Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima

Bài báo trình bày kết quả thu được khi sử dụng chương trình FLEXPART tính toán phát tán

chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima dựa trên bộ dữ liệu khí tượng trong

khoảng thời gian tháng 3 và tháng 4 năm 2011 và thông số liên quan tới sự cố Fukushima. Xác định

nồng độ các nhân phóng xạ Cs-137, Cs-134, I-131 trong không khí và rơi lắng tại Hà Nội, Đà Lạt,

TP. Hồ Chí Minh và một số khu vực khác trong vùng Đông Nam Á có liên quan tới sự cố này. Qua

mô phỏng thu được bộ số liệu tại các trạm quan trắc trong khu vực. Từ đó tiến hành kiểm chứng khả

năng sử dụng chương trình trong tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa thông qua sự cố nhà máy

điện hạt nhân Fukushima.

pdf 7 trang kimcuc 17960
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima

Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
13Số 57 - Tháng 12/2018
Bài báo trình bày kết quả thu được khi sử dụng chương trình FLEXPART tính toán phát tán 
chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima dựa trên bộ dữ liệu khí tượng trong 
khoảng thời gian tháng 3 và tháng 4 năm 2011 và thông số liên quan tới sự cố Fukushima. Xác định 
nồng độ các nhân phóng xạ Cs-137, Cs-134, I-131 trong không khí và rơi lắng tại Hà Nội, Đà Lạt, 
TP. Hồ Chí Minh và một số khu vực khác trong vùng Đông Nam Á có liên quan tới sự cố này. Qua 
mô phỏng thu được bộ số liệu tại các trạm quan trắc trong khu vực. Từ đó tiến hành kiểm chứng khả 
năng sử dụng chương trình trong tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa thông qua sự cố nhà máy 
điện hạt nhân Fukushima.
I. MỞ ĐẦU
Sau khi xảy ra tai nạn nhà máy điện hạt 
nhân Fukushima Daiichi tại Nhật Bản vào tháng 
3 năm 2011, Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) 
đã tổ chức một nhóm các nhà khoa học để đáp 
ứng yêu cầu của Ủy ban Khoa học Liên hợp quốc 
về tác động bức xạ nguyên tử (UNSCEAR) trong 
việc hỗ trợ các khía cạnh khí tượng học trong 
đánh giá liều lượng từ các nhân phóng xạ phát 
tán từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi 
[1]. Trong đó thống nhất chung sử dụng các mô 
hình vận chuyển và phát tán trong khí quyển kết 
hợp với dữ liệu khí tượng và so sánh các mô 
hình dự báo với các dữ liệu quan trắc phóng xạ. 
Nhóm các nhà khoa học tham gia đến từ Trung 
tâm Khí tượng Canada (CMC), Cơ quan Quản 
trị khí tượng và đại dương Mỹ (NOAA), Dịch 
vụ thời tiết UK (UKMET), Cơ quan Khí tượng 
Nhật Bản (JMA), Viện Khí tượng và địa hình 
Áo (ZAMG). Trong đó sử dụng các mô hình 
vận chuyển và phát tán khí quyển như MLDP0, 
RATH, HYSPLIT, NAME, FLEXPART kết hợp 
với dữ liệu khí tượng từ các mô hình như GEM, 
GDAS, ECMWF, UKMO, MESO. Các kết quả 
nghiên cứu trên cho một cái nhìn tổng quan về 
tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực đánh giá phát 
tán phóng xạ trong khí quyển, các mô hình tính 
