Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Bài báo trình bày kết quả thu được khi sử dụng chương trình FLEXPART tính toán phát tán
chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima dựa trên bộ dữ liệu khí tượng trong
khoảng thời gian tháng 3 và tháng 4 năm 2011 và thông số liên quan tới sự cố Fukushima. Xác định
nồng độ các nhân phóng xạ Cs-137, Cs-134, I-131 trong không khí và rơi lắng tại Hà Nội, Đà Lạt,
TP. Hồ Chí Minh và một số khu vực khác trong vùng Đông Nam Á có liên quan tới sự cố này. Qua
mô phỏng thu được bộ số liệu tại các trạm quan trắc trong khu vực. Từ đó tiến hành kiểm chứng khả
năng sử dụng chương trình trong tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa thông qua sự cố nhà máy
điện hạt nhân Fukushima.
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng chương trình Flexpart tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 13Số 57 - Tháng 12/2018 Bài báo trình bày kết quả thu được khi sử dụng chương trình FLEXPART tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa từ sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima dựa trên bộ dữ liệu khí tượng trong khoảng thời gian tháng 3 và tháng 4 năm 2011 và thông số liên quan tới sự cố Fukushima. Xác định nồng độ các nhân phóng xạ Cs-137, Cs-134, I-131 trong không khí và rơi lắng tại Hà Nội, Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh và một số khu vực khác trong vùng Đông Nam Á có liên quan tới sự cố này. Qua mô phỏng thu được bộ số liệu tại các trạm quan trắc trong khu vực. Từ đó tiến hành kiểm chứng khả năng sử dụng chương trình trong tính toán phát tán chất phóng xạ tầm xa thông qua sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima. I. MỞ ĐẦU Sau khi xảy ra tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011, Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) đã tổ chức một nhóm các nhà khoa học để đáp ứng yêu cầu của Ủy ban Khoa học Liên hợp quốc về tác động bức xạ nguyên tử (UNSCEAR) trong việc hỗ trợ các khía cạnh khí tượng học trong đánh giá liều lượng từ các nhân phóng xạ phát tán từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi [1]. Trong đó thống nhất chung sử dụng các mô hình vận chuyển và phát tán trong khí quyển kết hợp với dữ liệu khí tượng và so sánh các mô hình dự báo với các dữ liệu quan trắc phóng xạ. Nhóm các nhà khoa học tham gia đến từ Trung tâm Khí tượng Canada (CMC), Cơ quan Quản trị khí tượng và đại dương Mỹ (NOAA), Dịch vụ thời tiết UK (UKMET), Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA), Viện Khí tượng và địa hình Áo (ZAMG). Trong đó sử dụng các mô hình vận chuyển và phát tán khí quyển như MLDP0, RATH, HYSPLIT, NAME, FLEXPART kết hợp với dữ liệu khí tượng từ các mô hình như GEM, GDAS, ECMWF, UKMO, MESO. Các kết quả nghiên cứu trên cho một cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực đánh giá phát tán phóng xạ trong khí quyển, các mô hình tính toán được phát triển trên thế giới, cũng như các hệ thống dữ liệu khí tượng đáp ứng yêu cầu đầu vào của mỗi mô hình. Nhìn chung các mô hình đều có kết quả tương tự như nhau, thể hiện rõ khả năng mô phỏng phát tán phóng xạ trong khí quyển, phục vụ đắc lực trong trường hợp xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng FLEXPART kết hợp với dữ liệu khí tượng cung cấp bởi Trung tâm Dự báo Môi trường quốc gia Mỹ (NCEP) để mô phỏng phát tán phóng xạ trong SỬ DỤNG CHƯƠNG TRÌNH FLEXPART TÍNH TOÁN PHÁT TÁN CHẤT PHÓNG XẠ TẦM XA TỪ SỰ CỐ NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN FUKUSHIMA THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 14 Số 57 - Tháng 12/2018 khí quyển từ tai nạn hạt nhân Fukushima Daiichi đến khu vực Đông Nam Á. Qua đó, chúng tôi so sánh kết quả mô phỏng với kết quả