Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử
Hệ hình văn học Phật giáo là một dòng chảy văn học chiếm vị trí khá
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Trong đó, phú Nôm Phật giáo là
một khoảng góc ít nhiều cũng được quan tâm do giới nghiên cứu văn học sử
trong thế kỷ vừa qua thường được định hướng bởi những quan niệm về căn cước
dân tộc (Vietnamese identity) hay những vấn đề chính trị-xã hội hữu quan. Với
một số tác phẩm đời Trần hiện còn, phú Nôm Phật giáo được coi như những
dấu mốc mở đầu, không chỉ riêng cho phú Nôm Việt Nam, mà còn là sự khai
mở cho lịch sử ngôn ngữ và văn hóa bản địa.
Bài viết này sẽ tiến hành nghiên cứu một số bài phú Nôm thuộc dòng Trúc
Lâm Yên Tử gồm Cư trần lạc đạo phú của Đệ nhất tổ Trúc Lâm Điều Ngự Chủ
Phật Trần Nhân Tông (1258-1308), Vịnh Hoa Yên tự phú của Đệ tam tổ Huyền
Quang Tôn Giả Lý Đạo Tái (1284- 1334), Thiền tịch phú của thiền sư Chân
Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), Thiếu Thất phú của Bạch Liên Tiểu Sĩ (?-?) để
thấy rõ sự thay đổi về hệ hình văn học (paradigm)(1) và những đóng góp của thể
loại tác phẩm này đối với lịch sử văn học và nghệ thuật Phật giáo.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự thay đổi hệ hình văn học: Trường hợp Phú Nôm Phật giáo dòng trúc lâm Yên Tử
3Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 SỰ THAY ĐỔI HỆ HÌNH VĂN HỌC: TRƯỜNG HỢP PHÚ NÔM PHẬT GIÁO DÒNG TRÚC LÂM YÊN TỬ Trần Trọng Dương* Hệ hình văn học Phật giáo là một dòng chảy văn học chiếm vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Trong đó, phú Nôm Phật giáo là một khoảng góc ít nhiều cũng được quan tâm do giới nghiên cứu văn học sử trong thế kỷ vừa qua thường được định hướng bởi những quan niệm về căn cước dân tộc (Vietnamese identity) hay những vấn đề chính trị-xã hội hữu quan. Với một số tác phẩm đời Trần hiện còn, phú Nôm Phật giáo được coi như những dấu mốc mở đầu, không chỉ riêng cho phú Nôm Việt Nam, mà còn là sự khai mở cho lịch sử ngôn ngữ và văn hóa bản địa. Bài viết này sẽ tiến hành nghiên cứu một số bài phú Nôm thuộc dòng Trúc Lâm Yên Tử gồm Cư trần lạc đạo phú của Đệ nhất tổ Trúc Lâm Điều Ngự Chủ Phật Trần Nhân Tông (1258-1308), Vịnh Hoa Yên tự phú của Đệ tam tổ Huyền Quang Tôn Giả Lý Đạo Tái (1284- 1334), Thiền tịch phú của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), Thiếu Thất phú của Bạch Liên Tiểu Sĩ (?-?) để thấy rõ sự thay đổi về hệ hình văn học (paradigm)(1) và những đóng góp của thể loại tác phẩm này đối với lịch sử văn học và nghệ thuật Phật giáo. 1. Quá trình “nhập hệ” của ngôn ngữ và chức năng thể loại Phú 賦 là một thể loại văn học bác học mang tính từ chương cao độ, là một sản phẩm thuộc vành đai văn hóa tiếng Hán. Về mặt từ nguyên, “phú” là một khái niệm đa nghĩa vừa trỏ loại hình tác phẩm để “tụng đọc”(2) vừa trỏ một kiểu dạng nghệ thuật phu diễn công phu đạo đức và kỹ xảo ngôn từ, vừa là một văn thể đặc dụng của khoa cử. Về chức năng thể loại, Trịnh Huyền (127-200) cho rằng, phú là “phô bày trực diện những điều thiện ác trong nền chính giáo ngày nay” (賦之言鋪,直鋪𨻰今之政敎善惡). Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long phần Thuyên phú lại viết: “phú... là phô trương văn vẻ, tả vật nói chí” (賦者鋪 也。