toán được phát triển trên thế giới, cũng như các 
hệ thống dữ liệu khí tượng đáp ứng yêu cầu đầu 
vào của mỗi mô hình. Nhìn chung các mô hình 
đều có kết quả tương tự như nhau, thể hiện rõ 
khả năng mô phỏng phát tán phóng xạ trong khí 
quyển, phục vụ đắc lực trong trường hợp xảy ra 
sự cố nhà máy điện hạt nhân.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 
FLEXPART kết hợp với dữ liệu khí tượng cung 
cấp bởi Trung tâm Dự báo Môi trường quốc gia 
Mỹ (NCEP) để mô phỏng phát tán phóng xạ trong 
SỬ DỤNG CHƯƠNG TRÌNH
FLEXPART TÍNH TOÁN PHÁT TÁN
 CHẤT PHÓNG XẠ TẦM XA
TỪ SỰ CỐ NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN FUKUSHIMA
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
14 Số 57 - Tháng 12/2018
khí quyển từ tai nạn hạt nhân Fukushima Daiichi 
đến khu vực Đông Nam Á. Qua đó, chúng tôi 
so sánh kết quả mô phỏng với kết quả quan trắc 
phóng xạ trong khí quyển tại Việt Nam và vùng 
Đông Nam Á từ tai nạn hạt nhân Fukushima 
Daichi [2]–[4], và so sánh với các kết quả tính 
toán của nhóm nghiên cứu trên. Đây là bước kiểm 
chứng cần thiết trước khi sử dụng FLEXPART để 
mô phỏng phát tán phóng xạ từ các nhà máy điện 
hạt nhân gần nước ta.
Đối với bài toán phát tán phóng xạ tầm 
xa, phần mềm FLEXPART phát triển bởi Andreas 
Stohl được cung cấp dưới dạng mã nguồn mở, 
hiện đang được các cơ quan của chính phủ, các 
tổ chức và các nhà khoa học nghiên cứu ứng 
dụng và phát triển. FLEXPART là mô hình vận 
chuyển và phát tán sử dụng thuật toán Lagrange 
để mô phỏng trong phạm vi rộng các quá trình 
vận chuyển trong khí quyển, quá trình rơi lắng 
hay phân rã phóng xạ, ứng dụng trong phát tán 
phóng xạ hoặc các chất ô nhiễm không khí dựa 
trên dữ liệu khí tượng từ Trung tâm Dự báo Thời 
tiết hạn vừa Châu Âu (ECMWF) hay Trung tâm 
Dự báo Môi trường quốc gia Mỹ (NCEP). Hiện 
nay phiên bản tiếp theo của phần mềm đang được 
phát triển bởi Tổ chức Hiệp ước cấm thử hạt nhân 
toàn diện (CTBTO).
Ở nước ta, vấn đề phát tán phóng xạ trong 
không khí cũng được các tổ chức, cá nhân trong 
nước nghiên cứu như: Viện Khoa học và kỹ thuật 
hạt nhân, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học 
quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà 
Nội... Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu sử 
dụng mô hình Gauss để tính toán phát tán phóng 
xạ. Nhược điểm của mô hình này là phạm vi mô 
phỏng ngắn, nó phù hợp đối với các kịch bản phát 
tán phóng xạ tầm gần như đánh giá tác động của 
nhà máy điện hạt nhân đối với các vùng dân cư 
xung quanh. Đối với bài toán phát tán phóng xạ 
tầm xa, FLEXPART sử dụng mô hình vận chuyển 
và phát tán hạt Lagrange là một hướng đi mới 
trong nghiên cứu mô hình tính toán phát tán 
phóng xạ kết hợp với hệ thống dữ liệu khí tượng 
toàn cầu, có thể áp dụng cho các kịch bản phát 
tán phóng xạ tác động đến Việt Nam, qua đó có 
những kế hoạch cảnh báo sớm hay ứng phó sự cố 
kịp thời.
