Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cách mạng tháng tám 1945 - Minh chứng của triết lý Hồ Chí Minh về chủ thể chính trị

Trong hệ thống triết lý chính trị Hồ Chí Minh, triết lý về chủ thể chính trị chiếm vị

trí quan trọng. Nó trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người thực hiện trên con đường

đạt đến các giá trị đích thực của một nền chính trị? Triết lý Hồ Chí Minh về chủ

thể chính trị của cách mạng Việt Nam là người dân, là nhân dân. Sức mạnh của

nhân dân là vô địch. Triết lý đó được minh chứng rõ ràng trong cuộc Cách mạng

Tháng Tám 1945 và sau này đã trở thành nền tảng lý luận cách mạng của Đảng

Cộng sản Việt Nam.

pdf 6 trang kimcuc 16160
Bạn đang xem tài liệu "Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cách mạng tháng tám 1945 - Minh chứng của triết lý Hồ Chí Minh về chủ thể chính trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cách mạng tháng tám 1945 - Minh chứng của triết lý Hồ Chí Minh về chủ thể chính trị

Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cách mạng tháng tám 1945 - Minh chứng của triết lý Hồ Chí Minh về chủ thể chính trị
58 
CHUYÊN MỤC 
SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO 
SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN 
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 - MINH CHỨNG 
CỦA TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ THỂ CHÍNH TRỊ 
PHAN DUY ANH 
BÙI THANH XUÂN 
Trong hệ thống triết lý chính trị Hồ Chí Minh, triết lý về chủ thể chính trị chiếm vị 
trí quan trọng. Nó trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người thực hiện trên con đường 
đạt đến các giá trị đích thực của một nền chính trị? Triết lý Hồ Chí Minh về chủ 
thể chính trị của cách mạng Việt Nam là người dân, là nhân dân. Sức mạnh của 
nhân dân là vô địch. Triết lý đó được minh chứng rõ ràng trong cuộc Cách mạng 
Tháng Tám 1945 và sau này đã trở thành nền tảng lý luận cách mạng của Đảng 
Cộng sản Việt Nam. 
1. TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ 
THỂ CHÍNH TRỊ 
Trong suốt cuộc đời cách mạng, Hồ 
Chí Minh rất coi trọng mỗi cá nhân 
con người. Với Hồ Chí Minh, con 
người chính là chủ thể của chính trị, 
chủ thể của cách mạng, chủ thể của 
công cuộc đổi mới, bởi “vô luận việc 
gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ 
đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” (Hồ 
Chí Minh toàn tập, tập 5, 2011, tr. 
281). 
Nhưng ở Hồ Chí Minh, không có con 
người trừu tượng, mà con người 
chính là nhân dân. Tùy từng thời điểm 
lịch sử, gắn với hoàn cảnh cụ thể, 
Người dùng những cụm từ khác nhau 
để chỉ con người, người dân và xem 
xét nó trên những bình diện, trong 
những chiều cạnh khác nhau của các 
mối quan hệ xã hội, với tâm niệm 
“Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu 
trời không gì quý bằng nhân dân” (Hồ 
Chí Minh toàn tập, tập 10, 2011, tr. 
453). Người thường xuyên dùng chữ 
dân với nghĩa là nhân dân, đồng bào, 
Phan Duy Anh. Thạc sĩ. Trường Đại học 
Thủ Dầu Một. 
Bùi Thanh Xuân. Thạc sĩ. Trường Đại học 
Thủ Dầu Một. 
PHAN DUY ANH - BÙI THANH XUÂN – SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN 
59 
quần chúng, dân chúng, là toàn dân 
tộc Việt Nam, không phân biệt gái trai, 
giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc trên đất 
nước Việt Nam, chỉ trừ những kẻ đi 
ngược lại quyền lợi của Tổ quốc. 
Hồ Chí Minh tin tưởng vào sức mạnh, 
tính chủ động và sáng tạo của quần 
chúng nhân dân. Người khẳng định: 
“Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng 
ống nào cũng không chống lại nổi” 
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, 2011, tr. 
297). Ảnh hưởng bởi tư tưởng của 
Mác-Lênin, trong quan niệm của 
Người, quần chúng nhân dân là người 
sáng tạo ra lịch sử thông qua các hoạt 