鋪彩摛文,体物寫志也。) [Zhu Zinan 1998: 57]. Hoàng Phủ Mật (215-282) trong bài tựa Tam đô phú ghi: “tới thời Chiến Quốc, vương đạo suy vi, nền phong nhã đồi bại, các bậc hiền nhân bất đắc chí bèn làm ra từ phú.” [Phạm Văn Ánh 2004: 1.428]. Như vậy, về phương diện chức năng, phú là loại văn thể chính trị, tuy không thuộc loại hình văn bản hành chính, nhưng lại có tính “hành đạo”, “ngôn chí”, “bao biếm” về chính giáo được xây dựng trên cơ sở đạo đức và mỹ học của Nho gia, để sau đó nó trở thành một thể loại quan trọng trong chế độ khoa cử [Nguyễn Ngọc Lân 2009: 37]. Từ những văn bản sớm của Khuất Nguyên cho đến thời Hán-Lục Triều-Tùy Đường, các tác phẩm phú luôn hướng đến các vấn đề chính trị xã hội, về sự thực hành vương pháp, về quan niệm đức trị của Nho gia. Đây là chức năng nguyên thủy và cũng là xu hướng chủ đạo của thể loại văn học này. Trong quá trình lịch sử phát triển, phú dần * Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam. VĂN HÓA - LỊCH SỬ 4 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 dần mở rộng chức năng và các biên độ biểu cảm. Đến đời Tống, phú mở rộng chủ đề sang cảm hứng thế sự, cảm hứng thời gian, tiêu biểu như Thu thanh phú của Âu Dương Tu, Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của Tô Đông Pha. Ví dụ một đoạn tiêu biểu như sau: “Nước chảy trôi mãi mà chưa từng hết; trăng đầy vơi mà chẳng hư hao. Bởi vì: coi biến thiên thì trời đất chỉ là nháy mắt; trông bất biến thì vật với ta đều là vô cùng. Nên há phải tham cầu! Vả chăng, trong trời đất, vật đều có chủ. Nếu chẳng của ta, một ly chẳng lấy. Chỉ có: gió mát trên sông, cùng trăng sáng đầu núi, tai nghe nên tiếng, mắt ngắm nên hình. Lấy không ai ngăn; dùng không hết xuể. Đó là kho vô tận của tạo hóa, cũng là cái vui chung của bác với tôi”.(3) Cùng với sự du nhập chữ Hán, nền giáo dục Tam giáo và các thể loại văn học vào Việt Nam, phú đã di thực vào Giao Châu từ thời Bắc Thuộc, mà dấu vết sớm nhất hiện còn là tác phẩm là Bạch Vân chiếu xuân hải phú(4) của Khương Công Phụ (? - ?) thời Đường. Tuy thời Lý không còn văn bản, nhưng đến thời Trần, hơn 20 tác phẩm phú chữ Hán như Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi (1280-1346),(5) Bàn Khê điếu Hoàng phú của Trần Công Cẩn (?-?), Thiên thu giám của Phạm Mại (?- ?),(6) Quan Chu nhạc phú của Nguyễn Nhữ Bật (?-?),(7) Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu (? - 1354), Cảnh tinh phú của Đào Sư Tích (?-?),(8) Trảm xà kiếm phú của Sử Hy Nhan (?-?),...(9) cho thấy một diện mạo chức năng của phú vào giai đoạn này. Dòng chủ lưu vẫn là những cảm hứng về đạo học, về sự thịnh suy của các triều đại. Ngoài ra, các chức năng bao biếm, gián nghị (khuyên can) như Thang bàn phú, Cần Chính lâu phú của Nguyễn Pháp, chức năng ca ngợi sự nghiệp võ công của một thời đại “thướng mã đề thương, há mã đề thi” như Bạch Đằng giang phú cũng cho thấy sự chuyển biến nhất định trong qua trình tiếp biến về chức năng của văn thể. Trên cơ tầng song văn hóa-song ngôn ngữ-song văn tự, các triều đại Đại Việt, bên cạnh việc mô phỏng, bứng trồng và cải biến các mô hình chính trị của Trung Hoa, còn chủ động du nhập nhiều hệ hình văn hóa-văn học vào đời sống vật chất và tinh thần của người Việt. “Dần thắng thế trong đời sống chính trị-xã hội, tầng lớp Nho giáo tích cực luôn khát khao “tu, tề, trị, bình”, luôn mong muốn được mang tài sức của mình để xây dựng xã tắc, giúp vua được như Nghiêu Thuấn (trí quân ư Nghiêu Thuấn chi quân). Và khi ấy, trong xã hội trọng văn, những loại văn chương đi đúng ray tải đạo chính thống như phú tất sẽ được họ lựa chọn.” (Đoàn Ánh Dương 2009: 193). Thế nhưng, hai bài phú Nôm Cư trần lạc đạo phú (1307)(10) và Vịnh Hoa Yên tự phú (1334) lại cho thấy quá trình “nhập hệ” khá sớm của văn thể này ở cả phương diện ngôn ngữ-văn tự và chức năng thể loại. Trước tiên là về mặt ngôn ngữ-văn tự. Như ta biết đây là hai bài phú chữ Nôm-tiếng Việt sớm nhất hiện còn trong kho tàng ngôn ngữ-văn học Việt Nam. Cả hai bài đều được sáng tác vào giai đoạn thịnh Trần (tức giai đoạn trị vì của ba vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông), đều sớm hơn so với phần lớn các bài phú chữ Hán hiện còn - là các tác phẩm được sáng tác vào giai đoạn cuối đời Trần (vãn Trần). Sự “nhập hệ” này cho thấy: 1) Tiếng Việt đã phát triển ở một trình độ nhất định đủ để phu diễn bằng nghệ thuật ngôn từ; 2) Tiếng Việt đã/ đang ở một trạng thái khá gần với tiếng Hán - một ngôn ngữ đã đơn tiết-đơn lập triệt để;(11) 3) Chữ Nôm đã phát triển và phổ biến ở một 5Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 mức độ nhất định đủ để ghi lại mọi lời ăn tiếng nói và tư duy của người bản ngữ; 4) Người Việt thời bấy giờ, ngoài nhu cầu sáng tác từ chương bằng tiếng Hán, còn có nhu cầu thẩm mỹ (sáng tác và cảm thụ) bằng tiếng mẹ đẻ; 5) Việc hoằng pháp không chỉ được thực thi bằng Hán văn mà còn được chuyển hóa bằng cả các văn bản Việt văn; 6) Văn chương bản địa không chỉ tồn tại trong đời sống dân gian mà đã đi vào thượng tầng xã hội để vua quan hay giáo chủ đều dùng chữ Nôm/ tiếng Việt để sáng tác văn học. Bối cảnh văn hóa song ngôn ngữ-song văn tự là điều kiện tiên quyết cho sự “nhập hệ”(12) này. Nằm ngoài câu chuyện phiên dịch từ một ngôn ngữ nguồn (Hán) sang ngôn ngữ đích (như trường hợp bản dịch Khóa hư lục của thiền sư Tuệ Tĩnh vào giai đoạn này), thì sự “bứng trồng”(13) về mặt thể loại từ tiếng Hán sang tiếng Việt cũng cần những yếu tố đặc thù về mặt ngôn ngữ - nhất là về mặt ngữ âm (cụ thể là cấu trúc ngữ âm của từng âm tiết). Quá trình điều phối âm thanh (bằng trắc), điều phối số lượng âm tiết và khuôn vần đều phải được căn chỉnh theo phép tắc của phú tiếng Hán. Ví dụ như bảng thống kê khuôn vần trong Cư trần lạc đạo phú như dưới đây: Hội 1: sơn lâm - thân tâm - oanh ngâm - tri âm - sâm lâm - đâm - hoàng câm. Hội 2: khác - thác - viên giác - Cực Lạc - bán chác - đen bạc - lâu các. Hội 3: thông - chính tông - Bàng Công - non Đông - đồ công - đâm bông. Hội 4: hoặc - lục tặc - chấp sắc - Nam Bắc - chiêm bặc - Di Lặc. Hội 5: xa - ta - Tân La - đường hoa - xa - xoa - ma (mài) - ca - Diễn Nhã Đạt Đa - da. Hội 6: đạo - giáo - khôn kháo (khéo) - gáo - huyên náo - cháo - trung háo (hiếu) - báo. Hội 7: cóc hay - say - nay - tay - nay - chay - đắng cay - ngay. Hội 8: học - xóc xóc - cóc - đọc - lựa lọc - tóc - đụt lóc. Hội 9: gang - Tiêu Hoàng - vang - hành lang - sàng - thưa đang - ông ang - nghinh ngang - khoe khoang - quái quàng - dang - Thiên cang - hoang - sang. Hội 10: khí - bí - thành thị - du hí - yêu quý - trí - thiên lý. Các ngữ tố được dùng để gieo vần cho thấy sự phong phú của vỏ ngữ âm trong tiếng Việt giai đoạn đó đủ để khai triển các tác phẩm nghệ thuật có tính phu diễn cao như đối tượng đang xét đến ở đây. Các ngữ tố đó đến từ nhiều nguồn khác nhau, gồm: a) các từ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt (sơn lâm, thiên lý, viên giác, hoàng câm,...); b) các từ gốc Hán đọc theo âm phi Hán Việt (như: đọc, kháo, gáo...); c) các từ gốc Việt (như: chác, nay, lựa lọc, cóc hay, ngay, gang...). Ngoài ra, còn có các danh từ riêng hay thuật ngữ Phật giáo, như Bàng Công, Di Lặc, Diễn Nhã Đạt Đa... Trong số 80 vần, có đến 40 vần gốc Hán, sự “bổ sung hệ thống từ vựng/ hệ thống âm đọc của các từ gốc Hán cho thấy ở thế kỷ XIII-XIV, từ vựng gốc Hán (Việt ngữ Hán lai từ) đã chiếm một ví trí quan trọng trong cơ cấu từ vựng tiếng Việt.