Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử

Hệ hình văn học Phật giáo là một dòng chảy văn học chiếm vị trí khá

quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Trong đó, phú Nôm Phật giáo là

một khoảng góc ít nhiều cũng được quan tâm do giới nghiên cứu văn học sử

trong thế kỷ vừa qua thường được định hướng bởi những quan niệm về căn cước

dân tộc (Vietnamese identity) hay những vấn đề chính trị-xã hội hữu quan. Với

một số tác phẩm đời Trần hiện còn, phú Nôm Phật giáo được coi như những

dấu mốc mở đầu, không chỉ riêng cho phú Nôm Việt Nam, mà còn là sự khai

mở cho lịch sử ngôn ngữ và văn hóa bản địa.

Bài viết này sẽ tiến hành nghiên cứu một số bài phú Nôm thuộc dòng Trúc

Lâm Yên Tử gồm Cư trần lạc đạo phú của Đệ nhất tổ Trúc Lâm Điều Ngự Chủ

Phật Trần Nhân Tông (1258-1308), Vịnh Hoa Yên tự phú của Đệ tam tổ Huyền

Quang Tôn Giả Lý Đạo Tái (1284- 1334), Thiền tịch phú của thiền sư Chân

Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), Thiếu Thất phú của Bạch Liên Tiểu Sĩ (?-?) để

thấy rõ sự thay đổi về hệ hình văn học (paradigm)(1) và những đóng góp của thể

loại tác phẩm này đối với lịch sử văn học và nghệ thuật Phật giáo.

 

pdf 15 trang kimcuc 2820
Bạn đang xem tài liệu "Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử

Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử
3Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
SỰ THAY ĐỔI HỆ HÌNH VĂN HỌC: TRƯỜNG HỢP PHÚ NÔM 
PHẬT GIÁO DÒNG TRÚC LÂM YÊN TỬ
 Trần Trọng Dương*
Hệ hình văn học Phật giáo là một dòng chảy văn học chiếm vị trí khá 
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Trong đó, phú Nôm Phật giáo là 
một khoảng góc ít nhiều cũng được quan tâm do giới nghiên cứu văn học sử 
trong thế kỷ vừa qua thường được định hướng bởi những quan niệm về căn cước 
dân tộc (Vietnamese identity) hay những vấn đề chính trị-xã hội hữu quan. Với 
một số tác phẩm đời Trần hiện còn, phú Nôm Phật giáo được coi như những 
dấu mốc mở đầu, không chỉ riêng cho phú Nôm Việt Nam, mà còn là sự khai 
mở cho lịch sử ngôn ngữ và văn hóa bản địa. 
Bài viết này sẽ tiến hành nghiên cứu một số bài phú Nôm thuộc dòng Trúc 
Lâm Yên Tử gồm Cư trần lạc đạo phú của Đệ nhất tổ Trúc Lâm Điều Ngự Chủ 
Phật Trần Nhân Tông (1258-1308), Vịnh Hoa Yên tự phú của Đệ tam tổ Huyền 
Quang Tôn Giả Lý Đạo Tái (1284- 1334), Thiền tịch phú của thiền sư Chân 
Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), Thiếu Thất phú của Bạch Liên Tiểu Sĩ (?-?) để 
thấy rõ sự thay đổi về hệ hình văn học (paradigm)(1) và những đóng góp của thể 
loại tác phẩm này đối với lịch sử văn học và nghệ thuật Phật giáo.
1. Quá trình “nhập hệ” của ngôn ngữ và chức năng thể loại 
Phú 賦 là một thể loại văn học bác học mang tính từ chương cao độ, là 
một sản phẩm thuộc vành đai văn hóa tiếng Hán. Về mặt từ nguyên, “phú” là 
một khái niệm đa nghĩa vừa trỏ loại hình tác phẩm để “tụng đọc”(2) vừa trỏ một 
kiểu dạng nghệ thuật phu diễn công phu đạo đức và kỹ xảo ngôn từ, vừa là một 
văn thể đặc dụng của khoa cử. Về chức năng thể loại, Trịnh Huyền (127-200) 
cho rằng, phú là “phô bày trực diện những điều thiện ác trong nền chính giáo 
ngày nay” (賦之言鋪,直鋪𨻰今之政敎善惡). Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long 
phần Thuyên phú lại viết: “phú... là phô trương văn vẻ, tả vật nói chí” (賦者鋪
也。鋪彩摛文,体物寫志也。) [Zhu Zinan 1998: 57]. Hoàng Phủ Mật (215-282) 
trong bài tựa Tam đô phú ghi: “tới thời Chiến Quốc, vương đạo suy vi, nền 
phong nhã đồi bại, các bậc hiền nhân bất đắc chí bèn làm ra từ phú.” [Phạm 
Văn Ánh 2004: 1.428]. Như vậy, về phương diện chức năng, phú là loại văn thể 
chính trị, tuy không thuộc loại hình văn bản hành chính, nhưng lại có tính 
“hành đạo”, “ngôn chí”, “bao biếm” về chính giáo được xây dựng trên cơ sở đạo 
đức và mỹ học của Nho gia, để sau đó nó trở thành một thể loại quan trọng 
trong chế độ khoa cử [Nguyễn Ngọc Lân 2009: 37]. Từ những văn bản sớm của 
Khuất Nguyên cho đến thời Hán-Lục Triều-Tùy Đường, các tác phẩm phú luôn 
hướng đến các vấn đề chính trị xã hội, về sự thực hành vương pháp, về quan 
niệm đức trị của Nho gia. Đây là chức năng nguyên thủy và cũng là xu hướng 
chủ đạo của thể loại văn học này. Trong quá trình lịch sử phát triển, phú dần 
* Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam.
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
4 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
dần mở rộng chức năng và các biên độ biểu cảm. Đến đời Tống, phú mở rộng 
chủ đề sang cảm hứng thế sự, cảm hứng thời gian, tiêu biểu như Thu thanh 
phú của Âu Dương Tu, Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của Tô Đông 
Pha. Ví dụ một đoạn tiêu biểu như sau: “Nước chảy trôi mãi mà chưa từng hết; 
trăng đầy vơi mà chẳng hư hao. Bởi vì: coi biến thiên thì trời đất chỉ là nháy 
mắt; trông bất biến thì vật với ta đều là vô cùng. Nên há phải tham cầu! Vả 
chăng, trong trời đất, vật đều có chủ. Nếu chẳng của ta, một ly chẳng lấy. Chỉ 
có: gió mát trên sông, cùng trăng sáng đầu núi, tai nghe nên tiếng, mắt ngắm 
nên hình. Lấy không ai ngăn; dùng không hết xuể. Đó là kho vô tận của tạo 
hóa, cũng là cái vui chung của bác với tôi”.(3) 