II. MÔ HÌNH VẬN CHUYỂN TRONG KHÍ 
QUYỂN VÀ SỐ HẠNG NGUỒN CỦA CÁC 
NHÂN PHÓNG XẠ
Trong nghiên cứu này, FLEXPART phiên 
bản 9.02 [5]–[7] được sử dụng để mô phỏng các 
chất phóng xạ 131I và 137Cs phát tán từ tai nạn 
hạt nhân Fukushima Daiichi đến khu vực Đông 
Nam Á, trong đó sử dụng các trạm quan trắc của 
Việt Nam, Nhật Bản và một số trạm quan trắc của 
CTBTO ở các nước xung quanh. Các thông quá 
số đầu vào trong mô phỏng phát tán phóng xạ từ 
nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi như 
trong Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1. Các thông số đầu vào trong mô 
phỏng phán tán phóng xạ từ Fukushima
Parameter Value 
Operating system CentOS Server 6.5 
Radionuclides 131I and 137Cs 
Meteorological data NCEP CFSv2, 0.5°x0.5° 
Time of simulation/release 15h00 11/3 - 00h00 20/4/2011 UTC 
Latitude/ Longitude 37.4214, 141.0325 
Total number of particles ~10 million particles 
Output time step 3600 s (1 hour) 
Output grid 0.25° globally (1440x720 grid points) 
Mixing height 0-500 m 
Output layer height 0-12000 m 
Particle density 1900 kg m-3 
Geometric mass mean diameter 0.48 µm 
Logarithmic standard deviation 0.15 µm 
Wet deposition parameters A, B 1.0E-4, 0.8 
Dry deposition velocity 0.001 m/s 
Observed data Vietnam, Japan and CTBTO stations 
Nghiên cứu này sử dụng mô hình 
FLEXPART 9.02 để mô phỏng các nhân phóng 
xạ phát tán toàn cầu trong thời gian từ 15h00 ngày 
11/3/2011 đến 00h00 ngày 20/4/2011. Sử dụng 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
15Số 57 - Tháng 12/2018
nhân phóng xạ 137Cs và 131I với số hạng nguồn 
tham khảo nghiên cứu của Katata [8] và nhóm 
nghiên cứu WMO [1] theo khoảng thời gian phát 
thải 3 tiếng. Các nhân phóng xạ được giả thiết 
phát tán ra bầu khí quyển ở độ cao 0-500 m. 
Lượng phát thải của 131I và 137Cs trong thời gian 
xảy ra tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima 
Daiichi như trong hình 1.
Hình 1. Phát thải của 131I và 137Cs trong 
thời gian xảy ra sự cố hạt nhân Fukushima 
Daiichi
III. PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TAI NẠN 
FUKUSHIMA
Trong khoảng thời gian xảy ra tai nạn nhà 
máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi vào tháng 
3 năm 2011, do vị trí nhà máy nằm ở vĩ độ 30ºN 
phía Bắc bán cầu và là khu vực gió tây chiếm ưu 
thế nên phóng xạ phát tán từ nhà máy lan truyền 
hầu hết phía Bắc bán cầu theo hướng chính từ 
Tây sang Đông, lan truyền từ Nhật Bản đến châu 
Mỹ, qua châu Âu, tới châu Á và cuối cùng tràn 
xuống khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, do đặc 
trưng gió mùa khu vực Đông Nam Á và các biến 
động do đới hội tụ liên chí tuyến (ICTZ) tại khu 
vực này mà một phần lượng phóng xạ phát tán 
từ nhà máy di chuyển trực tiếp về phía khu vực 
Đông Nam Á. Diễn biến quá trình lan truyền của 
phóng xạ thông qua phân tích dữ liệu khí tượng 
và dữ liệu thu được từ quan trắc và mô phỏng, cụ 
thể như sau:
Thứ 6 ngày 11/3/2011, trận động đất 
Tohoku-Oki đã dẫn đến một cơn sóng thần cực 
mạnh tàn phá nhà máy điện Fukushima Daiichi 
[9]. Phóng xạ phát tán từ nhà máy phần lớn di 
chuyển về phía Thái bình dương do gió tây chiếm 
ưu thế trong hầu hết thời gian xảy ra tai nạn [10], 
sau đó phóng xạ cuốn theo xoáy nghịch gây bởi 
áp thấp Aleutian và di chuyển đến phía Tây Mỹ 
sau 5 ngày. Áp thấp này chính là nguyên nhân 
khiến phóng xạ được nâng lên cao trong tầng 
Đối lưu và nâng đến dòng xiết hay dòng tia (Jet 
stream). Dòng xiết ở độ cao 8-12 km với tốc độ có 
thể đạt tới 160 km/h là nguyên nhân khiến phóng 
xạ được lan truyền rất nhanh phía Bắc bán cầu. 