(14) Và đó là một “chiếc cầu trung chuyển” quan trọng cho quá trình nhập hệ/ di thực/ tiếp biến của thể loại phú vào ngôn ngữ văn học tiếng Việt. Ngoài việc minh trưng cho sự “bứng trồng thể loại” từ văn học Hán ngữ sang văn học Việt ngữ, các tác phẩm phú Nôm đời Trần còn thể hiện sự “nhập 6 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 hệ” về phương diện chức năng thể loại. Như trên đã nói, phú tiếng Hán thiên về việc phu diễn nội dung đạo đức-chính trị theo quan niệm thẩm mỹ Nho gia. Thì ở đây, các bài phú Nôm còn cho thấy sự chuyển dòng sang thể hiện các quan niệm về Phật tính - và quan niệm thẩm mỹ của thiền gia. Sự đan xen các khuynh hướng chức năng và khuynh hướng thẩm mỹ này trong văn học thời Trần không chỉ xảy ra ở từng tác phẩm, từng tác giả, mà còn là một đặc điểm dễ gặp trong xu hướng vận động của văn học thời Trần [Nguyễn Kim Sơn 2009], xu hướng này có thể còn truy ngược lên đến thế kỷ X qua các sáng tác văn học của Khuông Việt Ngô Chân Lưu [Trần Trọng Dương 2010]. Trong Cư Trần lạc đạo phú, cảm hứng thiền gia đôi chỗ có sự đan xen với cảm hứng Nho gia, ví như: Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận; Ơn Nghiêu khoáng cả,(15) trút toàn thân phô việc đã xa. (Cư trần lạc đạo - Hội 5) Hay: Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thày học đạo; Mến đức Cồ,(16) kiêng bùi ngọt, cầm giới(17) ăn chay. (Cư trần lạc đạo - Hội 7) Việc sử dụng các cặp biểu tượng của Phật giáo và Nho giáo như Bụt- Nghiêu, Thánh-Đức Cồ (Đàm), cho thấy phức cảm tôn giáo của một chủ thể văn hóa cùng một lúc tri-hành bằng cả hai tôn giáo. Dĩ nhiên, trong toàn bộ bài phú, Nho hứng chỉ mang tính chất điểm xuyết và hồi cố về một giai đoạn xuất xử đã qua còn thiền hứng chiếm vị trí chủ đạo: Buông(18) lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước;(19) Cầm gươm trí tuệ,(20) quét cho không tính thức(21) thuở nay. (Cư trần lạc đạo - Hội 7) Hay: Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhẹ nhẹ; Kề song thưa, Thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh. (Vịnh Hoa Yên tự phú) Như thế, phú Nôm đời Trần đã có sự “bẻ ghi” về mặt chức năng thể loại. Sự phu diễn ngôn từ vẫn được bảo lưu qua các câu văn biền ngẫu, nhưng đã có sự thay đổi về nội dung thể hiện. Vấn đề được quan tâm chỉ còn là khả năng nhập thiền, tham chứng, đối cơ, khả năng tu luyện và tri thức thực hành của thiền gia. Đây là một trong những đặc điểm đáng chú ý của phú chữ Nôm. Sự thay đổi về chức năng thể loại và ngôn ngữ văn học - chất nền (substance) của nền văn học Đại Việt chính là hai nhân tố quan trọng cho phép xác định có sự thay đổi hệ hình nghệ thuật ở cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. Những đặc điểm ấy cụ thể ra sao sẽ được trình bày trong phần tiếp theo của bài viết. 2. Công án Thiền: tính liên văn bản trong phú Nôm đời Trần Khi nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam, các học giả trước nay thường chỉ nghiên cứu trên góc độ dân tộc chủ nghĩa, hay xã hội học chính trị, nhằm chứng minh lịch sử của tinh thần tự cường dân tộc, lòng yêu nước, sự ngợi ca đất nước 7Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 (nhuận sắc