Cùng với sự du nhập chữ Hán, nền giáo dục Tam giáo và các thể loại văn 
học vào Việt Nam, phú đã di thực vào Giao Châu từ thời Bắc Thuộc, mà dấu vết 
sớm nhất hiện còn là tác phẩm là Bạch Vân chiếu xuân hải phú(4) của Khương 
Công Phụ (? - ?) thời Đường. Tuy thời Lý không còn văn bản, nhưng đến thời 
Trần, hơn 20 tác phẩm phú chữ Hán như Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi 
(1280-1346),(5) Bàn Khê điếu Hoàng phú của Trần Công Cẩn (?-?), Thiên thu 
giám của Phạm Mại (?- ?),(6) Quan Chu nhạc phú của Nguyễn Nhữ Bật (?-?),(7) 
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu (? - 1354), Cảnh tinh phú của Đào 
Sư Tích (?-?),(8) Trảm xà kiếm phú của Sử Hy Nhan (?-?),...(9) cho thấy một diện 
mạo chức năng của phú vào giai đoạn này. Dòng chủ lưu vẫn là những cảm hứng 
về đạo học, về sự thịnh suy của các triều đại. Ngoài ra, các chức năng bao biếm, 
gián nghị (khuyên can) như Thang bàn phú, Cần Chính lâu phú của Nguyễn 
Pháp, chức năng ca ngợi sự nghiệp võ công của một thời đại “thướng mã đề 
thương, há mã đề thi” như Bạch Đằng giang phú cũng cho thấy sự chuyển biến 
nhất định trong qua trình tiếp biến về chức năng của văn thể. Trên cơ tầng 
song văn hóa-song ngôn ngữ-song văn tự, các triều đại Đại Việt, bên cạnh việc 
mô phỏng, bứng trồng và cải biến các mô hình chính trị của Trung Hoa, còn 
chủ động du nhập nhiều hệ hình văn hóa-văn học vào đời sống vật chất và tinh 
thần của người Việt. “Dần thắng thế trong đời sống chính trị-xã hội, tầng lớp 
Nho giáo tích cực luôn khát khao “tu, tề, trị, bình”, luôn mong muốn được mang 
tài sức của mình để xây dựng xã tắc, giúp vua được như Nghiêu Thuấn (trí quân 
ư Nghiêu Thuấn chi quân). Và khi ấy, trong xã hội trọng văn, những loại văn 
chương đi đúng ray tải đạo chính thống như phú tất sẽ được họ lựa chọn.” (Đoàn 
Ánh Dương 2009: 193).
Thế nhưng, hai bài phú Nôm Cư trần lạc đạo phú (1307)(10) và Vịnh Hoa 
Yên tự phú (1334) lại cho thấy quá trình “nhập hệ” khá sớm của văn thể này ở 
cả phương diện ngôn ngữ-văn tự và chức năng thể loại. 
Trước tiên là về mặt ngôn ngữ-văn tự. Như ta biết đây là hai bài phú chữ 
Nôm-tiếng Việt sớm nhất hiện còn trong kho tàng ngôn ngữ-văn học Việt Nam. 
Cả hai bài đều được sáng tác vào giai đoạn thịnh Trần (tức giai đoạn trị vì của 
ba vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông), đều sớm hơn so 
với phần lớn các bài phú chữ Hán hiện còn - là các tác phẩm được sáng tác vào 
giai đoạn cuối đời Trần (vãn Trần). Sự “nhập hệ” này cho thấy: 1) Tiếng Việt 
đã phát triển ở một trình độ nhất định đủ để phu diễn bằng nghệ thuật ngôn 
từ; 2) Tiếng Việt đã/ đang ở một trạng thái khá gần với tiếng Hán - một ngôn 
ngữ đã đơn tiết-đơn lập triệt để;(11) 3) Chữ Nôm đã phát triển và phổ biến ở một 
5Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
mức độ nhất định đủ để ghi lại mọi lời ăn tiếng nói và tư duy của người bản 
ngữ; 4) Người Việt thời bấy giờ, ngoài nhu cầu sáng tác từ chương bằng tiếng 
Hán, còn có nhu cầu thẩm mỹ (sáng tác và cảm thụ) bằng tiếng mẹ đẻ; 5) Việc 
hoằng pháp không chỉ được thực thi bằng Hán văn mà còn được chuyển hóa 
bằng cả các văn bản Việt văn; 6) Văn chương bản địa không chỉ tồn tại trong 
đời sống dân gian mà đã đi vào thượng tầng xã hội để vua quan hay giáo chủ 
đều dùng chữ Nôm/ tiếng Việt để sáng tác văn học. 
Bối cảnh văn hóa song ngôn ngữ-song văn tự là điều kiện tiên quyết cho 
sự “nhập hệ”(12) này. Nằm ngoài câu chuyện phiên dịch từ một ngôn ngữ nguồn 
(Hán) sang ngôn ngữ đích (như trường hợp bản dịch Khóa hư lục của thiền sư 
Tuệ Tĩnh vào giai đoạn này), thì sự “bứng trồng”(13) về mặt thể loại từ tiếng Hán 
sang tiếng Việt cũng cần những yếu tố đặc thù về mặt ngôn ngữ - nhất là về 
mặt ngữ âm (cụ thể là cấu trúc ngữ âm của từng âm tiết). Quá trình điều phối 
âm thanh (bằng trắc), điều phối số lượng âm tiết và khuôn vần đều phải được 