Kết hợp với hệ thống xoáy thuận nghịch và front 
làm cho phóng xạ được nâng lên hạ xuống và lan 
truyền toàn bộ phía Bắc bán cầu sau khoảng 17 
ngày (11-28/3).
Hình 2. Diến biến áp suất khí tượng trong 
thời gian xảy ra sự cố Fukushima Daiichi
Vào ngày 18/3/2011, xoáy thuận do cao 
áp Siberia di chuyển qua phía Nam Nhật Bản kết 
hợp với các biến động do đới hội tụ liên chí tuyến 
tại khu vực này, làm cho một lượng chất phóng 
xạ đang di chuyển ngoài biển chuyển hướng di 
chuyển ngược lại theo chiều kim đồng hồ theo 
cao áp, hướng về phía khu vực Đông Nam Á 
như Hình 2 và 3. Đây chính là lượng phóng xạ 
đầu tiên sẽ di chuyển đến khu vực Đông Nam 
Á. Lượng phóng xạ này di chuyển phần lớn ở 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
16 Số 57 - Tháng 12/2018
lớp biên hành tinh với tốc độ chậm hơn hướng 
di chuyển chính (Hình 3, 4), đến ngày 22/3 mới 
di chuyển đến Philipines, một phần nguyên nhân 
lượng phóng xạ này di chuyển chậm cũng do 
xoáy thuận tại khu vực Philipines vào ngày 23/3 
(Hình 2). Lượng phóng xạ này di chuyển đến Việt 
Nam sau ngày 24/3.
Hình 3. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán 
trong khí quyển tại độ cao từ bề mặt đến 2000 m 
(lớp biên hành tinh) phía Bắc bán cầu
Hình 4. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán 
trong khí quyển tại độ cao từ 2000 m đến 8000 m 
(lớp giữa tầng Đối lưu) phía Bắc bán cầu
Đến ngày 28/3/2011, phóng xạ đã lan 
truyền hầu hết Bắc bán cầu. Vào thời điểm ngày 
04/04/2011, diễn biến khí tượng như trong Hình 
2, lúc này cao áp Siberia dịch chuyển đến ven 
biển Trung Quốc và Nhật Bản, cao áp này cuốn 
phóng xạ theo chiều kim đồng hồ di chuyển thẳng 
về khu vực Đông Nam Á đến Việt Nam sau 4 
ngày, quá trình di chuyển thu được các đỉnh cực 
đại tại các trạm quan trắc dọc đường lan truyền. 
Đây chính là yếu tố đặc trưng ở khu vực Đông 
Nam Á, ngoài di chuyển toàn cầu đến còn có thời 
điểm phóng xạ lan truyền thẳng từ nhà máy đến.
Hình 5. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán 
trong khí quyển tại độ cao từ 8000 m đến 12000 m 
(lớp cao tầng Đối lưu chứa dòng xiết Jet Stream) 
phía Bắc bán cầu
IV. SO SÁNH KẾT QUẢ MÔ PHỎNG VÀ 
QUAN TRẮC
Hình 6 và 7 thể hiện các giá trị nồng độ 
của 131I và 137Cs thu được từ mô phỏng và quan 
trắc tại 8 trạm quan trắc của Việt Nam, Nhật Bản 
và CTBTO. Nhìn chung, dữ liệu thu được từ mô 
phỏng có dạng tương quan với các giá trị quan 
trắc, thời điểm phóng xạ phát tán đến các trạm 
cũng gần như trùng khớp giữa mô phỏng và quan 
trắc. Ta có thể thấy vào thời điểm đầu tháng 4 
xuất hiện các đỉnh quan trắc và mô phỏng tương 
ứng với khoảng thời gian phóng xạ di chuyển 
thẳng về phía Việt Nam qua các trạm Okianawa, 
Manila, Hanoi, Dalat, HCM từ ngày 6-10 tháng 
4.