hồng nghiệp) và các cuộc chiến tranh vệ quốc hay niềm tin vào chế độ đương thời. Trong đó, việc các giáo chủ Trần Nhân Tông hay Huyền Quang sử dụng chữ Nôm và tiếng Việt vào thể phú - một văn thể quan phương, được coi như là “một sáng tạo độc đáo” và là “một nỗ lực Việt hóa đáng ghi nhận” [Đoàn Ánh Dương 2009]. Việc dùng các thuật ngữ đương đại để nhận định quá khứ, việc sử dụng quá khứ như là một công cụ (instrument) để chứng minh cho tính tất yếu, tính chính đáng của hiện tại khiến cho việc nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử văn học nói riêng bị trì níu đáng kể. Trong nỗ lực tìm hiểu về quá khứ như nó có thể đã từng tồn tại, chúng tôi có xu hướng muốn sử dụng chính những thuật ngữ của thời đại đó như là một chìa khóa để mở cá ... khứ bằng bản thân những tiêu chí quá khứ, bằng việc phục chế lại quan niệm văn học của chính tác giả xưa, mà lại tiếp cận với văn học trung đại bằng nhãn quan của người hiện đại, lấy chuẩn ở hệ thống khái niệm của lý thuyết văn học hiện đại để đo đạc văn học cổ vốn là nền văn học được sáng tạo bởi loại hình tác giả có những quan niệm triết lý, nhân sinh hoàn toàn khác với chúng ta.” (23) Còn gọi công án học, hay công án truyền kỳ. Thuật ngữ “công án” ban đầu chỉ án xử phải trái của quan phủ sau chỉ phương pháp tu thiền bằng cách đối cơ (vấn đáp) giữa chúng đệ tử và sư tổ. Tham khảo thêm [Luo Zhufeng, Q. 2: p. 70]. Trong bài này, lần đầu tiên Phạm Tú Châu (1999) coi “công án” như một khái niệm của văn học Thiền tông và coi “cử-niêm-tán” như một chuỗi các mã biểu tượng mang tính hành vi cho hoạt động tu hành và sáng tác văn học. (24) Chữ dùng của GS Trần Ngọc Vương. [Văn học Việt Nam: dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998]. (25) Thanh tịnh pháp thân: tức Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã dạy về Thanh Tịnh Pháp Thân Phật như sau: “Này thiện tri thức! Sao gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật? Người đời bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia. Nầy thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng, trí huệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chơn chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.” [Từ điển Phật học Việt Anh]. 15Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 (26) Sách Ngũ đăng hội nguyên ghi: “Thiền sư Tư Minh ở Hào Châu khi đang ở trước tăng chúng... Có vị hỏi rằng: ‘Thế nào là thanh tịnh pháp thân? Sư trả lời: ‘dòi bọ trong đống phân, con ngoi lên con rúc xuống’” (濠州思明禪師 在眾時。問。如何是清淨法身。師曰。屎裏蛆兒。頭出頭沒)”. (27) Khuyên kim cương (金剛圈): vòng kim cương. HTN phiên: “quyển kim cương”. Xét khuyên là âm Việt hóa của quyển, lưu tích còn trong khuyên tai, vành khuyên. (28) Hầu (từ cổ): gần; sắp. (29) Tượng (từ cổ): dịch chữ cái 蓋 (đại khái, ước chừng, đại để), ở đây làm hư từ đệm giữa câu, vô nghĩa. “Ta còn lãng đãng làm chi nữa, Tượng có trời bày đặt vay!” (Trần tình 45.8). (30) Nguyên văn: 辯首座出世住廬山棲賢。常携一筇穿雙屨。過九江東林。混融老見之呵曰。師者人之模範也。舉止如 此。得不自輕。主禮甚滅裂。辯笑曰。人生以適意為樂。吾何咎焉。援毫書偈而去。偈曰。勿謂棲賢 窮。身窮道不窮。草鞋獰似虎。拄杖活如龍。渴飲曹溪水。饑吞栗棘蓬。銅頭鐵額漢。盡在我山中。 混融覽之有愧。 (31) Nguyên văn: 以金圈栗棘為機輪。游戲吐吞。故機輪是運載學者至佛法大海之具。 (32) Tính liên văn bản: thuật ngữ chỉ tổng thể những mối quan hệ của một văn bản này với tất cả các hiện tượng khác trong thế giới, có thể đó là mối quan hệ về ngôn ngữ, hệ tư tưởng, hệ mỹ học, bao gồm sự nghịch đảo (anagram), sự ám chỉ (allusion), sự phỏng thuật (addaptation), sự dịch thuật (translation), sự biếm phỏng (parody), sự cắt dán (pastiche), sự mô phỏng (imitation)... Trong lý thuyết văn học của chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc, các văn bản được nhìn ở góc độ quy chiếu đến các văn bản khác (hay với bản thân chúng xét như là văn bản) hơn là với một thực tại bên ngoài. Thuật ngữ liên văn bản được dùng tùy từng trường hợp cho: một văn bản sử dụng các văn bản khác, một văn bản được sử dụng bởi một văn bản khác, và cho mối quan hệ giữa hai văn bản này. [Chris Baldick 2008, Oxford Dictionary Terms, in lần thứ 3, Oxford University Press, p. 171; xem thêm Trần Trọng Dương 2011]. Có thể thấy rõ “thao tác tìm kiếm liên văn bản” khi giải đọc/ thưởng thức văn học cổ trong bài tựa Quần hiền phú tập của Nguyễn Công Cơ như sau: “Lênh đênh tựa chiếc lá giữa biển xanh bao la, chẳng biết đâu là bờ, tôi mang bộ sách về đọc đi đọc lại, mới tìm ra được đầu mối của ổ kén tằm, thấy được áo cừu may bằng muôn mảnh da nách chồn; kết lại mạch lạc mới thấy màu sắc đẹp đẽ; cốt lõi ở trăm nhà, đan thành văn chương đó, muôn dấu châu ngọc xây nên thể phú này, cao tận mây, trong như tuyết, từng chữ đều có hương vị.” [Nguyễn Công Cơ, Quần hiền phú tập 群賢賦集, A.575, Nguyễn Thiên Túng (阮天縱) viết tựa năm 1457, 類甫阮儔 Loại Phủ Nguyễn Trù tiểu dẫn năm 1728, Cảo quận công (鎬郡公) viết tựa năm 1729. Xem thêm: Nguyễn Minh Tấn (chủ biên), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981]. (33) Thuyên thích (cg. Thông diễn, chú giải, thuyên thích học): nguyên từ hermeneutics chỉ việc giải thích kinh điển Thiên chúa, sau dùng để chỉ sự diễn dịch, giải thích các tác phẩm văn học. [M. H. Abrams 1999: 127-132] (34) Điều này Nguyễn Kim Sơn cũng đã từng chỉ ra: “Đọc lại bài Cư trần lạc đạo phú, đúng như đầu đề của nó, toàn bài phú diễn tả một cách sinh động rất nhiều phương diện của đời sống tu hành, với những lạc thú tinh thần trong cõi tục, trong đó tư tưởng Phật tính tự tâm và phương pháp tu tâm là trục xuyên suốt và kết nối.” (2009). (35) Xem thêm một số bài viết gần đây của Nguyễn Kim Sơn về đề tài này, như “Góp bàn về lý tưởng thẩm mỹ của Đạo gia”, tạp chí Văn học, số 2/2003; “Tự nhiên luận của Đạo gia với một số quan niệm cơ bản của lý luận phê bình văn học cổ trung đại phương Đông”, Hội thảo Phương Đông hợp tác và phát triển, 2003; “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang”, Văn học, số 4, 2009. (36) Hạnh (kể hạnh): là một thuật ngữ về thể loại chức năng của văn học Phật giáo. Trước nay ít được quan tâm. (37) Quy mao thố giác 龜毛兔角. (38) Từ góc độ thông diễn xã hội học, Lê Trí Viễn gọi đó là cách “quần chúng hóa rộng rãi” của phú Nôm [1978: 173], Phan Ngọc xem “mách qué” như một biểu hiện về sự “khúc xạ” của phú Trung Quốc vào phú Việt Nam [1998: 58]. Hay như Phạm Văn Ánh trong Từ điển văn học (bộ mới) có nhận định: “Càng về những giai đoạn sau, phú Nôm và phú Quốc ngữ càng tiếp thu nhiều yếu tố của ngôn ngữ đời sống, sử dụng các chất liệu từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao do đó từ một thể loại mang tính bác học, điển nhã, trang trọng, phú Việt Nam có những chuyển biến quan trọng thể hiển rõ tính bình dân hóa và thông tục hóa” (2004: 1.427). 16 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. H. Abrams, 1999 (7th ed), A Glossary of Literary Terms, Heinle & Heinle-Thomson Learning. 2. Nguyễn Thị Hà An 阮氏荷安, Dân Quốc 99.《 越南陳朝慧忠上士之禪學思想研究》。國立屏東 教 育大學中國語文學系碩士論文。 