Sự phù hợp của AIS và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - Phân tích đa nhóm với mô hình SEM

Bài viết nghiên cứu mô hình đánh giá sự ảnh hưởng và mức độ đóng góp của các yếu tố

nhu cầu thông tin và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin trong sự phù hợp của hệ thống thông tin

kế toán (Accounting Information System - AIS). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm với 398 doanh

nghiệp đang hoạt động tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam1 trên hai nhóm doanh nghiệp

(nhóm doanh nghiệp nhỏ, nhóm doanh nghiệp vừa và lớn) cho thấy các nhân tố nhu cầu thông tin

và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin có ảnh hưởng và đóng góp tích cực vào sự phù hợp của

AIS. Đồng thời, sự phù hợp của AIS tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện sự khác biệt lớn giữa hai nhóm doanh nghiệp về mức độ

phù hợp của AIS và sự ảnh hưởng của AIS đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp.

Từ đó, bài viết đưa ra một số gợi ý về định hướng xây dựng và phát triển AIS có khả năng xử lý và

đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhà quản lý doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.

pdf 10 trang kimcuc 14600
Bạn đang xem tài liệu "Sự phù hợp của AIS và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - Phân tích đa nhóm với mô hình SEM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phù hợp của AIS và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - Phân tích đa nhóm với mô hình SEM

Sự phù hợp của AIS và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - Phân tích đa nhóm với mô hình SEM
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 
 64
Sự phù hợp của AIS và hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp - Phân tích đa nhóm với mô hình SEM 
Trần Thứ Ba* 
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Số 12 Nguyễn Văn Bảo, 
Phường 4, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh 
Nhận ngày 27 tháng 7 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 10 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017 
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu mô hình đánh giá sự ảnh hưởng và mức độ đóng góp của các yếu tố 
nhu cầu thông tin và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin trong sự phù hợp của hệ thống thông tin 
kế toán (Accounting Information System - AIS). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm với 398 doanh 
nghiệp đang hoạt động tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam1 trên hai nhóm doanh nghiệp 
(nhóm doanh nghiệp nhỏ, nhóm doanh nghiệp vừa và lớn) cho thấy các nhân tố nhu cầu thông tin 
và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin có ảnh hưởng và đóng góp tích cực vào sự phù hợp của 
AIS. Đồng thời, sự phù hợp của AIS tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện sự khác biệt lớn giữa hai nhóm doanh nghiệp về mức độ 
phù hợp của AIS và sự ảnh hưởng của AIS đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp. 
Từ đó, bài viết đưa ra một số gợi ý về định hướng xây dựng và phát triển AIS có khả năng xử lý và 
đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhà quản lý doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. 
Từ khóa: Hiệu quả hoạt động kinh doanh, hệ thống thông tin kế toán, mô hình đánh giá, nhân tố ảnh 
hưởng, SEM. 
1. Giới thiệu 1 
Ngày nay sự phát triển của công nghệ thông 
tin đã góp phần cung cấp thông tin kịp thời, 
đáng tin cậy và nhanh chóng, giúp các nhà quản 
lý doanh nghiệp xử lý các công việc nhanh 
chóng và hiệu quả. Kế toán là một bộ phận 
quan trọng của hệ thống quản lý, có vai trò tích 
cực trong việc quản lý điều hành và kiểm soát 
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
AIS cung cấp thông tin kế toán, tài chính cho 
nhà quản lý các cấp trong doanh nghiệp, hội 
đồng quản trị và những người sử dụng bên 
_______ 
* ĐT.: 84-983325080. 
 Email: tranthuba@iuh.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4124 
1 Bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình 
Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh. 
ngoài doanh nghiệp để họ đưa ra quyết định 
phù hợp. Chính vì vậy, AIS là một nhân tố 
không thể thiếu trong hệ thống các công cụ 
quản lý doanh nghiệp hiệu quả. Nghiên cứu này 
chỉ ra mức độ phù hợp của AIS phụ thuộc vào 
năng lực cung cấp thông tin của AIS và các nhu 
cầu thông tin đối với AIS. AIS càng phù hợp sẽ 
giúp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
càng hiệu quả. 
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu 
Theo lý thuyết xử lý thông tin (Galbraith, 
1973), khả năng xử lý thông tin phù hợp với các 
nhu cầu thông tin của tổ chức sẽ tác động đáng 
kể đến hiệu quả hoạt động của tổ chức. Do vậy, 
hiệu quả của khả năng xử lý thông tin được 
đánh giá phụ thuộc vào nhu cầu thông tin của tổ 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 65
chức. Khi các doanh nghiệp có khả năng xử lý 
thông tin có thể đáp ứng được nhu cầu thông tin 
thì sự phù hợp này sẽ có tác động đáng kể đến 
hiệu quả hoạt động của tổ chức [2]. Cách tiếp 
cận này cũng phù hợp với đề xuất của Van de 
Ven và Drazin (1984), khi các tác giả cho rằng 
hiệu quả hoạt động của tổ chức là sự phù hợp 
giữa hai hay nhiều yếu tố. Ismail và King 
(2005) đã chú trọng vào sự phù hợp giữa các 
yêu cầu thông tin kế toán và khả năng xử lý của 
hệ thống thông tin dựa trên máy tính để tạo ra 
thông tin của hệ thống thông tin kế toán [1]. 
