Sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 1

Ca dao, tục ngữ Việt Nam là một kho tàng lý

luận phong phú của nhân dân ta trên tất cả các

lĩnh vực. Nó được ví như là cẩm nang, là kim chỉ

nam cho cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn và phát

triển của người Việt Nam khi ánh sáng khoa học

chân chính chưa đến với họ. Ở thời kỳ đó, tục

ngữ, ca dao đã có tác dụng nhất định trong lao

động sản xuất, trong đấu tranh chống thiên tai,

địch họa, khơi dậy tinh thần đoàn kết, góp phần

hình thành và phát triển nhân cách con người

Việt Nam. Cho đến nay, trong vốn tục ngữ, ca

dao của dân tộc vẫn còn nhiều khía cạnh bị coi là

lỗi thời, lạc hậu nhưng không phải là đa số.

Nhiều câu ca dao, tục ngữ vẫn còn nguyên giá trị,

nhân dân ta vẫn sử dụng chúng như những

phương tiện để nhận thức về thế giới, về cuộc

sống, coi đó là chân lý, là lẽ sống mặc dù cuộc

sống hiện tại đã là thời đại mới, thời đại văn

minh nhất của lịch sử nhân loại.

pdf 6 trang kimcuc 16140
Bạn đang xem tài liệu "Sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 1

Sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 1
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
113 
SƯU TẦM, VẬN DỤNG CA DAO, TỤC NGỮ VÀO GIẢNG DẠY 
HỌC PHẦN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN 1 
Lương Thị Lan Huệ1 
1Trường Đại học Quảng Bình 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 08/10/2015 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
01/12/2015 
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017 
Title: 
Applying folk songs and 
proverbs into Marxism-
Leninism teaching 
Keywords: 
Folk songs, proverbs, applying 
folk songs and proverbs into 
Marxism - Leninism teaching, 
philosophy teaching, collect 
folk songs 
Từ khóa: 
Ca dao, tục ngữ, vận dụng ca 
dao tục ngữ trong dạy học 
triết học, dạy học triết học, 
sưu tầm ca dao 
ABSTRACT 
Teaching philosophy by giving specific examples plays an important role in 
helping the learners combine philosophy’s principles closely with practical 
arguments. It is suggested that the lectures are becoming vivid and convinced 
among the learners through specific illustrations. As a result, students are 
becoming enjoyable to learn the subject and can enhance abilities to 
communicate, analyze, and manipulate philosophical thoughts into their real 
life. Regarding the issue, the paper aims to collect and apply folk songs and 
proverbs to improve the quality of philosophy teaching currently. 
TÓM TẮT 
Lấy ví dụ minh họa trong dạy học Triết học đóng vai trò đặc biệt quan trọng 
trong việc gắn kết chặt chẽ những quy luật triết học với những luận cứ thực 
tiễn. Thông qua các ví dụ minh họa làm cho bài giảng sinh động, có tính thuyết 
phục cao hơn. Qua đó, khơi dậy niềm say mê học tập cũng như rèn luyện cho 
sinh viên khả năng liên hệ, phân tích, vận dụng tư tưởng triết học vào thực tiễn 
cuộc sống. Trên cơ sở đó, bài viết sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ vào 
giảng dạy triết học nhằm nâng cao chất lượng dạy học Triết học hiện nay. 
1. MỞ ĐẦU 
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là một kho tàng lý 
luận phong phú của nhân dân ta trên tất cả các 
lĩnh vực. Nó được ví như là cẩm nang, là kim chỉ 
nam cho cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn và phát 
triển của người Việt Nam khi ánh sáng khoa học 
chân chính chưa đến với họ. Ở thời kỳ đó, tục 
ngữ, ca dao đã có tác dụng nhất định trong lao 
động sản xuất, trong đấu tranh chống thiên tai, 
địch họa, khơi dậy tinh thần đoàn kết, góp phần 
hình thành và phát triển nhân cách con người 
Việt Nam. Cho đến nay, trong vốn tục ngữ, ca 
dao của dân tộc vẫn còn nhiều khía cạnh bị coi là 
lỗi thời, lạc hậu nhưng không phải là đa số. 
Nhiều câu ca dao, tục ngữ vẫn còn nguyên giá trị, 
nhân dân ta vẫn sử dụng chúng như những 
phương tiện để nhận thức về thế giới, về cuộc 
sống, coi đó là chân lý, là lẽ sống mặc dù cuộc 
sống hiện tại đã là thời đại mới, thời đại văn 
minh nhất của lịch sử nhân loại. 
Trong những năm qua, dạy học lý luận chính trị 
đã có chuyển biến tích cực tuy nhiên vẫn còn 
nhiều yếu tố bất cập cần phải tiếp tục nghiên cứu 
và giải quyết. Một trong những bất cập, hạn chế 
của việc giảng dạy Triết học hiện nay là có một 
bộ phận không nhỏ giảng viên chưa có thói quen 
lấy ví dụ minh họa để làm cho bài giảng sinh 
động, thuyết phục hơn. Thực tiễn giảng dạy cho 
thấy, khi bài giảng không có sự gắn kết lý thuyết 
với thực tiễn thông qua các tư liệu, dẫn chứng, ít 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
114 
ví dụ minh họa dẫn đến bài giảng đơn điệu, sáo 
rỗng, nhàm chán. Mặc dù, triết học là hệ thống 
những quy luật chung nhưng các quy luật chung 
đó phải được thể hiện trong những cái cụ thể. Vì 
vậy cần phải gắn triết học với các chuyên ngành 
bằng những ví dụ, dẫn chứng cụ thể. Giảng viên 
phải là người đi đầu trong tự học, tự nghiên cứu, 
sưu tầm, tra cứu tài liệu và sử dụng các phương 
tiện dạy học. Văn học dân gian nói chung và ca 
dao, tục ngữ nói riêng là kho tư liệu quý, chứa 
đựng những tư tưởng triết học, tư duy biện chứng 
rất sâu sắc dễ tìm kiếm nhưng giảng viên chưa để 
tâm khai thác. 