động thực tiễn cơ bản nhất như lao 
động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã 
hội và sáng tạo các giá trị văn hóa tinh 
thần: “Tất cả của cải, vật chất trong xã 
hội đều do công nhân và nông dân 
làm ra. Nhờ sức lao động của công 
nhân và nông dân, xã hội mới sống 
còn và phát triển” (Hồ Chí Minh toàn 
tập, tập 8, 2011, tr. 247). Hồ Chí Minh 
còn chỉ rõ: “Có người thường coi dân 
là dốt không biết gì, mình là thông thái 
tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi 
dân chúng, không thèm bàn bạc với 
dân chúng. Đó là một sự sai lầm nguy 
hiểm lắm. Ai có sai lầm đó, phải mau 
chóng sửa đổi. Nếu không sẽ luôn 
luôn thất bại. Chúng ta phải biết rằng: 
Lực lượng của dân chúng nhiều vô 
cùng Dân chúng biết giải quyết 
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau 
chóng, đầy đủ, mà những người tài 
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi 
không ra” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, 
2011, tr. 335). Như vậy, với Hồ Chí 
Minh, nhân dân thực sự là một nhà 
thông thái, vì tai mắt họ nhiều, việc gì 
họ cũng nghe, cũng thấy nên có rất 
nhiều cách nghĩ hay, có thể giải quyết 
thông suốt công việc. 
Một nguyên lý chính trị mà Hồ Chí 
Minh luôn căn dặn những cán bộ lãnh 
đạo: “cách mạng là sự nghiệp của 
quần chúng, chứ không phải là sự 
nghiệp của cá nhân anh hùng nào” 
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, 2011, tr. 
672), “không có lực lượng của nhân 
dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm 
cũng không xong”, “dễ mười lần 
không dân cũng chịu. Khó trăm lần 
dân liệu cũng xong” (Hồ Chí Minh toàn 
tập, tập 15, 2011, tr. 280), “dân chúng 
đồng lòng, việc gì cũng làm được. 
Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng 
không nên” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 
5, 2011, tr. 333). Theo Hồ Chí Minh, 
quần chúng nhân dân là động lực to 
lớn nhất, đóng vai trò quyết định nhất 
đối với mọi thắng lợi của cách mạng 
và do đó mà phải “đem tài dân, sức 
dân, của dân, làm lợi cho dân”. Có thể 
thấy, với Hồ Chí Minh, toàn thể nhân 
dân Việt Nam chính là cấp độ rộng lớn 
nhất của chủ thể chính trị. 
Nhưng xét ở cấp độ sâu hơn, khi Hồ 
Chí Minh giải thích “nhân dân là bốn 
giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư 
sản dân tộc và những phần tử khác 
yêu nước” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 
8, 2011, tr. 268) thì Người xác định 
công - nông là “gốc”, là “chủ” của cách 
mạng, là chủ của hoạt động chính trị. 
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản 
(1923), Hồ Chí Minh đã sớm xác định 
“tuyên truyền tốt trong nông dân và tổ 
chức tốt trong công nhân, nếu chúng 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (204) 2015 
60 
ta làm được điều đó thì tương lai 
thuộc về chúng ta” (Hồ Chí Minh toàn 
tập, tập 2, 2011, tr. 223). Trong Đường 
kách mệnh, quan điểm này của Hồ 
Chí Minh càng được khẳng định rõ 
ràng hơn: “công nông là người chủ 
cách mệnh. 1) Là vì công nông bị áp 
bức nặng hơn, 2) Là vì công nông 
đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, 
3) Là vì công nông là tay không chân 
rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp 
khổ, nếu được thì được cả thế giới, 
cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, 
nên công nông là gốc cách mệnh” (Hồ 
Chí Minh toàn tập, tập 2, 2011, tr. 
288). 
Khi xét chủ thể chính trị dưới chiều sâu 
giai cấp, có thể thấy, triết lý của Hồ 
Chí Minh đi từ cấp độ chung nhất – 
toàn dân, đến cấp độ sâu hơn – giai 
cấp. Hồ Chí Minh cho rằng mỗi con 
người cá thể sống trong dân tộc, giai 
cấp phải quan tâm đến lợi ích dân tộc, 
lợi ích giai cấp. Nhưng trong hoàn 
cảnh dân tộc bị áp bức, nhân dân 
sống trong cảnh lầm than nô lệ thì lợi 