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu trước, tác 
giả xác định hướng phát triển nghiên cứu của 
mô hình và đề xuất mô hình nghiên cứu dựa 
trên nghiên cứu của Ismail và King (2005). 
Nghiên cứu của Ismail và King (2005) dựa trên 
4 biến: Với hai biến trung gian là các nhu cầu 
thông tin kế toán đối với hệ thống thông tin kế 
toán và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin của 
hệ thống thông tin kế toán; một biến độc lập là 
sự phù hợp trong hệ thống thông tin kế toán; 
một biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động kinh 
doanh. Hơn nữa, Ismail và King (2005) đã sử 
dụng các phương pháp phân tích chủ yếu là 
thống kê mô tả, Anova, Cluster. Chính vì vậy, 
việc phân tích và đánh giá còn nhiều hạn chế. 
Nghiên cứu này sẽ xây dựng và phân tích bằng 
mô hình phương trình cấu trúc (Structural 
Equation Modeling - SEM) với nhân tố đa 
hướng để đánh giá sự phù hợp trong AIS đối 
với các doanh nghiệp hoạt động tại khu vực 
kinh tế trọng điểm phía Nam nước ta. Để khẳng 
định và đánh giá các nhân tố trong sự phù hợp 
của AIS cũng như tác động của sự phù hợp 
trong AIS đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, 
nghiên cứu tiến hành phỏng vấn các chuyên gia 
trong lĩnh vực hệ thống thông tin kế toán và kế 
toán kiểm toán. Mục đích của cuộc phỏng vấn 
nhằm xem xét khả năng hợp lý của việc vận 
dụng mô hình của Ismail và King (2005) vào 
môi trường doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả 
nghiên cứu sơ bộ này là cơ sở để thiết kế và 
điều chỉnh bảng hỏi cho nghiên cứu chính thức. 
Hơn nữa, các nhu cầu về thông tin kế toán 
đối với AIS thì không có mối quan hệ trực tiếp 
với hiệu quả hoạt động. Đồng thời, không có 
mối quan hệ trực tiếp giữa khả năng đáp ứng 
thông tin của AIS với hiệu quả hoạt động. Bất 
kỳ mối quan hệ nào giữa các nhu cầu thông tin 
kế toán hoặc khả năng đáp ứng của AIS đến 
hiệu quả hoạt động đều thông qua sự phù hợp 
trong AIS [1]. Sự phù hợp trong AIS ảnh hưởng 
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của tổ chức. 
Trên cơ sở lý thuyết nghiên cứu, tác giả đề xuất 
mô hình nghiên cứu như sau (Hình 1): 
g 
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất. 
Nguồn: Tác giả đề xuất
Mô hình nghiên cứu gồm 4 nhân tố: Nhu 
cầu thông tin đối với AIS (AIS requirements - 
IR), Khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin của 
AIS (AIS capacity - IC), Sự phù hợp trong AIS 
Đo lường sự phù hợp của IAS 
+ 
+ 
+ 
Các nhu cầu thông tin đối với AIS (IR) 
Sự phù hợp 
trong AIS 
(AL) 
Khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin của AIS 
(IC) 
Hiệu quả hoạt 
động kinh doanh 
(P) 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 66
(AIS alignment - AL), Hiệu quả hoạt động kinh 
doanh (Performance - P). 
Nghiên cứu của một số tác giả trước như 
Ismail và King (2005), Nguyễn Thị Tố Quyên 
(2015)... chưa đề cập đến việc đo lường mối 
quan hệ giữa hai nhân tố IR và IC [1, 14]. 
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện phân 
tích đa nhóm với mô hình SEM nhằm đánh giá 
và so sánh mức độ ảnh hưởng của sự phù hợp 
trong AIS đến hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của các nhóm doanh nghiệp khác nhau. 
Giả thuyết nghiên cứu 
H1: Nhân tố nhu cầu thông tin đối với AIS 
(IR) và nhân tố khả năng đáp ứng nhu cầu 
thông tin của AIS (IC) có ảnh hưởng và đóng 
góp tích cực trong sự phù hợp của AIS. 
H2: Sự phù hợp của AIS ảnh hưởng tích cực 
đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
H3: Nhu cầu thông tin từ AIS có ảnh hưởng 
tích cực đến khả năng đáp ứng nhu cầu thông 
tin của AIS. 
Hơn nữa, nghiên cứu cũng thực hiện đo 
lường và đánh giá mức độ phù hợp của AIS 
bởi các phép phân tích tương quan, hồi quy 
đơn giữa hai thành phần IR và IC theo từng 
nhóm doanh nghiệp với phương trình tổng 
quát như sau: 
0 1 IR + eIC (1) 
Với e là sai số. 
3. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu định tính được tiến hành khảo 
sát và tham khảo ý kiến của một số chuyên gia 
là các nhà quản lý tại các doanh nghiệp và 
giảng viên giảng dạy về AIS tại Trường Đại học 
Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Trường 
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nhằm 
nhận diện và xác định các nhân tố ảnh hưởng 
trong sự phù hợp của AIS đến hiệu quả hoạt 
động kinh doanh, đồng thời kết hợp với nghiên 
cứu lý thuyết và các nghiên cứu trước có liên 
quan [1, 14]. Sau nhiều lần hiệu chỉnh, bảng 
câu hỏi cuối cùng đã được xây dựng hoàn chỉnh 
với 42 câu hỏi và đưa vào khảo sát định lượng 
tại các lớp học kế toán trưởng, thạc sĩ, CFO, 
CEO tại các thành phố thuộc khu vực kinh tế 
trọng điểm phía Nam. 
Thiết kế thang đo cho bảng hỏi khảo sát: 
Tất cả các biến quan sát trong các thành phần 
đều sử dụng thang đo Likert 5 điểm. Thang đo 
Nhu cầu thông tin đối với AIS lựa chọn từ 1 
đến 5 nghĩa là “hoàn toàn không quan trọng” 
đến “hoàn toàn rất quan trọng”. Thang đo Khả 
năng đáp ứng nhu cầu thông tin của AIS lựa chọn 
từ 1 đến 5 nghĩa là “hoàn toàn không có khả năng 
đáp ứng” đến “hoàn toàn đủ khả năng đáp ứng 
toàn diện”. Với nhân tố phụ thuộc Hiệu quả hoạt 
động kinh doanh lựa chọn từ 1 đến 5 nghĩa là “rất 
không hiệu quả” đến “rất hiệu quả”. 
Thang đo các thành phần (nhân tố): Nhân 
tố IR được thiết kế đo lường bởi 19 biến quan 
sát (thang đo). Nhân tố IC cũng được thiết kế 
19 biến đo lường tương ứng. Nhân tố AL là 
nhân tố trung gian được kết hợp từ hai thành 
phần IR và IC. Cuối cùng, nhân tố phụ thuộc P 
được thiết kế đo lường bởi 4 biến. 
Khảo sát định lượng được tiến hành từ đầu 
tháng 9/2016 đến cuối tháng 6/2017, đối tượng 
chọn mẫu là các nhà quản lý cấp trung và cấp 
cao, tức kế toán tổng hợp, kế toán trưởng hay 
trưởng phòng kế toán, giám đốc điều hành, 
giám đốc tài chính. 
Nghiên cứu định lượng được thực hiện 
thông qua phương pháp trực tiếp phát phiếu 
điều tra (bảng hỏi) kết hợp với gửi khảo sát 
online (google.docs). Phương pháp lấy mẫu phi 
ngẫu nhiên - lấy mẫu thuận tiện. Mô hình đo 
lường gồm 42 biến quan sát, theo Hair và cộng 
sự (1998) thì kích thước mẫu cần thiết là 
n = 210 (42 x 5). Để đạt được kích thước mẫu 
đề ra, 500 bảng câu hỏi được gửi phỏng 
vấn/khảo sát các nhà quản lý. Kết quả thu thập 
được 421 phiếu phản hồi, trong đó có 23 phiếu 
trả lời không hợp lệ, còn 398 phiếu đạt yêu cầu. 
Dữ liệu được nhập và phân tích trên phần mềm 
SPSS 20 và AMOS 22. 
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
4.1. Mẫu nghiên cứu 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 67
Kết quả mẫu khảo sát có 398 quan sát 
(phiếu), trong đó các doanh nghiệp được khảo 
sát phân nhóm theo thời gian hoạt động và số 
cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp (Bảng 
1). Kết quả cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp nhỏ 
chiếm 52,8%, còn doanh nghiệp có quy mô vừa 
và lớn chiếm 47,2%, chủ yếu là các doanh 
nghiệp hoạt động lâu năm (trên 5 năm). Tuy 
vậy, mẫu khảo sát vẫn đảm bảo cho nghiên cứu 
và các kết quả phân tích của mẫu vẫn có ý 
nghĩa đối với tổng thể. 
Kết quả thống kê các thang đo của thành 
phần P (hiệu quả hoạt động kinh doanh) được 
trình bày trong Bảng 2. Kết quả cũng cho thấy 
các doanh nghiệp thuộc nhóm vừa và lớn hoạt 
động kinh doanh có hiệu quả cao hơn thể hiện 
qua các chỉ tiêu như: Lợi nhuận dài hạn, mức 
tăng trưởng doanh thu, giá trị sẵn có của nguồn 
lực tài chính, hình ảnh và lòng trung thành của 
khách hàng. Đặc biệt, các doanh nghiệp lớn 
hoạt động hiệu quả và rất hiệu quả chiếm tỷ lệ 
lớn (60-75,4%). Các doanh ngiệp hoạt động ít 
hiệu quả là các doanh nghiệp đang trong thời kỳ 
thay đổi (như thay đổi tổ chức, hệ thống thông 
tin quản lý, chiến lược kinh doanh) để phát 
triển, với tỷ lệ cao rơi vào các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa (38-56%). 