căn chỉnh theo phép tắc của phú tiếng Hán. Ví dụ như bảng thống kê khuôn 
vần trong Cư trần lạc đạo phú như dưới đây:
Hội 1: sơn lâm - thân tâm - oanh ngâm - tri âm - sâm lâm - đâm - hoàng câm.
Hội 2: khác - thác - viên giác - Cực Lạc - bán chác - đen bạc - lâu các.
Hội 3: thông - chính tông - Bàng Công - non Đông - đồ công - đâm bông.
Hội 4: hoặc - lục tặc - chấp sắc - Nam Bắc - chiêm bặc - Di Lặc.
Hội 5: xa - ta - Tân La - đường hoa - xa - xoa - ma (mài) - ca - Diễn Nhã 
Đạt Đa - da.
Hội 6: đạo - giáo - khôn kháo (khéo) - gáo - huyên náo - cháo - trung háo 
(hiếu) - báo.
Hội 7: cóc hay - say - nay - tay - nay - chay - đắng cay - ngay.
Hội 8: học - xóc xóc - cóc - đọc - lựa lọc - tóc - đụt lóc.
Hội 9: gang - Tiêu Hoàng - vang - hành lang - sàng - thưa đang - ông ang 
- nghinh ngang - khoe khoang - quái quàng - dang - Thiên cang - hoang - sang.
Hội 10: khí - bí - thành thị - du hí - yêu quý - trí - thiên lý.
Các ngữ tố được dùng để gieo vần cho thấy sự phong phú của vỏ ngữ âm 
trong tiếng Việt giai đoạn đó đủ để khai triển các tác phẩm nghệ thuật có tính 
phu diễn cao như đối tượng đang xét đến ở đây. Các ngữ tố đó đến từ nhiều 
nguồn khác nhau, gồm: a) các từ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt (sơn lâm, thiên 
lý, viên giác, hoàng câm,...); b) các từ gốc Hán đọc theo âm phi Hán Việt (như: 
đọc, kháo, gáo...); c) các từ gốc Việt (như: chác, nay, lựa lọc, cóc hay, ngay, 
gang...). Ngoài ra, còn có các danh từ riêng hay thuật ngữ Phật giáo, như Bàng 
Công, Di Lặc, Diễn Nhã Đạt Đa... Trong số 80 vần, có đến 40 vần gốc Hán, sự 
“bổ sung hệ thống từ vựng/ hệ thống âm đọc của các từ gốc Hán cho thấy ở thế 
kỷ XIII-XIV, từ vựng gốc Hán (Việt ngữ Hán lai từ) đã chiếm một ví trí quan 
trọng trong cơ cấu từ vựng tiếng Việt.(14) Và đó là một “chiếc cầu trung chuyển” 
quan trọng cho quá trình nhập hệ/ di thực/ tiếp biến của thể loại phú vào ngôn 
ngữ văn học tiếng Việt. 
Ngoài việc minh trưng cho sự “bứng trồng thể loại” từ văn học Hán ngữ 
sang văn học Việt ngữ, các tác phẩm phú Nôm đời Trần còn thể hiện sự “nhập 
6 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
hệ” về phương diện chức năng thể loại. Như trên đã nói, phú tiếng Hán thiên 
về việc phu diễn nội dung đạo đức-chính trị theo quan niệm thẩm mỹ Nho gia. 
Thì ở đây, các bài phú Nôm còn cho thấy sự chuyển dòng sang thể hiện các 
quan niệm về Phật tính - và quan niệm thẩm mỹ của thiền gia. Sự đan xen 
các khuynh hướng chức năng và khuynh hướng thẩm mỹ này trong văn học 
thời Trần không chỉ xảy ra ở từng tác phẩm, từng tác giả, mà còn là một đặc 
điểm dễ gặp trong xu hướng vận động của văn học thời Trần [Nguyễn Kim Sơn 
2009], xu hướng này có thể còn truy ngược lên đến thế kỷ X qua các sáng tác 
văn học của Khuông Việt Ngô Chân Lưu [Trần Trọng Dương 2010]. Trong Cư 
Trần lạc đạo phú, cảm hứng thiền gia đôi chỗ có sự đan xen với cảm hứng Nho 
gia, ví như:
Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghiêu khoáng cả,(15) trút toàn thân phô việc đã xa. 
 (Cư trần lạc đạo - Hội 5)
Hay: 
Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thày học đạo;
Mến đức Cồ,(16) kiêng bùi ngọt, cầm giới(17) ăn chay.
 (Cư trần lạc đạo - Hội 7) 
Việc sử dụng các cặp biểu tượng của Phật giáo và Nho giáo như Bụt-
Nghiêu, Thánh-Đức Cồ (Đàm), cho thấy phức cảm tôn giáo của một chủ thể văn 
hóa cùng một lúc tri-hành bằng cả hai tôn giáo. Dĩ nhiên, trong toàn bộ bài 
phú, Nho hứng chỉ mang tính chất điểm xuyết và hồi cố về một giai đoạn xuất 
xử đã qua còn thiền hứng chiếm vị trí chủ đạo:
Buông(18) lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước;(19)
Cầm gươm trí tuệ,(20) quét cho không tính thức(21) thuở nay. 
 (Cư trần lạc đạo - Hội 7)
Hay: 
Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhẹ nhẹ;
Kề song thưa, Thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh. 
 (Vịnh Hoa Yên tự phú)