3. Phạm Văn Ánh, “Phú”, trong Từ điển văn học (Bộ mới), Huệ Chi chủ biên, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004. 4. Simon Blackburn, repr 1996, The Oxford Dictionary of Philosophy, Oxford: Oxford University Press. 5. Chris Baldick, 2008, Oxford Dictionary Terms, in lần thứ 3, Oxford University Press. 6. Diệp Quang Ban, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010. 7. Phạm Tú Châu, “Xác định tính chất và bối cảnh ra đời bài Cảm xúc khi đọc Phật sự đại minh lục của Trần Thánh Tông”, trong Đi giữa đôi dòng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999. 8. Dagobert D. Runes, 1959, The Dictionary of Philosophy, Philosophical Library, New York. 9. Đoàn Ánh Dương, “Cảm hứng quan phương và vị thế của Nho sĩ qua (và trong) văn phú thời Lý Trần”, Thông báo Hán Nôm học 2008, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 169-195. 10. Trần Trọng Dương, “Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho Phật”, trong Phật giáo - Văn học với 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Nxb Văn hóa, 2010, tr. 97-109. 11. Trần Trọng Dương, “Khảo sát ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi trong môi trường giảng dạy- dịch thuật kinh điển Nho gia (Từ góc nhìn liên văn bản)”, tạp chí Hợp lưu, tháng 8-9-10/2011, Hoa Kỳ, tr. 5-38. 12. Trần Trọng Dương, “Hệ thống từ cổ tiếng Việt thế kỷ XIII qua sáng tác Nôm của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”, tạp chí Hán Nôm, số 01/2014. 13. Cao Hữu Đính, Văn học sử Phật giáo, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996. 14. Luo Zhu Feng 罗竹风(主编), (1994)《汉语大词典》(Hán ngữ đại từ điển), (全13卷). 汉语大词典 出版社。 15. Đinh Thanh Hiếu, “Lược khảo phú chữ Hán Việt Nam”, trong Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 611-656. 16. Nguyễn Duy Hinh, Triết học Phật giáo Việt Nam, Viện Văn hóa-Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 420. 17. Giác Hoàng khảo đính, Pháp Loa chép, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Trần Khắc Chung bạt, Chân Nguyên Tuệ Đăng trùng san. 18. Nguyễn Phạm Hùng, Thơ thiền Việt Nam- Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998. 19. Nguyễn Ngọc Lân, “Lược khảo Lê triều bát vận phú”, tạp chí Hán Nôm, số 4 (94). 2009, tr. 30-37. 20. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM, 2002. 21. Trần Nghĩa, Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000. 22. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985. 23. Nguyễn Đình Phức, “Từ phú Trung Quốc đến phú Việt Nam”, tạp chí Hán Nôm, số 04/2003, tr. 60-69. 24. Nguyễn Kim Sơn, “Bàn về cảm hứng cư trần lạc đạo trong thơ Trần Nhân Tông”, trong Mấy vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006. 25. Nguyễn Kim Sơn, “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang: nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc”, Nghiên cứu văn học, số 04/2009, tr. 75-89. 26. Nguyễn Kim Sơn, “Cội nguồn triết học của tinh thần nhập thế Trần Nhân Tông”, tạp chí Khuông Việt, số 6, tháng 4/2009, tr. 40-47. 27. Nguyễn Kim Sơn & Trần Thị Mỹ Hòa, “Mấy phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền gia”, trong Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX: Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007. 17Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015 28. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005. 