Bảng 1. Kết quả phân nhóm doanh nghiệp 
theo thời gian hoạt động và quy mô doanh nghiệp 
 Số nhân viên 
doanh nghiệp 
Tổng 
Dưới 50 Từ 50 
đến 200 
Trên 200 
Thời gian 
hoạt động 
Dưới 5 năm 
Số quan sát 152 27 16 195 
% số nhân viên doanh nghiệp 77,9% 13,8% 8,2% 100% 
Từ 5-10 năm 
Số quan sát 43 45 26 114 
% số nhân viên doanh nghiệp 37,7% 39,5% 22,8% 100% 
Trên 10 năm 
Số quan sát 15 15 59 89 
% số nhân viên doanh nghiệp 16,9% 16,9% 66,3% 100% 
Tổng 
Số quan sát 210 87 101 398 
% số nhân viên doanh nghiệp 52,8% 21,9% 25,3% 100% 
Nguồn: Tác giả tổng hợp. 
Bảng 2. Kết quả thống kê các thang đo của nhân tố P 
Mức độ hiệu quả Nhóm Rất 
không 
hiệu quả 
Không 
hiệu quả 
Ít 
hiệu quả 
Hiệu quả Rất 
hiệu quả 
Chỉ tiêu 
Lợi nhuận dài hạn Nhỏ 1,6% 9,8% 55,7% 31,3% 1,6% 
Vừa 
Lớn 
0% 
0% 
14,1% 
3,1% 
45,9% 
27,7% 
36,5% 
53,1% 
3,5% 
16,2% 
Mức tăng trưởng doanh thu Nhỏ 3,3% 8,2% 47,5% 34,4% 6,6% 
Vừa 
Lớn 
0% 
0% 
10,6% 
6,2% 
42,4% 
33,8% 
41,2% 
39,2% 
5,9% 
20,8% 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 68
Giá trị sẵn có của nguồn lực 
tài chính 
Nhỏ 3,3% 14,8% 44,3% 31,1% 6,6% 
Vừa 
Lớn 
0% 
0% 
21,2% 
5,4% 
45,9% 
19,2% 
15,3% 
52,3% 
17,6% 
23,1% 
Hình ảnh và lòng trung thành 
của khách hàng 
Nhỏ 1,6% 8,2% 49,2% 37,7% 3,3% 
Vừa 
Lớn 
0% 
0,8% 
10,6% 
3,1% 
38,8% 
30,8% 
47,1% 
54,6% 
3,5% 
10,8% 
Nguồn: Tác giả tổng hợp. 
4.2. Đánh giá thang đo bằng hệ số tin cậy 
Cronbach’s Alpha và phân tích EFA 
Kết quả kiểm tra độ tin cậy bằng hệ số 
Cronbach’s Alpha cho thấy: 37/42 biến quan sát 
của các nhân tố là phù hợp (đạt tiêu chuẩn), các 
nhân tố đều có tương quan với biến tổng lớn 
hơn 0,3; hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6 
nên có thể kết luận: Sau khi loại bỏ 5 biến quan 
sát không đạt yêu cầu thì độ tin cậy của các 
thang đo dùng trong mô hình đảm bảo độ tin 
cậy cho phép. Trong đó, hai nhân tố IR và IC là 
các nhân tố đa hướng, vì vậy việc kiểm tra độ 
tin cậy Cronbach’s Alpha vẫn đảm bảo thực 
hiện trên từng nhân tố đơn hướng. 
Phân tích EFA về các nhân tố nghiên cứu 
Kết quả EFA nhân tố IR cho thấy có 2 biến 
quan sát ban đầu là R01 và R12 có hệ số tải 
nhân tố nhỏ hơn 0,5 nên bị loại, còn lại 17 biến 
được nhóm thành 3 thành phần. Nhân tố IC cho 
thấy có 3 biến quan sát ban đầu là C04, C11 và 
C15 có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,5 nên lần 
lượt cũng bị loại, còn lại 16 biến được nhóm 
thành 4 thành phần. Cuối cùng, nhóm nghiên 
cứu đã tiến hành đặt lại tên các thành phần cho 
phù hợp như sau (Bảng 3): 
Bảng 3. Tóm tắt thông tin về các thành phần trong phép phân tích 
Thành phần 
Độ tin cậy 
(Cronbach’s 
Alpha) 
Phương sai 
trích 
Hệ số KMO và 
kiểm định Bartlett 
R1 - Nhu cầu thông tin liên quan đến các báo cáo chung 
phổ biến 
0,835 67,426 0,812 
(p = ,000) 
R2 - Nhu cầu thông tin phi kinh tế, thông tin phân tích 
rủi ro 
0,814 63,596 0,805 
(p = ,000) 
R3 - Nhu cầu thông tin liên quan đến các quyết định 
kinh doanh 
0,875 70,116 0,840 
(p = ,000) 
C1 - Khả năng đáp ứng các thông tin liên quan đến các 
quyết định kinh doanh 
0,818 68,759 0,814 
(p = ,000) 
C2 - Khả năng đáp ứng các thông tin liên quan đến các 
báo cáo chung phổ biến 
0,820 69,433 0,802 
(p = ,000) 
C3 - Khả năng đáp ứng các thông tin về phân tích rủi ro 
và thông tin phi kinh tế 
0,815 63,783 0,736 
(p = ,000) 
C4 - Khả năng đáp ứng các thông tin liên quan đến các 
vấn đề khác 
0,682 56,625 0,679 
(p = ,000) 
P - Hiệu quả hoạt động kinh doanh 0,906 78,693 0,859 
(p = ,000) 
Nguồn: Tác giả tổng hợp phân tích từ SPSS.