Như thế, phú Nôm đời Trần đã có sự “bẻ ghi” về mặt chức năng thể loại. 
Sự phu diễn ngôn từ vẫn được bảo lưu qua các câu văn biền ngẫu, nhưng đã có 
sự thay đổi về nội dung thể hiện. Vấn đề được quan tâm chỉ còn là khả năng 
nhập thiền, tham chứng, đối cơ, khả năng tu luyện và tri thức thực hành của 
thiền gia. Đây là một trong những đặc điểm đáng chú ý của phú chữ Nôm. 
Sự thay đổi về chức năng thể loại và ngôn ngữ văn học - chất nền (substance) 
của nền văn học Đại Việt chính là hai nhân tố quan trọng cho phép xác định 
có sự thay đổi hệ hình nghệ thuật ở cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. Những 
đặc điểm ấy cụ thể ra sao sẽ được trình bày trong phần tiếp theo của bài viết.
2. Công án Thiền: tính liên văn bản trong phú Nôm đời Trần
Khi nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam, các học giả trước nay thường chỉ 
nghiên cứu trên góc độ dân tộc chủ nghĩa, hay xã hội học chính trị, nhằm chứng 
minh lịch sử của tinh thần tự cường dân tộc, lòng yêu nước, sự ngợi ca đất nước 
7Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
(nhuận sắc hồng nghiệp) và các cuộc chiến tranh vệ quốc hay niềm tin vào chế 
độ đương thời. Trong đó, việc các giáo chủ Trần Nhân Tông hay Huyền Quang 
sử dụng chữ Nôm và tiếng Việt vào thể phú - một văn thể quan phương, được 
coi như là “một sáng tạo độc đáo” và là “một nỗ lực Việt hóa đáng ghi nhận” 
[Đoàn Ánh Dương 2009]. Việc dùng các thuật ngữ đương đại để nhận định quá 
khứ, việc sử dụng quá khứ như là một công cụ (instrument) để chứng minh cho 
tính tất yếu, tính chính đáng của hiện tại khiến cho việc nghiên cứu lịch sử nói 
chung và lịch sử văn học nói riêng bị trì níu đáng kể.
Trong nỗ lực tìm hiểu về quá khứ như nó có thể đã từng tồn tại, chúng tôi 
có xu hướng muốn sử dụng chính những thuật ngữ của thời đại đó như là một 
chìa khóa để mở cá ... khứ bằng bản thân những tiêu chí quá khứ, bằng việc 
phục chế lại quan niệm văn học của chính tác giả xưa, mà lại tiếp cận với văn học trung đại 
bằng nhãn quan của người hiện đại, lấy chuẩn ở hệ thống khái niệm của lý thuyết văn học 
hiện đại để đo đạc văn học cổ vốn là nền văn học được sáng tạo bởi loại hình tác giả có 
những quan niệm triết lý, nhân sinh hoàn toàn khác với chúng ta.” 
(23) Còn gọi công án học, hay công án truyền kỳ. Thuật ngữ “công án” ban đầu chỉ án xử phải trái 
của quan phủ sau chỉ phương pháp tu thiền bằng cách đối cơ (vấn đáp) giữa chúng đệ tử và 
sư tổ. Tham khảo thêm [Luo Zhufeng, Q. 2: p. 70]. Trong bài này, lần đầu tiên Phạm Tú Châu 
(1999) coi “công án” như một khái niệm của văn học Thiền tông và coi “cử-niêm-tán” như một 
chuỗi các mã biểu tượng mang tính hành vi cho hoạt động tu hành và sáng tác văn học. 
(24) Chữ dùng của GS Trần Ngọc Vương. [Văn học Việt Nam: dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội, 1998].
(25) Thanh tịnh pháp thân: tức Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục Tổ 
Huệ Năng đã dạy về Thanh Tịnh Pháp Thân Phật như sau: “Này thiện tri thức! Sao gọi là 
Thanh Tịnh Pháp Thân Phật? Người đời bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà 
sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. 
Như thế các pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây 
che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng 
đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia. Nầy thiện tri thức! Trí 
như mặt trời, huệ như mặt trăng, trí huệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi 
vọng niệm che phủ tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chơn 
chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy 
tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.” [Từ điển Phật học Việt Anh].
15Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
(26) Sách Ngũ đăng hội nguyên ghi: “Thiền sư Tư Minh ở Hào Châu khi đang ở trước tăng chúng... 