Hình 8 và 9 thể hiện tỉ số của 131I và 137Cs 
tại nguồn phát và tại các trạm quan trắc thu được 
từ mô phỏng và quan trắc trong thời gian xảy ra 
tai nạn Fukushima. Ta thấy tại các trạm quan trắc 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
17Số 57 - Tháng 12/2018
tỉ số 131I/137Cs thu được giảm dần so với tỉ số ban 
đầu tại nguồn phát cả ở dữ liệu quan trắc và mô 
phỏng. Nguyên nhân là do chu kỳ bán rã của 131I 
ngắn hơn so với 137Cs tương ứng là 8,02 ngày và 
30,1 năm. Nhìn chung, yếu tố phân rã phóng xạ 
thể hiện tương đối tốt trong mô hình FLEXPART.
Hình 6. So sánh giữa dữ liệu mô phỏng và 
quan trắc 131I tại các trạm quan trắc
Hình 7. So sánh giữa dữ liệu mô phỏng và 
quan trắc 137Cs tại các trạm quan trắc
Biểu đồ phân tán kết quả quan trắc và mô 
phỏng của hai nhân phóng xạ 131I và 137Cs tại 5 
trạm quan trắc khu vực Đông Nam Á, bao gồm 
Manila, Hanoi, Dalat, HCM và Kuala Lumpur 
trong khoảng từ 3000 km đến 5000 km từ nhà 
máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Ta thấy 
các kết quả mô phỏng của 131I phù hợp với quan 
trắc tốt hơn so với 137Cs, phần lớn các kết quả của 
131I nằm trong khoảng FA5. Trong khi đó các kết 
quả của 137Cs thu được từ mô phỏng cao hơn so 
với quan trắc. Ngoài các nguyên nhân do chênh 
lệnh về số hạng nguồn, cũng một phần nguyên 
nhân do giả thiết ban đầu về kích thước hạt được 
sử dụng trong mô phỏng giống nhau ở cả 131I và 
137Cs, giả thiết kích thước hạt này không phù hợp 
cho 137Cs do thấp hơn so với thực tế quan trắc 
được, với giả thiết hạt lớn hơn sẽ làm 137Cs rơi 
lắng nhiều hơn dẫn đến hạ thấp biểu đồ phân tán 
trên. Cụ thể trong thực tế các giá trị quan trắc 
được cho thấy kích thước hạt của của 131I nhỏ hơn 
so với 137Cs [11]–[14].
Hình 9. Tỉ số 131I/137Cs tại 8 trạm quan 
trắc với dữ liệu quan trắc (xanh) và dữ liệu mô 
phỏng (đỏ)
Hình 10. Biểu đồ phân tán kết quả quan 
trắc và mô phỏng của hai nhân phóng xạ 131I 
(trái) và 137Cs (phải) tại 5 trạm quan trắc khu vực 
Đông Nam Á
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
18 Số 57 - Tháng 12/2018
Bảng 2. Thống kê dữ liệu mô phỏng và 
quan trắc của 137Cs và 131I tại các trạm
 131I 137Cs 
CC (p-
value) 
FB FA5 NRMSE 
CC (p-
value) 
FB FA5 NRMSE 
Okinawa 
 0.7 
(<0.001) 
1.45 65 0.24 
 0.8 
(<0.001) 
0.65 20 0.21 
Guam 0.4 (0.05) 
-
0.62 
63 0.01 
 0.1 
(0.61) 
0.29 29 0.02 
Fukuoka 0.3 (0.15) 0.66 75 0.32 
 0.2 
(0.47) 
1.26 42 0.53 
Manila 0.3 (0.1) 0.95 79 0.29 
-0.1 
(0.88) 
1.46 39 0.30 
Hanoi 
-0.1 
(0.76) 
0.48 88 0.51 
 0.3 
(0.33) 
1.39 75 0.52 
Dalat 0.4 (0.09) 0.12 91 0.26 
 0.5 
(0.03) 
1.65 15 0.43 
HCM 0.6 (0.09) 0.41 100 0.47 
 0.8 
(0.03) 
1.14 71 0.56 
KL 0.2 (0.41) 0.95 63 0.44 
-0.1 
(0.73) 
1.39 22 0.72 