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 69
4.3. Phân tích nhân tố khẳng định CFA 
Kết quả của phân tích CFA cho thấy hệ số 
chưa chuẩn hóa của các biến (37 biến) đều có ý 
nghĩa thống kê và hệ số đã chuẩn hóa đều lớn 
hơn 0,5 ...  nguyên. 
Các trọng số chưa chuẩn hóa đều có ý 
nghĩa thống kê (P-value < 0,05) và các trọng 
số chuẩn hóa đều lớn hơn 0,5. Vì vậy, ta có 
thể kết luận các biến quan sát dùng để đo 
lường các thành phần, nhân tố của mô hình 
đạt được giá trị hội tụ. 
Hệ số tin cậy của các thang đo và tổng 
phương sai trích các thành phần trong mô hình 
đều đạt tiêu chuẩn (Bảng 3). Hơn nữa, ta cũng 
có hệ số tương quan giữa các thành phần đều 
nhỏ hơn 0,9. Mặt khác, các giá trị p-value đều 
nhỏ hơn 0,05, nên hệ số tương quan của từng 
cặp thành phần khác biệt so với 1 ở độ tin cậy 
95%. Như vậy, các thang đo của mô hình đạt 
giá trị phân biệt. 
4.4. Phân tích SEM 
Nghiên cứu tiến hành thiết kế và hiệu chỉnh 
mô hình SEM trên AMOS1 để phân tích định 
lượng nhằm kiểm tra và khẳng định mô hình lý 
thuyết về việc đánh giá mức độ ảnh hưởng sự 
phù hợp của AIS (AL) đến hiệu quả hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp (P). Kết quả phân 
tích thể hiện ở Hình 3 và Hình 4 (phân tích đa 
nhóm - mô hình bất biến). Mô hình phù hợp với 
dữ liệu nghiên cứu bởi Chi-square/df = 1,215; 
TLI = 0,948; CFI = 0,958; RMSEA = 0,043 
(< 0,05). 
g 
Hình 2. Kết quả phân tích mô hình CFA.1
_______ 
1 Phần mềm thống kê được sử dụng để phân tích SEM. 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 70
Trong bước phân tích SEM, tác giả tiến 
hành phân tích trên hai mô hình gồm mô hình 
khả biến và mô hình bất biến để kiểm tra giả 
thuyết sau: 
H4: Chi-square của mô hình khả biến bằng 
Chi-square của mô hình bất biến 
H5: Có sự khác biệt về Chi-square giữa mô 
hình khả biến và mô hình bất biến 
Nguyên tắc quyết định, nếu P-value = 
CHIDIST2 (sai lệch chi-square, sai lệch bậc tự 
do) < 0,05 thì có cơ sở để bác bỏ H4, tức có sự 
khác biệt về Chi-square giữa hai mô hình. Khi 
đó, mô hình khả biến được chọn. Ngược lại, 
nếu P-value = CHIDIST > 0,05 thì mô hình bất 
biến được chọn [15]. 
Kết quả cho thấy P-value = CHIDIST 
(11,079; 1) = 0,000873, nên có cơ sở để bác bỏ 
giả thuyết H4 ở độ tin cậy 99% và chấp nhận H5, 
tức có sự khác biệt về Chi-square giữa mô hình 
khả biến và mô hình bất biến. Vậy mô hình khả 
biến được chọn. Trong đó, Hình 3 là kết quả 
phân tích đối với nhóm doanh nghiệp nhỏ, Hình 
4 là kết quả phân tích đối với nhóm doanh 
nghiệp vừa và lớn. Kết quả chi tiết thể hiện 
trong Bảng 4 và Bảng 5. 
Phân tích mối quan hệ giữa IC và IR trên 
mô hình SEM1 đối với nhóm doanh nghiệp 
nhỏ, ta có kết quả như sau: 
IC = 0,29 + 0,54IR + e (2) 
Hệ số tương quan giữa hai thành phần là 
r = 0,548, nghĩa là mức độ tương quan của 
chúng chỉ đạt 54,8%, thể hiện mức độ tương 
thích (phù hợp) giữa IC và IR thấp. 
Bảng 4. Trọng số ảnh hưởng của các thành phần 
trong mô hình SEM1 (nhóm doanh nghiệp nhỏ) 
Thành phần AL P 
IC 0,54 0,24 
IR 0,60 0,26 
AL X 0,44 
Nguồn: Kết quả phân tích trên AMOS. 