Có vị hỏi rằng: ‘Thế nào là thanh tịnh pháp thân? Sư trả lời: ‘dòi bọ trong đống phân, con ngoi 
lên con rúc xuống’” (濠州思明禪師 在眾時。問。如何是清淨法身。師曰。屎裏蛆兒。頭出頭沒)”.
(27) Khuyên kim cương (金剛圈): vòng kim cương. HTN phiên: “quyển kim cương”. Xét khuyên là 
âm Việt hóa của quyển, lưu tích còn trong khuyên tai, vành khuyên. 
(28) Hầu (từ cổ): gần; sắp.
(29) Tượng (từ cổ): dịch chữ cái 蓋 (đại khái, ước chừng, đại để), ở đây làm hư từ đệm giữa câu, 
vô nghĩa. “Ta còn lãng đãng làm chi nữa, Tượng có trời bày đặt vay!” (Trần tình 45.8). 
(30) Nguyên văn:
 辯首座出世住廬山棲賢。常携一筇穿雙屨。過九江東林。混融老見之呵曰。師者人之模範也。舉止如
此。得不自輕。主禮甚滅裂。辯笑曰。人生以適意為樂。吾何咎焉。援毫書偈而去。偈曰。勿謂棲賢
窮。身窮道不窮。草鞋獰似虎。拄杖活如龍。渴飲曹溪水。饑吞栗棘蓬。銅頭鐵額漢。盡在我山中。
混融覽之有愧。
(31) Nguyên văn: 以金圈栗棘為機輪。游戲吐吞。故機輪是運載學者至佛法大海之具。
(32) Tính liên văn bản: thuật ngữ chỉ tổng thể những mối quan hệ của một văn bản này với tất cả các 
hiện tượng khác trong thế giới, có thể đó là mối quan hệ về ngôn ngữ, hệ tư tưởng, hệ mỹ học, 
bao gồm sự nghịch đảo (anagram), sự ám chỉ (allusion), sự phỏng thuật (addaptation), sự dịch 
thuật (translation), sự biếm phỏng (parody), sự cắt dán (pastiche), sự mô phỏng (imitation)... 
Trong lý thuyết văn học của chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc, các văn bản được 
nhìn ở góc độ quy chiếu đến các văn bản khác (hay với bản thân chúng xét như là văn bản) 
hơn là với một thực tại bên ngoài. Thuật ngữ liên văn bản được dùng tùy từng trường hợp cho: 
một văn bản sử dụng các văn bản khác, một văn bản được sử dụng bởi một văn bản khác, và 
cho mối quan hệ giữa hai văn bản này. [Chris Baldick 2008, Oxford Dictionary Terms, in lần thứ 
3, Oxford University Press, p. 171; xem thêm Trần Trọng Dương 2011]. 
 Có thể thấy rõ “thao tác tìm kiếm liên văn bản” khi giải đọc/ thưởng thức văn học cổ trong 
bài tựa Quần hiền phú tập của Nguyễn Công Cơ như sau: “Lênh đênh tựa chiếc lá giữa biển 
xanh bao la, chẳng biết đâu là bờ, tôi mang bộ sách về đọc đi đọc lại, mới tìm ra được đầu mối 
của ổ kén tằm, thấy được áo cừu may bằng muôn mảnh da nách chồn; kết lại mạch lạc mới 
thấy màu sắc đẹp đẽ; cốt lõi ở trăm nhà, đan thành văn chương đó, muôn dấu châu ngọc xây 
nên thể phú này, cao tận mây, trong như tuyết, từng chữ đều có hương vị.” [Nguyễn Công Cơ, 
Quần hiền phú tập 群賢賦集, A.575, Nguyễn Thiên Túng (阮天縱) viết tựa năm 1457, 類甫阮儔 
Loại Phủ Nguyễn Trù tiểu dẫn năm 1728, Cảo quận công (鎬郡公) viết tựa năm 1729. Xem 
thêm: Nguyễn Minh Tấn (chủ biên), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981].
(33) Thuyên thích (cg. Thông diễn, chú giải, thuyên thích học): nguyên từ hermeneutics chỉ việc 
giải thích kinh điển Thiên chúa, sau dùng để chỉ sự diễn dịch, giải thích các tác phẩm văn 
học. [M. H. Abrams 1999: 127-132]
(34) Điều này Nguyễn Kim Sơn cũng đã từng chỉ ra: “Đọc lại bài Cư trần lạc đạo phú, đúng như 
đầu đề của nó, toàn bài phú diễn tả một cách sinh động rất nhiều phương diện của đời 
sống tu hành, với những lạc thú tinh thần trong cõi tục, trong đó tư tưởng Phật tính tự tâm và 
phương pháp tu tâm là trục xuyên suốt và kết nối.” (2009).
(35) Xem thêm một số bài viết gần đây của Nguyễn Kim Sơn về đề tài này, như “Góp bàn về lý 
tưởng thẩm mỹ của Đạo gia”, tạp chí Văn học, số 2/2003; “Tự nhiên luận của Đạo gia với 
một số quan niệm cơ bản của lý luận phê bình văn học cổ trung đại phương Đông”, Hội thảo 
Phương Đông hợp tác và phát triển, 2003; “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong 
thơ Huyền Quang”, Văn học, số 4, 2009.
(36) Hạnh (kể hạnh): là một thuật ngữ về thể loại chức năng của văn học Phật giáo. Trước nay ít 
được quan tâm.
(37) Quy mao thố giác 龜毛兔角.
(38) Từ góc độ thông diễn xã hội học, Lê Trí Viễn gọi đó là cách “quần chúng hóa rộng rãi” của 
phú Nôm [1978: 173], Phan Ngọc xem “mách qué” như một biểu hiện về sự “khúc xạ” của phú 
Trung Quốc vào phú Việt Nam [1998: 58]. Hay như Phạm Văn Ánh trong Từ điển văn học (bộ 