Với mong muốn làm sáng tỏ thêm yếu tố triết 
học trong ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng như 
vận dụng vào giảng dạy Triết học, bài viết đã sưu 
tầm, tuyển chọn ca dao, tục ngữ thể hiện tư tưởng 
triết học của người Việt Nam. Hy vọng bài viết 
sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan 
tâm đến vấn đề này. 
2. NỘI DUNG 
2.1 Vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy 
môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ 
nghĩa Mác - Lênin 1 (phần Triết học) 
Dựa trên những nội dung kiến thức cơ bản của 
chương trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ 
nghĩa Mác - Lênin (phần Triết học) dành cho 
sinh viên hệ cao đẳng, đại học khối không 
chuyên ngành Mác - Lênin áp dụng từ năm học 
2007 - 2008, chúng tôi sưu tầm một số câu ca 
dao, tục ngữ để vận dụng vào giảng dạy Triết 
học. Cụ thể: 
2.1.1 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về 
quan điểm duy vật, quan điểm duy tâm 
trong triết học 
Việt Nam cũng giống như các dân tộc phương 
Đông khác, về mặt triết học thường ít bàn về thế 
giới quan mà chủ yếu bàn về nhân sinh quan. Do 
đó, vấn đề duy vật và duy tâm khá mờ nhạt so 
với triết học phương Tây. Một số câu ca dao, tục 
ngữ đã chứng minh rằng, từ xa xưa, người Việt ta 
đã có những câu hỏi và lý giải mang tính triết học 
rất cao. Những câu hỏi mà người Việt đặt ra 
trong quá trình tác động vào thế giới khách quan 
thường là vũ trụ này do đâu mà có? Tại sao có 
mưa, nắng, lũ lụt, biển cả? Tại sao sinh ra được 
muôn loài? 
Ví dụ như: 
Ai là người sinh ra mặt đất? 
Ai là người tạo ra bầu trời? 
Bà Chày sinh ra trời đất 
Ông Chày sinh ra bầu trời 
Từ xưa, ông cha ta đã có quan niệm mang tính 
duy vật sâu sắc, không viện dẫn đến thần linh khi 
cho rằng nguồn gốc của trời đất, muôn loài là do 
có sự hòa hợp, kết hợp giữa hai mặt đối lập khác 
biệt nam, nữ, âm, dương hợp thành. 
Non cao ai đắp mà cao? 
Sông kia ai bới, ai đào mà sâu? 
Nước non là nước non trời 
Ai ngăn được nước ai dời được sông? 
Mặc dù người dân chưa lý giải được nguồn gốc 
của vũ trụ nhưng có quan điểm duy vật khi cho 
rằng thế giới vật chất tồn tại khách quan, không 
do thần linh nào tạo ra, độc lập với ý thức con 
người. 
Mệnh do ngã lập, khúc do kỷ cầu. 
(Khẳng định vai trò làm chủ bản thân, làm chủ 
vận mệnh của mình. Số mình do mình tự tạo ra, 
hạnh phúc do mình tự tìm đến). 
Thức đêm mới biết đêm dài 
Lội sông mới biết sông nào cạn sâu. 
(Khuyên con người trong nhận thức và hoạt động 
cần phải bám sát thực tiễn, phải xuất phát từ thực 
tế khách quan). 
Bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật 
chất phác, người Việt xưa cũng có quan niệm 
mang tính duy tâm rõ nét khi thần thánh hóa sức 
mạnh của Trời. Đối với họ, Trời là một lực lượng 
siêu tự nhiên có thể thông hiểu cuộc sống con 
người, có sức mạnh vạn năng, chi phối cuộc sống 
con người. Theo quan niệm của người Việt thì 
Trời không phải là “đấng sáng tạo” mà chỉ là 
“bao công” luôn trừng trị kẻ xấu. Trời đóng vai 
trò phân xử, chi phối cuộc sống con người mà 
thôi. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
115 
Ai mà nói dối cùng ai, 
Thì trời giáng họa cây khoai giữa đồng. 
Từ chỗ cho rằng số phận con người không thể 
thay đổi được nên người dân nghèo có tư tưởng 
tự ti, an phận, thủ thường: 
Cây khô thì lá cũng khô, 
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo. 
Hoặc là: 
Người sang tại phận. 
(Quan niệm duy tâm về số phận con người, xem 
con người có số phận). 
Cha mẹ sinh con trời sinh tính. 
(Phủ nhận môi trường giáo dục gia đình, cho 
rằng tính người do trời định). 
2.1.2 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa tư 
tưởng biện chứng, tư tưởng siêu hình 
Từ xưa người Việt Nam đã có cách nhìn tổng thể 
về bức tranh sinh động của thế giới vật chất. Đó 
là tính thống nhất trong sự vận động, biến đổi và 
phát triển không ngừng của thế giới, đó là các sự 
vật luôn nằm trong mối quan hệ tác động qua lại 
lẫn nhau. Từ sự quan sát các hiện tượng tự nhiên 
trong đời sống thường ngày, người Việt Nam đã 
thấy được sự tác động qua lại giữa các sự vật 
hiện tượng, có sự ràng buộc nhất định giữa 