_______ 
2 Hàm tính giá trị p-value trong Excel 2013. 
Hơn nữa, trọng số của IR trong AL (0,60) 
lớn hơn so với trọng số của IC (0,54). Điều đó 
cho thấy ở các doanh nghiệp quy mô nhỏ thì 
khả năng cung cấp thông tin thấp, hay nhu cầu 
thông tin về các báo cáo quản trị thấp hoặc 
không có (chỉ có các báo cáo tài chính thông 
thường). Kết quả phương trình (2) cho thấy khả 
năng đáp ứng nhu cầu thông tin của AIS ở các 
doanh nghiệp nhỏ chỉ đáp ứng được ở mức 
trung bình là 54% các nhu cầu thông tin đối với 
AIS. Do đó, sự phù hợp trong AIS của các 
doanh nghiệp này cũng thấp. Kết quả cũng cho 
thấy AL của nhóm doanh nghiệp nhỏ có ảnh 
hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp nhưng mức độ đóng góp tăng 
hiệu quả hoạt động thấp hơn nhiều so với nhóm 
doanh nghiệp vừa và lớn. Kết quả là, sự phù 
hợp của AIS thấp dẫn đến hiệu quả hoạt động 
nói chung của nhóm doanh nghiệp nhỏ cũng 
thấp (kết hợp xem Bảng 2). 
Phân tích mối quan hệ giữa IC và IR trên 
mô hình SEM2 đối với nhóm doanh nghiệp vừa 
và lớn, ta có kết quả như sau: 
IC = 0,87 + 0,93IR + e (3) 
Hệ số tương quan giữa hai thành phần là r = 
0,878, cho thấy mức độ tương quan giữa IC & 
IR là khá cao, hơn nữa hệ số của IR trong 
phương trình (3) cũng cao (0,93). 
Hình 3. Kết quả phân tích SEM đối với doanh 
nghiệp nhỏ (SEM1). 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 71
Bảng 5. Trọng số ảnh hưởng của các thành phần 
trong mô hình SEM2 
(nhóm doanh nghiệp vừa và lớn) 
Thành phần AL P 
IC 0,55 0,39 
IR 0,47 0,33 
AL X 0,70 
Nguồn: Kết quả phân tích trên AMOS. 
Điều này thể hiện mức độ tương thích (phù 
hợp) giữa IC và IR là cao. Từ đó, ta thấy ở các 
doanh nghiệp quy mô vừa và lớn thì khả năng 
đáp ứng thông tin của AIS là cao, mức độ đáp 
ứng thông tin của AIS ở mức trung bình là 93% 
các nhu cầu thông tin đối với AIS. Do đó, sự 
phù hợp trong AIS của các doanh nghiệp này 
được đánh giá là khá cao. Kết quả cũng cho 
thấy AL của nhóm doanh nghiệp vừa và lớn có 
ảnh hưởng rất tích cực đến hiệu quả hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp (0,70). Kết quả là, 
sự phù hợp của AIS cao dẫn đến hiệu quả hoạt 
động nói chung của nhóm doanh nghiệp vừa và 
lớn cũng cao (kết hợp xem Bảng 2). 
Tóm lại, kết quả phân tích đa nhóm (Bảng 4 
và Bảng 5) cho thấy: IR và IC có ảnh hưởng và 
đóng góp tích cực trong sự phù hợp của AIS. 
Hình 4. Kết quả phân tích SEM đối với 
doanh nghiệp vừa và lớn (SEM2). 
Tương tự, AL ảnh hưởng tích cực đến hiệu 
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và 
IR có ảnh hưởng tích cực đến khả năng đáp ứng 
nhu cầu thông tin của AIS. Do đó, các giả thiết 
nghiên cứu ban đầu là H1, H2, H3 đều có ý nghĩa 
thống kê. 
4.5. Thảo luận 
Sự phù hợp trong AIS được đo lường bởi 
khả năng đáp ứng thông tin (IC) và các nhu cầu 
thông tin từ AIS của người dùng hay các nhà 
quản lý (IR). Khi thành phần IC trong AL có 
trọng số cao hơn IR đáng kể cho thấy hệ thống 
quản lý của doanh nghiệp bộc lộ sự yếu kém. 
Điều này có nghĩa rằng các nhà quản lý doanh 
nghiệp có nhu cầu quá ít về thông tin, hay nói 
cách khác, nhu cầu về các báo cáo quản trị rất ít 
(chỉ một số báo cáo thông thường), không có 
các báo cáo dạng phân tích và đề xuất các giải 
pháp phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy 
nhiên, điều này là một dấu hiệu rất tốt đối với 
doanh nghiệp có bộ phân kế toán quản trị đủ 
mạnh và một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu 
hiệu và hiệu quả. 
Trường hợp ngược lại là trọng số của IC 
trong AL nhỏ hơn IR một cách đáng kể, tất 
nhiên điều này cho thấy AIS của doanh nghiệp 
không đáp ứng được nhu cầu thông tin của 
người dùng và các nhà quản lý. 