mới) có nhận định: “Càng về những giai đoạn sau, phú Nôm và phú Quốc ngữ càng tiếp thu 
nhiều yếu tố của ngôn ngữ đời sống, sử dụng các chất liệu từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao do 
đó từ một thể loại mang tính bác học, điển nhã, trang trọng, phú Việt Nam có những chuyển 
biến quan trọng thể hiển rõ tính bình dân hóa và thông tục hóa” (2004: 1.427).
16 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. H. Abrams, 1999 (7th ed), A Glossary of Literary Terms, Heinle & Heinle-Thomson Learning.
2. Nguyễn Thị Hà An 阮氏荷安, Dân Quốc 99.《 越南陳朝慧忠上士之禪學思想研究》。國立屏東 教
育大學中國語文學系碩士論文。
3. Phạm Văn Ánh, “Phú”, trong Từ điển văn học (Bộ mới), Huệ Chi chủ biên, Nxb Thế giới, Hà 
Nội, 2004.
4. Simon Blackburn, repr 1996, The Oxford Dictionary of Philosophy, Oxford: Oxford University 
Press. 
5. Chris Baldick, 2008, Oxford Dictionary Terms, in lần thứ 3, Oxford University Press.
6. Diệp Quang Ban, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.
7. Phạm Tú Châu, “Xác định tính chất và bối cảnh ra đời bài Cảm xúc khi đọc Phật sự đại minh 
lục của Trần Thánh Tông”, trong Đi giữa đôi dòng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999.
8. Dagobert D. Runes, 1959, The Dictionary of Philosophy, Philosophical Library, New York.
9. Đoàn Ánh Dương, “Cảm hứng quan phương và vị thế của Nho sĩ qua (và trong) văn phú thời 
Lý Trần”, Thông báo Hán Nôm học 2008, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 169-195.
10. Trần Trọng Dương, “Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho Phật”, trong Phật giáo 
- Văn học với 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Nxb Văn hóa, 2010, tr. 97-109.
11. Trần Trọng Dương, “Khảo sát ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi trong môi trường giảng dạy- 
dịch thuật kinh điển Nho gia (Từ góc nhìn liên văn bản)”, tạp chí Hợp lưu, tháng 8-9-10/2011, 
Hoa Kỳ, tr. 5-38.
12. Trần Trọng Dương, “Hệ thống từ cổ tiếng Việt thế kỷ XIII qua sáng tác Nôm của thiền phái 
Trúc Lâm Yên Tử”, tạp chí Hán Nôm, số 01/2014.
13. Cao Hữu Đính, Văn học sử Phật giáo, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.
14. Luo Zhu Feng 罗竹风(主编), (1994)《汉语大词典》(Hán ngữ đại từ điển), (全13卷). 汉语大词典
出版社。
15. Đinh Thanh Hiếu, “Lược khảo phú chữ Hán Việt Nam”, trong Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX, 
những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 611-656.
16. Nguyễn Duy Hinh, Triết học Phật giáo Việt Nam, Viện Văn hóa-Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà 
Nội, 2006, tr. 420.
17. Giác Hoàng khảo đính, Pháp Loa chép, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Trần Khắc Chung bạt, 
Chân Nguyên Tuệ Đăng trùng san.
18. Nguyễn Phạm Hùng, Thơ thiền Việt Nam- Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb 
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.
19. Nguyễn Ngọc Lân, “Lược khảo Lê triều bát vận phú”, tạp chí Hán Nôm, số 4 (94). 2009, 
tr. 30-37.
20. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc 
gia Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM, 2002.
21. Trần Nghĩa, Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, Nxb 
Thế giới, Hà Nội, 2000.
22. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, Hà 
Nội, 1985.
23. Nguyễn Đình Phức, “Từ phú Trung Quốc đến phú Việt Nam”, tạp chí Hán Nôm, số 04/2003, 
tr. 60-69.
24. Nguyễn Kim Sơn, “Bàn về cảm hứng cư trần lạc đạo trong thơ Trần Nhân Tông”, trong Mấy 
vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006. 
25. Nguyễn Kim Sơn, “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang: nghiên 
cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc”, Nghiên cứu văn học, số 04/2009, tr. 75-89.
26. Nguyễn Kim Sơn, “Cội nguồn triết học của tinh thần nhập thế Trần Nhân Tông”, tạp chí 
Khuông Việt, số 6, tháng 4/2009, tr. 40-47.
27. Nguyễn Kim Sơn & Trần Thị Mỹ Hòa, “Mấy phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền 