ích của dân tộc phải được đặt lên trên 
hết. Mỗi con người dù là thành viên 
của giai cấp nào cũng phải có nghĩa 
vụ thiêng liêng cứu nước, cứu dân. 
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, sự nghiệp 
giải phóng giai cấp công nhân hoàn 
toàn phụ thuộc vào sự nghiệp giải 
phóng dân tộc. Sự nghiệp giải phóng 
dân tộc không hoàn thành thì muôn 
đời giai cấp cũng không giải phóng 
được. 
Trong triết lý của Hồ Chí Minh về con 
người với tư cách là chủ thể chính trị, 
thì không phải nói về từng con người 
đơn lẻ, những cá nhân “thuần túy”. 
Khi Hồ Chí Minh nói “vô luận việc gì 
đều do con người làm ra, từ nhỏ đến 
to, từ gần đến xa, đều thế cả” là 
Người nói đến cộng đồng người, cộng 
đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp. 
Niềm tin của Hồ Chí Minh vào con 
người chủ yếu và trước hết là vào sức 
mạnh cộng đồng nhân dân, của sự 
tập hợp đông đảo mọi thành phần dân 
tộc, mọi tầng lớp xã hội, mọi giai cấp 
vào việc thực hiện các mục tiêu cách 
mạng. 
Tóm lại, cuộc đời Hồ Chí Minh luôn vì 
con người, trực tiếp là dân tộc mình. 
Theo Người, sự giải phóng cho con 
người phụ thuộc vào sự giải phóng 
dân tộc và giai cấp. Chủ thể của sự 
giải phóng, chủ thể của chính trị là 
bản thân con người, hay nói rộng ra là 
bản thân nhân dân với tư cách là 
cộng đồng người giác ngộ lý tưởng, 
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, đoàn 
kết chặt chẽ thành một khối. Triết lý 
về chủ thể chính trị của Hồ Chí Minh 
là con người làm nên tất cả, sức 
mạnh của nhân dân là sức mạnh vô 
địch: “Gốc có vững cây mới bền. Xây 
lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Hồ 
Chí Minh toàn tập, tập 5, 2011, tr. 
502). Quan điểm này của Hồ Chí Minh 
đã được Đảng Cộng sản Việt Nam 
vận dụng hết sức thành công qua các 
thời kỳ của cách mạng Việt Nam, bắt 
đầu từ Cách mạng Tháng Tám năm 
1945. 
2. ĐẠI ĐOÀN KẾT – QUYỀN LỰC 
THỰC SỰ CỦA CHỦ THỂ CHÍNH 
TRỊ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 
TÁM 1945 
PHAN DUY ANH - BÙI THANH XUÂN – SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN 
61 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là 
kết quả của cuộc vận động cách mạng 
từ trước đó của Đảng Cộng sản Việt 
Nam và Hồ Chí Minh, được đánh dấu 
từ Hội nghị lần thứ 6 (11/1939), đặc 
biệt là Hội nghị lần thứ 8 (5/1941) của 
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do 
Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì. Các hội 
nghị này đã đề ra chủ trương chuyển 
hướng chiến lược cách mạng phù 
hợp với tình hình mới. Dưới ách thống 
trị của cả Pháp và Nhật, quyền lợi của 
tất cả các giai cấp đều bị chiếm đoạt, 
vận mệnh dân tộc đen tối hơn bao giờ 
hết. Pháp - Nhật không chỉ là kẻ thù 
của công nông mà là kẻ thù của toàn 
dân tộc. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt 
Nam cho rằng cuộc đấu tranh của 
nhân dân Việt Nam không phải đồng 
thời giải quyết cả hai nhiệm vụ chống 
đế quốc và phong kiến như trước nữa, 
mà là cuộc cách mạng giải phóng dân 
tộc nhằm giải quyết một vấn đề cần 
kíp là đánh đổ đế quốc và tay sai, 
giành độc lập, tự do. Sau khi đánh 
đuổi Pháp - Nhật sẽ thành lập một nhà 
nước dân tộc theo thể chế cộng hòa – 
một nhà nước của dân, do dân, vì dân. 
Nhà nước đó không thuộc quyền riêng 
của công - nông mà là của chung cả 
dân tộc. Sự chuyển hướng chiến lược 
này là một quyết sách đúng đắn, kịp 
thời của Đảng Cộng sản dưới sự dẫn 
dắt của Hồ Chí Minh. Dựa trên chủ 
trương chuyển hướng chiến lược này, 
Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh đã có 
sự chuyển hướng trong xây dựng lực 
lượng, trong phương thức và nghệ 
thuật khởi nghĩa, hướng đến cuộc 
khởi nghĩa toàn dân, phát huy sức 
mạnh toàn dân. Việc chuẩn bị lực 
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, 