Khiếm khuyết của nghiên cứu là chưa phân 
tích riêng cho nhóm doanh nghiệp vừa và nhóm 
doanh nghiệp lớn để thấy rõ hơn về sự phù hợp 
của AIS cũng như mức độ ảnh hưởng của AL 
đến P của từng nhóm doanh nghiệp, từ đó so 
sánh để thấy được có sự khác biệt hay không 
giữa các nhóm. 
5. Gợi ý giải pháp 
Đối với các doanh nghiệp đã tổ chức AIS 
nhưng không thành công hoặc cần tổ chức lại 
AIS vì hệ thống đang sử dụng không đáp ứng 
được nhu cầu thông tin cho các cơ quan quản lý 
chức năng hay hệ thống đầu tư quá cao so với 
nhu cầu thông tin thấp, nhà quản lý cần chú ý 
phân tích và khắc phục một số vấn đề sau: Phân 
tích ưu và nhược điểm trong việc đáp ứng nhu 
cầu thông tin của AIS hiện tại; phân tích mức 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 72
độ phù hợp giữa các nhu cầu thông tin kế toán 
mà doanh nghiệp cần và khả năng đáp ứng của 
AIS đang hoạt động trong doanh nghiệp; phân 
tích mức độ kiểm soát trong AIS; phân tích 
mức tăng, giảm của hiệu quả hoạt động trước 
và sau khi áp dụng AIS Từ đó, doanh nghiệp 
có thể tiến hành cải thiện AIS một cách hợp lý 
hoặc nâng cao trình độ, kỹ năng của nhân viên 
để có thể sử dụng, phân tích những thông tin 
hữu ích khác mà AIS được đầu tư cao mang lại, 
nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh tốt hơn cho 
doanh nghiệp. 
Để đánh giá AIS hiện tại về mức độ đáp 
ứng yêu cầu thông tin, quản lý và kiểm soát của 
doanh nghiệp, cần thực hiện xem xét một số 
điểm sau: 
Về dữ liệu đầu vào của AIS: Cần xác định các 
dữ liệu nào cần thiết liên quan đến các thông tin 
nào mà AIS cần cung cấp cho các đối tượng sử 
dụng thông tin bên trong hay bên ngoài doanh 
nghiệp; xác định mức độ đầy đủ và thỏa mãn, 
thường xuyên của các dữ liệu đầu vào trong quá 
trình nhập liệu của kế toán, nhược điểm của hệ 
thống chứng từ đang áp dụng. 
Về quá trình xử lý dữ liệu của AIS: Cần 
xem xét mức độ xử lý dữ liệu, khả năng tập hơp 
và phân tích dữ liệu, khả năng cập nhật các thay 
đổi trong chính sách, quy định liên quan 
Về đầu ra của AIS: Cần xem xét nội dung 
các thông tin đã được xử lý và cung cấp, thời 
điểm cung cấp báo cáo đã đáp ứng ở mức độ 
nào; mức độ thỏa mãn yêu cầu cung cấp kết 
xuất đầu ra, hệ thống báo cáo, phân tích kế toán 
được thiết lập và cung cấp đáp ứng như thế nào 
với yêu cầu của người sử dụng, mức độ thỏa 
mãn về hình thức trình bày báo cáo có phù hợp 
với đối tượng sử dụng thông tin không, nhược 
điểm nếu có là gì, mức độ thường xuyên trong 
hoạt động kiểm tra các kết xuất đầu ra của AIS 
như báo cáo, sổ kế toán như thế nào, 
Về lưu trữ của AIS: Cần xem xét cách thức 
lưu trữ dữ liệu và thông tin của AIS được thực 
hiện như thế nào, mức độ thuận lợi trong hoạt 
động tiếp cận, tìm kiếm khi cần dữ liệu và 
thông tin như thế nào, nhược điểm trong lưu trữ 
dữ liệu và thông tin của hệ thống thông tin 
kế toán. 
Về tổ chức bộ máy kế toán của AIS: Cần 
xem xét bộ máy kế toán hiện tại của doanh 
nghiệp đáp ứng yêu cầu xử lý và cung cấp 
thông tin kế toán như thế nào, doanh nghiệp có 
chính sách cập nhật và nâng cao trình độ cho 
nhân viên kế toán bằng những biện pháp nào, 
bộ máy kế toán tồn tại nhược điểm gì 
Về kiểm soát trong AIS: Cần xem xét mức 
độ hỗ trợ trong kiểm soát quá trình nhập liệu 
nhằm giảm thiểu sai sót, gian lận; mức độ giám 
sát, kiểm tra các hành vi truy cập hệ thống; mức 
độ phân chia trách nhiệm giữa các nhân viên kế 
toán nhằm hỗ trợ công tác kiểm soát trên toàn 
hệ thống, các chính sách về bảo vệ hệ thống 
máy tính được thực hiện như thế nào, chính 
sách bảo vệ dữ liệu và thông tin khỏi sự tiếp 
cận của những người không có thẩm quyền 
được thực hiện như thế nào, các nhược điểm 
cần khắc phục liên quan đến chính sách kiểm 
soát đã được ban hành. 