chúng. Đó chính là mối liên hệ phổ biến, tính 
nhân quả, sự vận động và phát triển không ngừng 
của thế giới tự nhiên, xã hội: 
 Có cây mới có dây leo. 
 Có cột có kèo mới có đòn tay. 
Hoặc là: 
Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. 
(Tư tưởng biện chứng, thời cuộc thay đổi, cuộc 
sống con người cũng thay đổi không có cái gì là 
vĩnh viễn). 
Nhập giang tuỳ khúc, 
Nhập gia tuỳ tục. 
(“Nhập giang” có nghĩa là lội xuống sông, “nhập 
gia” là vào nhà. Nghĩa là: Lội sông phải tuỳ 
khúc, vào nhà phải tuỳ tục. Hành động phải phù 
hợp với thực tế khách quan). 
Một người làm nên cả họ được cậy, 
Một người làm bậy cả họ mất nhờ. 
(Tư tưởng biện chứng, ý nói mối liên hệ lẫn nhau 
giữa các thành viên trong dòng họ). 
Gần lửa rát mặt. 
(Tư tưởng biện chứng cho rằng, con người luôn 
chịu ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh). 
Người có lúc vinh lúc nhục, 
Nước có lúc đục lúc trong. 
(Sự vật hiện tượng luôn thay đổi, không có cái gì 
là bất biến). 
Nhờ có phương pháp tư duy biện chứng và khả 
năng quan sát tinh tế mà người Việt Nam đã đúc 
rút được kinh nghiệm, dự đoán về thời tiết, khí 
hậu khá chính xác nhằm phục vụ cho lao động 
sản xuất và cuộc sống của mình. Mặt khác, tư 
duy biện chứng giúp cho họ thích nghi với hoàn 
cảnh, hạn chế đến một mức độ nhất định thiệt hại 
do hiện tượng tự nhiên gây ra. 
Trong vốn ca dao, tục ngữ dân tộc, còn có rất 
nhiều câu thể hiện tư tưởng duy tâm, siêu hình, 
nó phản ánh đời sống thực tiễn của xã hội thối 
nát, bất công trong chế độ phong kiến. 
Ngắn tay với chẳng tới trời. 
(Quan hệ xã hội phong kiến thối nát, bất bình 
đẳng. Thân phận những người nghèo khổ bị oan 
ức không thể bày tỏ được với người có quyền 
lực). 
Hoặc là: 
Thân ai nấy lo, phận ai nấy giữ. 
Đèn nhà ai nấy rạng. 
(Tư tưởng siêu hình, sống chỉ biết bản thân mình, 
không có mối liên hệ, quan tâm tới người khác). 
2.1.3 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về các 
phạm trù, quy luật triết học 
Qua quá trình lao động, người Việt hiểu rằng, 
không chỉ có thế giới tự nhiên mới có mối liên 
hệ, ảnh hưởng qua lại mà ngay trong đời sống xã 
hội cũng diễn ra vô số sự tác động qua lại chằng 
chịt lẫn nhau. Bằng việc quan sát những hiện 
tượng riêng lẻ rồi đi đến phán đoán những thuộc 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
116 
tính, đặc điểm mang tính bản chất, quy luật vận 
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Người 
Việt Nam đã phản ánh được một số khía cạnh, 
biểu hiện của các phạm trù, quy luật cơ bản của 
phép biện chứng duy vật như quy luật lượng chất, 
quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ định của phủ 
định. 
Xấu chữ nhưng lành nghĩa. 
(Nói về mối quan hệ đối lập, mâu thuẫn giữa bản 
chất và hiện tượng. Bề ngoài xấu xí, ăn nói 
không khéo nhưng bản chất tốt). 
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, 
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. 
(Nói về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. 
Trong mối quan hệ đó người Việt coi trọng vẻ 
đẹp tâm hồn - nội dung hơn là vẻ đẹp bên ngoài - 
hình thức). 
Con người có cố có ông, 
Như cây có cội như sông có nguồn. 
(Nói về mối quan hệ nhân quả. Hệ thống gia đình 
từ tổ, tông, cố ông... như cây có gốc như sông có 
nguồn nên cần phải biết ơn dòng họ, tổ tông, ông 
bà). 
Nguồn đục, dòng cũng đục. 
(Giải thích sự vận động của vật chất có nguyên 
nhân và kết quả). 
Nước chảy chỗ trũng. 
(Nói về phạm trù tất nhiên, nước bao giờ cũng 
chảy xuống chỗ sâu). 
Tích tiểu thành đại; 
Kiến tha lâu đầy tổ; 
Có công mài sắt có ngày nên kim; 
Một cây làm chẳng nên non 
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao. 
(Quá trình tích tụ về lượng dẫn đến sự biến đổi 
về chất). 
Tức nước vỡ bờ. 
Con giun xéo lắm cũng oằn. 
(Khi mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sẽ dẫn đến đấu 
tranh để giải quyết mâu thuẫn). 
Được người mua, thua người bán; 
Được lòng ta xót xa lòng người. 
(Quan hệ mâu thuẫn, được cái này thì mất cái 
kia). 
Trách người một, trách ta mười, 
Bởi ta tệ trước nên người bạc sau. 
(Cách nhìn nhận nguyên nhân dẫn đến mâu 