Bảng 2 thể hiện các kết quả thống kê thu 
được từ dữ liệu mô phỏng và quan trắc tại các 
trạm quan trắc. Các kết quả FA5, FB ở 131I tốt 
hơn so với kết quả thu được từ 137Cs tương tự như 
biểu đồ phân tán đã thể hiện. Các kết quả hệ số 
tương quan giữa mô phỏng và quan trắc ở một số 
trạm có giá trị p mang ý nghĩa thống kê tốt, còn 
lại một số trạm chưa được tốt nên các so sánh 
chưa mang lại nhiều ý nghĩa về mặt thống kê. Có 
rất nhiều nguyên do như dữ liệu quan trắc tại các 
trạm đó còn thưa và ít, hay ước lượng số hạng 
nguồn chưa thực sự chính xác so với thực tế, hay 
như mô hình tính toán chưa diễn đạt được hết sự 
lan truyền của phóng xạ trong bầu khí quyển. Tuy 
nhiên, các kết quả thu được bước đầu cho thấy 
khả năng ứng dụng tương đối tốt của mô hình 
FLEXPART trong mô phỏng phóng xạ lan truyền 
trong bầu khí quyển.
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, FLEXPART với 
mô hình phát tán hạt Lagrange được sử dụng để 
mô phỏng phóng xạ phát tán từ tai nạn nhà máy 
điện hạt nhân Fukushima Daiichi đến khu vực 
Đông Nam Á, kết hợp với dữ liệu khí tượng toàn 
cầu cung cấp bởi NCEP. Kết quả cho thấy phóng 
xạ phát tán đến khu vực Đông Nam Á thông qua 
hai con đường chính là lan truyền toàn cầu và khu 
vực. Cụ thể là lan truyền toàn cầu do đới gió tây 
chiếm ưu thế và lan truyền trực tiếp đến khu vực 
Đông Nam Á do đặc trưng khí tượng tại khu vực 
này. Nhìn chung, dữ liệu thu được từ mô phỏng 
có dạng tương quan với các giá trị quan trắc, thời 
điểm phóng xạ phát tán đến các trạm quan trắc 
cũng gần như trùng khớp giữa kết quả thu được 
từ mô phỏng và quan trắc.
Qua các kết quả thu được từ mô phỏng và 
quan trắc cho ta cái nhìn rõ hơn về lan truyền toàn 
cầu của phóng xạ trong tai nạn nhà máy điện hạt 
nhân Fukushima Daiichi và lan truyền của phóng 
xạ đến khu vực Đông Nam Á. Qua so sánh về cơ 
bản các kết quả thu được cũng tương đồng với các 
kết quả của các nghiên cứu trên thế giới. Mặc dù 
ở một số trạm các đánh giá thống kê chưa mang 
lại nhiều ý nghĩa, tuy nhiên các kết quả tính toán 
mô phỏng bước đầu cho thấy khả năng áp dụng 
tương đối tốt của FLEXPART trong bài toán phát 
tán phóng xạ tầm xa, có thể áp dụng cho các kịch 
bản phát tán phóng xạ tác động đến Việt Nam từ 
các nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc và Ấn 
Độ, qua đó có những kế hoạch cảnh báo sớm hay 
ứng phó sự cố kịp thời.
Hoàng Sỹ Thân, Phạm Kim Long
__________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] R. Draxler et al., “World Meteorological 
Organization Third Meeting of Wmo Task Team 
on Meteorological Analyses for Fukushima-
Daiichi Nuclear Power Plant Accident Vienna , 
Austria , 3 – 5 December 2012 Annex Iii,” no. 