gia”, trong Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX: Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội, 2007.
17Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
28. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà 
Nội, 2005.
29. Bùi Duy Tân và cs. Văn học Việt Nam: từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội, 1996, tái bản 2005, “Khái quát về văn học trung đại Việt Nam”, trong Theo dòng khảo 
luận văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
30. Hà Văn Tấn, “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam”, tạp chí Văn 
hóa, số 4, Hà Nội, 1992.
31. Trần Thị Băng Thanh, “Thử phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn học mang dấu ấn 
Phật giáo thời trung đại”, tạp chí Văn hóa, số 4, Hà Nội, 1992.
32. Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, TP HCM, 2001.
33. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
34. Đàm Anh Thư, Phú Nôm thời trung đại: hành trình và đóng góp, Luận văn Thạc sĩ, Trường 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
35. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ XIV, 
Nxb Văn học, Hà Nội, 1996.
36. Lê Trí Viễn (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1978.
37. Phạm Tuấn Vũ, “Góp phần tìm hiểu phú Nôm”, tạp chí Văn học, 2000, tr. 56-62.
38. Trần Ngọc Vương, “Giao thoa Đông Tây và sự chuyển đổi hệ hình văn học”, trong Thực thể 
Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2010, tr. 393-406.
39. Phân Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Tổng tập thơ Nôm Trúc Lâm Yên Tử, Trần Trọng 
Dương hiệu đính, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
40. Nguyễn Hùng Vỹ, Trần Trọng Dương, “Từ nguyên của “khoáng”- “khoảng”- “quãng”- “khoản”- 
“khoang”- “khang”- “xoang”- “xang”- “xương” qua một số ngữ liệu tiếng Việt thế kỷ XIII-XX”, 
Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 40 năm ngành Hán Nôm, Nxb Đại học Quốc gia, 2013.
41. William A Darity Jr (editor in Chef), 2008, International Encyclopedia of the Social Sciences 
(2nd Ed: Volume 6), Macmillan Reference USA - Course Technology Cengage Learning.
42. Zhu Zinan 朱子南, 1988.《 中國文體學辭典》。湖南教育出版社。湖南。
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu sự thay đổi hệ hình văn học trung đại Việt Nam qua những kiểu bứng 
trồng về ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại văn học, và chức năng của thể loại qua trường hợp phú 
Nôm Phật giáo. Tư liệu khảo sát bao gồm bốn bài phú Nôm của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử từ 
thời Trần đến thời Lê. Kết quả nghiên cứu cho thấy tư tưởng nhất quán của ý niệm nghệ thuật 
thiền là nền tảng thống nhất cho mọi sự thay đổi hệ hình. Mặt khác, sự bứng trồng thể loại, và quá 
trình nhập hệ chức năng thể loại, ngôn ngữ biểu đạt, hệ thống hình tượng, mỹ cảm nghệ thuật 
(qua các công án thiền, ngôn ngữ thiền,...) là những minh chứng rõ rệt cho quá trình thay đổi hệ 
hình văn học.
ABSTRACT
PARADIGM SHIFT IN LITERATURE: THE CASE OF BUDDHISM “NÔM” ODES 
IN TRÚC LÂM YÊN TỬ ZEN SECT
The article examines the paradigm shift of Vietnamese medieval literature through the 
transplantation in art language, literary genres, and functions of genres based on Buddhist 
Nôm (Chinese-transcribed Vietnamese) Odes. Documents for survey include four Nôm Odes of 
Trúc Lâm Yên Tử Zen sect from the Trần Dynasty to the Lê Dynasty. The results show that the 
ideological consistency of the concept of Zen art is the basis for every paradigm shift. On the other 
hand, the transplantation of genres and the import of functional system of genres, expressive 
language, system of images, sense of beauty in art (through Zen koans, Zen language,...) are 
specific proof of the process of paradigm shift in literature.

File đính kèm:

  • pdfsu_thay_doi_he_hinh_van_hoc_truong_hop_phu_nom_phat_giao_don.pdf