đặc biệt là đạo quân chính trị quần 
chúng có ý nghĩa rất cơ bản; bởi nhiệm 
vụ đánh đuổi Pháp - Nhật không phải 
là nhiệm vụ của riêng thợ thuyền và 
dân cày, mà là nhiệm vụ chung của cả 
dân tộc, không phân biệt giai cấp, dân 
tộc, tôn giáo 
Ngày 6/6/1941, Hồ Chí Minh đã gửi 
một bức thư thống thiết kêu gọi các 
bậc phụ huynh, các hiền sĩ, chí sĩ, các 
bậc phú hào yêu nước, giới công, 
nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công 
chức, tiểu thương – hãy đoàn kết lại 
để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai. 
Trong thư có đoạn viết: “Trong lúc này 
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn 
hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết đánh 
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng 
cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa 
bỏng. Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu 
quốc là việc chung. Ai là người Việt 
Nam đều phải kề vai gánh vác một 
phần trách nhiệm: người có tiền góp 
tiền, người có của góp của, người có 
sức góp sức, người có tài năng góp 
tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết 
tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào 
mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy 
sinh tính mệnh cũng không nề”. 
Cùng với việc chuẩn bị lực lượng, 
Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh đã 
quyết định thành lập Mặt trận dân tộc 
thống nhất rộng rãi có sức lôi cuốn 
mạnh mẽ lực lượng yêu nước trong 
toàn dân – Đó là tổ chức Việt Nam 
Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt 
Minh. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân 
được tổ chức vào các hội cứu quốc. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (204) 2015 
62 
Đối với các bậc kỳ hào, địa chủ, tư 
sản, Đảng đã có sự đánh giá khách 
quan về năng lực phản đế, tinh thần 
dân tộc của họ và tổ chức họ vào Việt 
Nam Cứu quốc hội. Có thể nói sự 
chuyển hướng chiến lược của Đảng 
và Hồ Chí Minh đã xác định đúng mâu 
thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc 
bấy giờ, xác định đúng kẻ thù, xác 
định đúng nhiệm vụ cách mạng, từ đó 
huy động được toàn dân tham gia vào 
cao trào kháng chiến rộng lớn. 
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc 
ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy 
đứng dậy đem sức ta mà tự giải 
phóng cho ta”. Đó là lời hiệu triệu đầy 
sức mạnh và thiêng liêng của Hồ Chí 
Minh trong Thư kêu gọi đồng bào và 
chiến sĩ cả nước được phát ra từ Đại 
hội Quốc dân Tân Trào, ngày 
16/8/1945. 
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí 
Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 
hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam đã 
nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành 
chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các 
đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ 
nhiều đồn Nhật trên địa bàn các tỉnh 
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, 
Tuyên Quang, Yên Bái và hỗ trợ 
cho quần chúng tiến hành khởi nghĩa 
giành chính quyền. Ngày 18/8/1945, 
nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải 
Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh 
Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh 
Hòa đã nổi dậy giành chính quyền ở 
tỉnh lỵ. 
Ngày 19/8/1945, dưới sự lãnh đạo 
của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn 
quần chúng sau khi dự mít-tinh đã 
rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần 
hành và mau chóng tỏa đi các hướng 
chiếm Phủ Khâm Sai, Tòa Thị Chính, 
Trại lính Bảo An, Sở Cảnh sát và các 
công sở khác của chính quyền bù 
nhìn. Trước sức mạnh áp đảo của các 
tầng lớp nhân dân Hà Nội và các tỉnh 
lân cận, quân Nhật mau chóng bị tê 
liệt, không dám chống cự, chính 