thuẫn, không nên vội đổ lỗi cho người khác, hãy 
xem lại bản thân mình). 
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. 
(Cần thấy rõ sai sót, khuyết điểm của mình rồi 
mới nói đến khuyết điểm, sai sót của người khác. 
Tự phê bình rồi mới phê bình người khác). 
Hậu sinh khả úy. 
(Thế hệ sau giỏi giang hơn thế hệ trước. Câu này 
nói lên quy luật vận động và phát triển của thế 
giới vật chất. Cái mới ra đời bao giờ cũng tiến bộ 
hơn cái cũ do nó kế thừa những yếu tố hợp lý, 
tiến bộ của cái cũ và loại bỏ đi yếu tố lạc hậu của 
cái cũ). 
Tre già măng mọc. 
(Nói đến sự phủ định trong tự nhiên và phủ định 
trong xã hội). 
Không thầy đố mày làm nên; 
Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh; 
Cha nào con nấy; 
Giỏ nhà ai quai nhà nấy. 
(Nói về tính kế thừa trong sự phát triển của sự vật 
hiện tượng). 
2.1.4 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về 
nhận thức và thực tiễn 
Anh tưởng giếng nước sâu, 
Anh nối sợi gầu dài, 
Ai ngờ giếng nước cạn, 
Anh tiếc hoài sợi dây. 
(Nhận thức phải là một quá trình, đôi khi con 
người mắc phải sai lầm trong nhận thức). 
Học khôn học đến chết, học nết học đến già; 
Ông bảy mươi học ông bảy mốt. 
(Người Việt quan niệm học là để làm người nên 
việc học tập phải xảy ra suốt đời). 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
117 
Dốt đến đâu học lâu cũng biết. 
(Quan niệm tiến bộ về nhận thức cho rằng, nếu 
chúng ta cần cù chịu khó, miệt mài học tập sẽ 
hiểu biết được nhiều kiến thức). 
Thánh cũng có khi nhầm. 
(Người Việt quan niệm nhận thức của con người 
mang tính tương đối, do đó không nên đánh giá 
con người một cách toàn bích). 
Non cao cũng có người trèo, 
Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi. 
(Không có cái gì là con người không làm được). 
Ai ơi đã quyết thi hành, 
Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây. 
(Khi đã làm thì kiên quyết không dao động, 
quyết làm cho bằng được). 
Lên non mới biết non cao, 
Lội sống mới biết sông nào cạn sâu. 
(Trong nhận thức phải lấy thực tiễn làm thước đo 
chân lý). 
Có thực mới vực được đạo; 
Có bột mới gột nên hồ. 
(Quan niệm duy vật, tôn trọng thực tiễn, nhận 
thức phải dựa vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm 
thước đo chân lý). 
Trăm hay không bằng tay quen; 
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. 
(Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức, trong 
mối quan hệ đó, thực tiễn đóng vai trò quyết 
định). 
Học hay cày giỏi 
(Mục đích của nhận thức là để phục vụ thực tiễn, 
trong nền nông nghiệp lúa nước, học tập là để có 
tri thức ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp 
nhằm nâng cao năng suất lao động). 
2.1.5 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về vai 
trò của sản xuất vật chất, lực lượng sản 
xuất, quan hệ sản xuất 
Có làm thì mới có ăn, 
Không dưng ai dễ đem phần đến cho. 
(Tầm quan trọng của sản xuất vật chất, của lao 
động; lao động làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu 
sinh tồn và phát triển của con người, xã hội loài 
người). 
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. 
(Nói về thứ tự tầm quan trọng của các yếu tố 
tham gia trong quá trình sản xuất trong nền nông 
nghiệp lúa nước). 
Muốn ăn cá cả, phải thả câu dài. 
(Trong lao động sản xuất muốn nâng cao chất 
lượng sản phẩm cần phải đầu tư công cụ lao 
động). 
Khi khó thì chẳng ai nhìn, 
Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em. 
(Mối quan hệ giữa con người với con người trong 
xã hội, mối quan hệ này bị yếu tố vật chất, kinh 
tế chi phối). 
2.1.6 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về vấn 
đề con người, vai trò của quần chúng 
nhân dân trong lịch sử 
Từ xưa ông cha ta cũng quan niệm rằng, con 
người luôn nằm trong vòng sinh, tử, có quá trình 
sinh ra, tồn tại và mất đi. 
Tre già, măng mọc. 
Hoặc là: 
Rắn già rắn lột, người già, người tọt vô xăng. 
Khi bàn về số phận con người, người Việt Nam 
có hai quan niệm trái ngược nhau. Có quan niệm 
giàu, nghèo, sống, chết của con người là do trời 
sắp đặt. Họ tin con người có số phận, phận do 
trời phú, sống chết có mệnh giàu sang tại trời: 