December, pp. 3–5, 2012.
[2] N. Q. Long et al., “Atmospheric 
radionuclides from the Fukushima Dai-ichi 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
19Số 57 - Tháng 12/2018
nuclear reactor accident observed in Vietnam,” J. 
Environ. Radioact., vol. 111, pp. 53–58, 2012.
[3] UNSCEAR, “UNSCEAR: The 
Fukushima Accident,” p. 4, 2014.
[4] N. Momoshima, S. Sugihara, R. Ichikawa, 
and H. Yokoyama, “Atmospheric radionuclides 
transported to Fukuoka, Japan remote from the 
Fukushima Dai-ichi nuclear power complex 
following the nuclear accident,” J. Environ. 
Radioact., vol. 111, pp. 28–32, 2012.
[5] A. Stohl, M. Hittenberger, and G. Wotawa, 
“Validation of the lagrangian particle dispersion 
model FLEXPART against large-scale tracer 
experiment data,” Atmos. Environ., vol. 32, no. 
24, pp. 4245–4264, 1998.
[6] A. Stohl and T. Trickl, “A textbook 
example of long-range transport: Simultaneous 
observation of ozone maxima of stratospheric 
and North American origin in the free troposphere 
over Europe,” J. Geophys. Res. Atmos., vol. 104, 
no. D23, pp. 30445–30462, 1999.
[7] A. Stohl, C. Forster, A. Frank, P. Seibert, 
and G. Wotawa, “Technical note : The Lagrangian 
particle dispersion model FLEXPART version 6 . 
2,” Test, 2005.
[8] G. Katata et al., “Detailed source 
term estimation of the atmospheric release 
for the Fukushima Daiichi Nuclear Power 
Station accident by coupling simulations of an 
atmospheric dispersion model with an improved 
deposition scheme and oceanic dispersion 
model,” Atmos. Chem. Phys., vol. 15, no. 2, pp. 
1029–1070, 2015.
[9] S. Furuta et al., “Results of the 
environmental radiation monitoring following 
the accident at the Fukushima Daiichi Nuclear 
Power Plant. Interim report. Ambient radiation 
dose rate, radioactivity concentration in the air 
and radioactivity concentration in the fallout,” 
JAEA- Rev., vol. 035, no. August, p. 98, 2011.
[10] A. Stohl et al., “Xenon-133 and 
caesium-137 releases into the atmosphere from 
the Fukushima Dai-ichi nuclear power plant: 
Determination of the source term, atmospheric 
dispersion, and deposition,” Atmos. Chem. Phys., 
vol. 12, no. 5, pp. 2313–2343, 2012.
[11] M. Długosz-Lisiecka and H. Bem, 
“Aerosol residence times and changes in 
radioiodine-131I and radiocaesium-137Cs 
activity over Central Poland after the Fukushima-
Daiichi nuclear reactor accident,” J. Environ. 
Monit., vol. 14, no. 5, p. 1483, 2012.
[12] T. Doi, K. Masumoto, A. Toyoda, A. 
Tanaka, Y. Shibata, and K. Hirose, “Anthropogenic 
radionuclides in the atmosphere observed at 
Tsukuba: Characteristics of the radionuclides 
derived from Fukushima,” J. Environ. Radioact., 
vol. 122, pp. 55–62, 2013.
[13] H. Malá, P. Rulík, V. Bečková, J. Mihalík, 
and M. Slezáková, “Particle size distribution of 
radioactive aerosols after the Fukushima and the 
Chernobyl accidents,” J. Environ. Radioact., vol. 
126, pp. 92–98, 2013.
[14] O. Masson, “Size Distributions of 
Airborne Radionuclides from the Fukushima 
Nuclear Accident at,” no. August, 2017.

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_chuong_trinh_flexpart_tinh_toan_phat_tan_chat_phong.pdf