoạt động nghiệp vụ của các bộ phận 
chức năng trong cơ quan thuế mà đặc biệt 
là của bộ phận tình báo thuế. Đẩy nhanh 
tiến trình xây dựng chính phủ điện tử, đảm 
bảo sự kết nối và trao đổi thông tin tự 
động giữa cơ quan thuế và các cơ quan 
quản lý nhà nước khác. 
- Hạn chế tình trạng ô nhiễm môi 
trƣờng. 
Một là, tiến hành rà soát, đánh giá, 
khoanh vùng các nguồn thải lớn, rủi ro gây ra 
sự cố môi trường (quan trắc, lấy mẫu tự 
động, hồ điều hòa lưu giữ nước thải sau xử 
lý, sử dụng chỉ thị sinh học, camera tự động 
để giám sát). Tăng cường kiểm tra để kịp thời 
phát hiện những vi phạm pháp luật về bảo vệ 
môi trường cảnh báo nguy cơ gây ô nhiễm, 
sự cố môi trường, xử lý nghiêm theo quy 
định của pháp luật. 
 Hai là, xây dựng và ban hành quy 
chế ứng phó sự cố môi trường theo hướng 
quy định rõ quy trình, các bước thực hiện, 
trách nhiệm của các Bộ, ngành, cơ quan 
Trung ương và chính quyền địa phương theo 
hướng Trung ương chỉ đạo thống nhất và địa 
phương xây dựng năng lực tự ứng phó theo 
phương châm “ba tại chỗ” (nhân lực, thiết bị, 
nguồn lực). Quy chế này cũng được áp dụng 
cho việc xử lý các vấn đề ô nhiễm môi 
trường đang bùng phát cùng lúc ở nhiều địa 
phương trên cả nước. 
 Ba là, quán triệt quan điểm đầu tư phát 
triển bền vững, không đánh đổi môi trường 
để phát triển kinh tế, không thu hút đầu tư 
bằng mọi giá; cần xây dựng, hoàn thiện hệ 
thống chính sách, pháp luật, quy chuẩn, các 
hàng rào kỹ thuật để phòng ngừa, ngăn chặn, 
sàng lọc có hiệu quả, không để lọt các loại 
hình sản xuất, công nghệ sản xuất lạc hậu, 
các dự án đầu tư tiêu tốn tài nguyên, năng 
lượng, gây ô nhiễm môi trường vào nước ta, 
đặc biệt là vào các vùng, khu vực nhạy cảm 
về môi trường. 
 Bốn là, xem xét kiện toàn tổ chức bộ 
máy, tăng cường năng lực của cơ quan quản 
lý nhà nước về môi trường từ Trung ương 
đến địa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ 
ngày càng lớn, phức tạp và sự bùng phát các 
sự cố gây ô nhiễm môi trường. 
3. KẾT LUẬN 
Sự hình thành và phát triển của các 
công ty đa quốc gia là một tất yếu khách 
quan trong xu thế phát triển của kinh tế 
toàn cầu. Nó đóng vai trò rất quan trọng 
trong thúc đẩy thương mại quốc tế phát 
triển, đẩy nhanh quá trình khu vực hóa và 
toàn cầu hóa kinh tế thế giới, tăng cường 
hợp tác kinh tế giữa các quốc gia và càng 
quan trọng hơn với nước đang phát triển 
như Việt Nam. 
Việc nghiên cứu tác động của các 
công ty đa quốc gia cho thấy được tầm ảnh 
hưởng của chúng đến mọi mặt của nền kinh 
tế thế giới, đặc biệt là Việt Nam. Chính vì 
thế, Chính phủ, các ban ngành, các nhà 
hoạch định chiến lược cần phải chuẩn bị làm 
quen để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát 
huy mạnh mẽ những tác động tích cực, khắc 
phục dần những khó khăn, phải phối hợp 
chặt chẽ với nhau giảm thiểu các tác động 
tiêu cực của các công ty đa quốc gia đến 
Việt Nam để mang lại lợi ích lớn nhất cho 
đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường 
hội nhập sâu rộng. 
 47 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Huỳnh Thị Thúy Giang (2013), Quản trị tài chính công ty đa quốc gia, Nhà Xuất bản Đại 
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
2. Phan Duy Minh (2010), Quản trị tài chính công ty đa quốc gia, Nhà xuất bản Tài chính. 
3. Việt Tuấn (2017), Năm 2016 ngành Thuế thu NSNN đạt 884.399 tỷ đồng, vượt 9,3% dự 
toán, Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính – Thanh tra tài chính, 12/3/2017, 
KZwyX8JvJTGYpYznWxX5nVtJsTTWs0nSGlJWdwTwcjlKlcD1v!1890208324!212708
4389?dDocName=MOFUCM095496&dID=98845&_afrLoop=14843405202620580#!%4
0%40%3FdID%3D98845%26_afrLoop%3D14843405202620580%26dDocName%3DM
OFUCM095496%26_adf.ctrl-state%3Dmq6ena5za_4 
4. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tình hình đầu tư nước ngoài 12 tháng 
năm 2015, Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài, 30/20/2016, 
5. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tình hình đầu tư nước ngoài 12 tháng năm 
2016, Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài, 2/4/2017, 
6. Tổng cục Hải quan, Chỉ tiêu thống kê mới nhất, Hải quan Việt Nam, 15/4/2017, 
https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/SoLieuThongKe.aspx?Group=S%E
1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA 
7. Tổng cục thống kê, Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo thành 
phần kinh tế, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục thống kê, 20/3/2017, 
8. Hoàng Oanh (2017), Thanh tra chống chuyển giá tại 329 doanh nghiệp, Diễn đàn doanh 
nghiệp, 23/1/2017, 
105823.html 
9. World investment report 2016, United nations conference on trade and development, 
25/2/2017,  

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_cac_cong_ty_da_quoc_gia_den_nen_kinh_te_viet_na.pdf