Sống chất có mệnh, giàu sang tại trời. 
Đối lập với quan điểm “mệnh trời”, “số trời đã 
định” là quan niệm cho rằng, sống chết là việc 
của con người, không liên quan gì đến trời. Thậm 
chí con người còn thắng cả sự khắc nghiệt của 
trời, của thế giới tự nhiên “nhân định thắng 
thiên”. Theo quan niệm này, trời chỉ là hiện 
tượng tự nhiên mà thôi, số phận con người do 
chính con người tạo ra: 
 Ai cũng tạo nên số phận của mình. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 113 – 118 
118 
Người Việt Nam thấy được tính ưu việt của con 
người so với các sự vật hiện tượng khác. Trong 
thế giới vật chất, con người là cái quý nhất, tinh 
túy nhất mà tạo hóa ban cho: 
Người là hoa của đất. 
(Trong thế giới vật chất, con người là cái quý 
nhất, tinh túy nhất). 
Năm ngón tay, có ngón ngắn, ngón dài. 
(Con người không ai giống ai, mỗi người có một 
nhân cách, đời sống nội tâm riêng). 
Người mà vô lễ khác gì muông dê. 
(Coi trọng lễ nghĩa, phép tắc. Nếu con người 
không có lễ, ứng xử không phù hợp, không đúng 
đắn thì chẳng khác gì cầm thú). 
Tứ hải giai huynh đệ. 
(Yêu thương con người đồng loại. Người trong 
bốn biển đều là anh em). 
Giàu nhân nghĩa hãy giữ cho giàu, khó tiền 
bạc chớ cho rằng khó; 
Hai chữ tài sắc thì để dưới đất, hai chữ than 
nghĩa thì cất lên tra. 
(Tư tưởng coi trọng nhân nghĩa, trong mối quan 
hệ nhân nghĩa với tiền tài, sắc đẹp thì nhân nghĩa 
là quan trọng nhất). 
Quan nhất thời, dân vạn đại. 
(Tư tưởng coi trọng quần chúng nhân dân). 
Qua đó thấy rằng, quan niệm về con người của 
người Việt Nam vừa chịu sự quy định của điều 
kiện kinh tế - xã hội còn thấp kém, trình độ nhận 
thức của người dân còn hạn chế; mặt khác cũng 
chứng tỏ, người Việt Nam cũng đã vươn lên để 
khẳng định vai trò, vị trí của mình trước thế giới 
tự nhiên. 
2.2 Một số lưu ý khi vận dụng ca dao, tục 
ngữ vào giảng dạy Triết học 
Thứ nhất, kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam 
phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Vì 
vậy, giảng viên cần linh hoạt khi vận dụng, kết 
hợp với nhiều phương pháp dạy học tích cực như 
đàm thoại, thảo luận, đề án để tăng hiệu quả khai 
thác thông tin thể hiện trong mỗi câu ca dao, tục 
ngữ. 
Thứ hai, không nên tuyệt đối vào vai trò của ca 
dao, tục ngữ trong liên hệ thực tiễn. Nghĩa là, 
giảng viên không nên lạm dụng quá nhiều vào 
trích dẫn ca dao, tục ngữ trong các giờ giảng vì 
như thế sẽ dẫn đến nhàm chán, đơn điệu. 
Thứ ba, giảng viên nên căn cứ vào nội dung bài 
học để lựa chọn những câu ca dao, tục ngữ tiêu 
biểu vừa làm sáng tỏ nội dung bài học, vừa gần 
gũi với sinh viên. 
3. KẾT LUẬN 
Ca dao, tục ngữ có giá trị to lớn trong đời sống 
của nhân dân ta ở nhiều phương diện khác nhau. 
Trên thực tế, nó đã trở thành công cụ hữu hiệu để 
nhận thức, cải tạo thế giới và chính bản thân 
người nông dân trong nền nông nghiệp lúa nước. 
Mặc dù thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật đã 
tiến bộ hơn rất nhiều, hiểu biết của con người 
ngày càng mở rộng và sâu sắc nhưng những giá 
trị nhân văn và bài học về tính triết lý làm người 
trong kho tàng ca dao, tục ngữ vẫn còn nguyên 
giá trị. Sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ là 
một phương pháp, cách thức liên hệ thực tiễn hết 
sức sống động, dễ đi vào lòng người trong dạy 
học Triết học nhằm góp phần nâng cao chất 
lượng dạy học Triết học hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Chu Xuân Diên. (1975). Tục ngữ Việt Nam. Hà 
Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 
Đinh Gia Khánh. (2000). Văn học dân gian Việt 
Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 
Nguyễn Lân. (2014). Từ điển thành ngữ, tục ngữ, 
ca dao Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn 
học. 
Nguyễn Tiến Thông (chủ biên). (2009). Giáo 
trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa 
Mác - Lênin. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị 
Quốc gia. 
Nguyễn Tài Thư. (1993). Lịch sử triết học Việt 
Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 

File đính kèm:

  • pdfsuu_tam_van_dung_ca_dao_tuc_ngu_vao_giang_day_hoc_phan_nhung.pdf