29. Bùi Duy Tân và cs. Văn học Việt Nam: từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, tái bản 2005, “Khái quát về văn học trung đại Việt Nam”, trong Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 30. Hà Văn Tấn, “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam”, tạp chí Văn hóa, số 4, Hà Nội, 1992. 31. Trần Thị Băng Thanh, “Thử phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn học mang dấu ấn Phật giáo thời trung đại”, tạp chí Văn hóa, số 4, Hà Nội, 1992. 32. Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, TP HCM, 2001. 33. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007. 34. Đàm Anh Thư, Phú Nôm thời trung đại: hành trình và đóng góp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2009. 35. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ XIV, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996. 36. Lê Trí Viễn (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1978. 37. Phạm Tuấn Vũ, “Góp phần tìm hiểu phú Nôm”, tạp chí Văn học, 2000, tr. 56-62. 38. Trần Ngọc Vương, “Giao thoa Đông Tây và sự chuyển đổi hệ hình văn học”, trong Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2010, tr. 393-406. 39. Phân Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Tổng tập thơ Nôm Trúc Lâm Yên Tử, Trần Trọng Dương hiệu đính, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 40. Nguyễn Hùng Vỹ, Trần Trọng Dương, “Từ nguyên của “khoáng”- “khoảng”- “quãng”- “khoản”- “khoang”- “khang”- “xoang”- “xang”- “xương” qua một số ngữ liệu tiếng Việt thế kỷ XIII-XX”, Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 40 năm ngành Hán Nôm, Nxb Đại học Quốc gia, 2013. 41. William A Darity Jr (editor in Chef), 2008, International Encyclopedia of the Social Sciences (2nd Ed: Volume 6), Macmillan Reference USA - Course Technology Cengage Learning. 42. Zhu Zinan 朱子南, 1988.《 中國文體學辭典》。湖南教育出版社。湖南。 TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu sự thay đổi hệ hình văn học trung đại Việt Nam qua những kiểu bứng trồng về ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại văn học, và chức năng của thể loại qua trường hợp phú Nôm Phật giáo. Tư liệu khảo sát bao gồm bốn bài phú Nôm của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử từ thời Trần đến thời Lê. Kết quả nghiên cứu cho thấy tư tưởng nhất quán của ý niệm nghệ thuật thiền là nền tảng thống nhất cho mọi sự thay đổi hệ hình. Mặt khác, sự bứng trồng thể loại, và quá trình nhập hệ chức năng thể loại, ngôn ngữ biểu đạt, hệ thống hình tượng, mỹ cảm nghệ thuật (qua các công án thiền, ngôn ngữ thiền,...) là những minh chứng rõ rệt cho quá trình thay đổi hệ hình văn học. ABSTRACT PARADIGM SHIFT IN LITERATURE: THE CASE OF BUDDHISM “NÔM” ODES IN TRÚC LÂM YÊN TỬ ZEN SECT The article examines the paradigm shift of Vietnamese medieval literature through the transplantation in art language, literary genres, and functions of genres based on Buddhist Nôm (Chinese-transcribed Vietnamese) Odes. Documents for survey include four Nôm Odes of Trúc Lâm Yên Tử Zen sect from the Trần Dynasty to the Lê Dynasty. The results show that the ideological consistency of the concept of Zen art is the basis for every paradigm shift. On the other hand, the transplantation of genres and the import of functional system of genres, expressive language, system of images, sense of beauty in art (through Zen koans, Zen language,...) are specific proof of the process of paradigm shift in literature.
File đính kèm:
- su_thay_doi_he_hinh_van_hoc_truong_hop_phu_nom_phat_giao_don.pdf