Về tổ chức kế toán theo chu trình trong 
AIS: Cần xem xét AIS của doanh nghiệp đã tổ 
chức theo chu trình ở mức độ nào. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Noor Azizi Ismail, Malcolm King, “Firm 
performance and AIS alignment in Malaysian 
SMEs”, International Journal of Accounting 
Information Systems, 6 (2005), 241-259. 
[2] Louadi, Mohamed El, “The Relationship Among 
Organization Structure, Information Technology 
and Information Processing in Small Canadian 
Firms”, Canadian Journal of Administrative 
Sciences, 15 (1998) 2, 180-199. 
[3] Deepak Khazanchi, “Information technology (IT) 
appropriateness: The contingency theory of “FIT” 
and IT Implementation in small and medium 
enterprises”, Journal of Computer Information 
Systems, 45 (2005) 3, 88-95. 
[4] Abernethy, M. A., Guthrie, C. H., “An empirical 
assessment of the “fit” between strategy and 
management information system design”, Journal 
Accounting & Finance, 34 (1994) 2, 49-66. 
[5] Amidu, M., Abor, J., “Accounting Information 
and Management of SMEs in Ghana”, African 
Journal of Finance and Management, 14 (2005) 1, 
15-24. 
T.T. Ba / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 64-73 73
[6] Bollen, K. A., Structural equations with latent 
variables, John Wiley & Sons, 2004. 
[7] Bolon, D. S., “Information processing theory: 
Implications for health care organisations”, 
International Journal of Technology 
Management, 15 (1998) 3, 211-221. 
[8] Cragg, P., King, M., & Hussin, H., “IT alignment 
and firm performance in small manufacturing 
firms”, The Journal of Strategic Information 
Systems, 11 (2002) 2, 109-132. 
[9] Gul F.A., “The effects of management accounting 
systems and environmental uncertainty on small 
business managers’ performance”, Accounting 
and Business Research Journal, 22 (1991) 85, 
57-61. 
[10] Gul F.A., Chia Y.M., “The effects of management 
accounting systems, perceived environmental 
uncertainty and decentralisation on managerial 
performance: A test of three-way interaction”, 
Accounting, Organizations and Society,19 (1994) 
4/5, 413-26. 
[11] Raymond L., Pare G., Bergeron F., “Matching 
information technology and organisational 
structure: An empirical study with implications 
for performance”, European Journal of 
Information Systems, 4 (1995), 3-16. 
[12] Fuller T., “Fulfilling IT needs in small businesses: 
A recursive learning model”, International Small 
Business Journal, 14 (1996) 4, 25-44. 
[13] Chan Y.E., Huff S.L., Barclay D.W., Copeland 
D.G., “Business strategic orientation, information 
systems strategic orientation and strategic 
alignment”, Information Systems Research, 8 
(1997) 2, 125-50. 
[14] Nguyễn Thị Tố Quyên, “Đo lường mức độ phù 
hợp của hệ thống thông tin kế toán trong mối quan 
hệ với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các 
doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận 
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố 
Hồ Chí Minh, 2015. 
[15] Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang, 
Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh, 
NXB. Thống kê, Hà Nội, 2008, tr. 208. 
[16] Huỳnh Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Mạnh Toàn, “Đánh 
giá hiệu quả của hệ thống thông tin kế toán”, Tạp chí 
Kế toán & Kiểm toán, 6 (2013), 11-15. 
[17] Nguyễn Bích Liên, “Xác định và kiểm soát các nhân 
tố ảnh hưởng chất lượng thông tin kế toán trong môi 
trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn lực 
doanh nghiệp (ERP) tại các doanh nghiệp Việt 
Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học 
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2012. 
Ư 
AIS’s Alignment amd Businsess Performance of Firms 
A Multigroup Analysis with SEM model 
Tran Thu Ba 
Industrial University of Ho Chi Minh City, No. 12 Nguyen Van Bao, 
Ward 4, Go Vap Dist., Ho Chi Minh City, Vietnam 
Abstract: The paper studies the model that assesses impacts and contributions of the factors 
of information request (IR) and information capacity (IC) in the Accounting Information 
System’s alignment (AIS). The empirical research carried out in 398 enterprises which are 
divided into a group of small sized enterprises and a group of medium and large sized 
enterprises in the Southern key economic areas of Vietnam indicates that IR and IC make 
positive contributions to AIS’s alignment. AIS’s alignment also has a strong impact on firms’ 
business performance (P). In addition, a large difference between the two groups of enterprises 
regards AIS’s alignment and influence on firms’s business performance is also detected. The 
paper concludes with a number of orientations suggested by the author in developing AISs that 
are capable of processing and meeting demands for information of administrators helping 
improve Vietnamese enterprises’ business performance in the international integration. 
Keywords: Business performance, accounting information system, assessment model, 
impact factors, SEM. 

File đính kèm:

  • pdfsu_phu_hop_cua_ais_va_hieu_qua_hoat_dong_kinh_doanh_cua_doan.pdf