quyền nhanh chóng về tay người dân. 
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành 
chính quyền ở Hà Nội ngày 19/8/1945 
có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi 
của tổng khởi nghĩa trong cả nước, cổ 
vũ mạnh mẽ nhân dân khắp nơi nổi 
dậy giành chính quyền. Ngày 
23/8/1945, cuộc khởi nghĩa giành 
chính quyền ở Huế thắng lợi. Ngày 
25/8/1945, khởi nghĩa giành chính 
quyền ở Sài Gòn thành công. Sức 
mạnh của nhân dân đã làm nên chiến 
thắng kỳ diệu, chỉ trong vòng 15 ngày 
(từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945) cuộc 
Tổng khởi nghĩa đã toàn thắng trên cả 
nước. Lần đầu tiên trong lịch sử dân 
tộc, chính quyền đã về tay nhân dân, 
thể hiện sức mạnh vô địch của khối 
đại đoàn kết toàn dân tộc. 
3. SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT 
TOÀN DÂN – MỘT GIÁ TRỊ TƯƠNG 
LAI 
Cách mạng Tháng Tám 1945 đã đem 
lại bài học kinh nghiệm c ực kỳ quý 
báu về xây dựng khối đại đoàn kết 
toàn dân tộc . Đoàn kết vốn là một 
truyền thống quý báu trong lịch sử 
dựng nước và giữ nước hàng nghìn 
năm của dân tộc ta. Đoàn kết giờ 
cũng trở thành một giá trị tiêu biểu 
PHAN DUY ANH - BÙI THANH XUÂN – SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN 
63 
trong nền văn hóa chính trị Việt Nam 
hiện đại. 
Tuy vậy , đoàn kết không phải là điều 
hiển nhiên , cho dù đã trở thành một 
quy luật phát triển của lịch sử Việt 
Nam. Có nhiều nguyên nhân có thể 
gây trở ngại tinh thần đại đoàn kết 
toàn dân tộc : 1) Nước Việt Nam xưa 
nay là đất nước đa tộc người, trong 
đó có những tộc người xuyên biên 
giới, nên nguy cơ phân biệt, chia rẽ, 
mất đoàn kết luôn có thể xảy ra; 2) 
Bản sắc văn hóa Việt Nam đa dạng, 
phong phú, đa tín ngưỡng, đa tôn 
giáo, nên có những khác biệt về văn 
hóa, tín ngưỡng, tôn giáo giữa các tộc 
người và giữa các vùng miền. Những 
khác biệt về tộc người, tôn giáo và 
văn hóa ấy có thể kết hợp với những 
mâu thuẫn xã hội giữa các giai cấp, 
các nhóm người khác nhau, tạo nên 
tình trạng xung đột trong những hoàn 
cảnh lịch sử nhất định; 3) Sau khi Việt 
Nam bị thực dân Pháp xâm lược (từ 
giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX), 
Pháp đã thi hành chính sách dùng 
người Việt trị người Việt gây xói mòn 
khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày nay 
khi đất nước đã thống nhất, thì di sản 
của thời kỳ bị “chia để trị” chưa phải 
đã hoàn toàn bị xóa nhòa. 
Thực tế lịch sử ấy đã chỉ ra rằng để
đạt được sự đoàn kết dân tộc và 
thống nhất đất nước không phải là 
điều dễ dàng. Nhưng lịch sử chống 
ngoại xâm và xây dựng đất nước từ 
xưa đến nay cũng mang lại một bài 
học quý giá là: chỉ khi nào khối đại 
đoàn kết dân tộc được củng cố vững 
chắc thì nội lực dân tộc mới có cơ hội 
phát huy tốt , đất nước mới trở nên 
thái bình, thịnh trị, dân chúng yên vui , 
hạnh phúc . Tổng kết kinh nghiệm lịch 
sử dân tộc ấy , từ năm 1942, trong 
Lịch sử nước ta Hồ Chí Minh đã 
khẳng định rằng: “Dân ta phải biết s ử 
ta. Sử ta dạy cho ta bài học khi nào 
dân ta đoàn kết thì độc lập nư ớc ta 
được giữ vững, khi nào dân ta không 
đoàn kết thì độc lập nư ớc ta có nguy 
cơ bị xâm phạm”. 
Ngày nay, nước Việt Nam vừa đứng 
trước nhiều cơ hội lớn để phát triển, 
vừa đứng trước những thách thức 
nghiêm trọng cả từ bên trong lẫn bên 
ngoài, đặc biệt là những thách thức về 
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh 
thổ trước tình hình phức tạp ở Biển 
Đông. Trong tình hình đó, đại đoàn kết 
toàn dân tộc phải tiếp tục được nêu 
cao và trở thành động lực quyết định 
trong công cuộc bảo vệ và phát triển 
đất nước.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 2, 5, 8, 10, 12, 15. 2011. Hà Nội : Nxb. Chính trị Quốc gia. 

File đính kèm:

  • pdfsuc_manh_cua_khoi_dai_doan_ket_toan_dan_trong_cach_mang_than.pdf