quan trắc phóng xạ trong khí quyển tại Việt Nam và vùng Đông Nam Á từ tai nạn hạt nhân Fukushima Daichi [2]–[4], và so sánh với các kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu trên. Đây là bước kiểm chứng cần thiết trước khi sử dụng FLEXPART để mô phỏng phát tán phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân gần nước ta. Đối với bài toán phát tán phóng xạ tầm xa, phần mềm FLEXPART phát triển bởi Andreas Stohl được cung cấp dưới dạng mã nguồn mở, hiện đang được các cơ quan của chính phủ, các tổ chức và các nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng và phát triển. FLEXPART là mô hình vận chuyển và phát tán sử dụng thuật toán Lagrange để mô phỏng trong phạm vi rộng các quá trình vận chuyển trong khí quyển, quá trình rơi lắng hay phân rã phóng xạ, ứng dụng trong phát tán phóng xạ hoặc các chất ô nhiễm không khí dựa trên dữ liệu khí tượng từ Trung tâm Dự báo Thời tiết hạn vừa Châu Âu (ECMWF) hay Trung tâm Dự báo Môi trường quốc gia Mỹ (NCEP). Hiện nay phiên bản tiếp theo của phần mềm đang được phát triển bởi Tổ chức Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBTO). Ở nước ta, vấn đề phát tán phóng xạ trong không khí cũng được các tổ chức, cá nhân trong nước nghiên cứu như: Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội... Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu sử dụng mô hình Gauss để tính toán phát tán phóng xạ. Nhược điểm của mô hình này là phạm vi mô phỏng ngắn, nó phù hợp đối với các kịch bản phát tán phóng xạ tầm gần như đánh giá tác động của nhà máy điện hạt nhân đối với các vùng dân cư xung quanh. Đối với bài toán phát tán phóng xạ tầm xa, FLEXPART sử dụng mô hình vận chuyển và phát tán hạt Lagrange là một hướng đi mới trong nghiên cứu mô hình tính toán phát tán phóng xạ kết hợp với hệ thống dữ liệu khí tượng toàn cầu, có thể áp dụng cho các kịch bản phát tán phóng xạ tác động đến Việt Nam, qua đó có những kế hoạch cảnh báo sớm hay ứng phó sự cố kịp thời. II. MÔ HÌNH VẬN CHUYỂN TRONG KHÍ QUYỂN VÀ SỐ HẠNG NGUỒN CỦA CÁC NHÂN PHÓNG XẠ Trong nghiên cứu này, FLEXPART phiên bản 9.02 [5]–[7] được sử dụng để mô phỏng các chất phóng xạ 131I và 137Cs phát tán từ tai nạn hạt nhân Fukushima Daiichi đến khu vực Đông Nam Á, trong đó sử dụng các trạm quan trắc của Việt Nam, Nhật Bản và một số trạm quan trắc của CTBTO ở các nước xung quanh. Các thông quá số đầu vào trong mô phỏng phát tán phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi như trong Bảng 1 dưới đây. Bảng 1. Các thông số đầu vào trong mô phỏng phán tán phóng xạ từ Fukushima Parameter Value Operating system CentOS Server 6.5 Radionuclides 131I and 137Cs Meteorological data NCEP CFSv2, 0.5°x0.5° Time of simulation/release 15h00 11/3 - 00h00 20/4/2011 UTC Latitude/ Longitude 37.4214, 141.0325 Total number of particles ~10 million particles Output time step 3600 s (1 hour) Output grid 0.25° globally (1440x720 grid points) Mixing height 0-500 m Output layer height 0-12000 m Particle density 1900 kg m-3 Geometric mass mean diameter 0.48 µm Logarithmic standard deviation 0.15 µm Wet deposition parameters A, B 1.0E-4, 0.8 Dry deposition velocity 0.001 m/s Observed data Vietnam, Japan and CTBTO stations Nghiên cứu này sử dụng mô hình FLEXPART 9.02 để mô phỏng các nhân phóng xạ phát tán toàn cầu trong thời gian từ 15h00 ngày 11/3/2011 đến 00h00 ngày 20/4/2011. Sử dụng THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 15Số 57 - Tháng 12/2018 nhân phóng xạ 137Cs và 131I với số hạng nguồn tham khảo nghiên cứu của Katata [8] và nhóm nghiên cứu WMO [1] theo khoảng thời gian phát thải 3 tiếng. Các nhân phóng xạ được giả thiết phát tán ra bầu khí quyển ở độ cao 0-500 m. Lượng phát thải của 131I và 137Cs trong thời gian xảy ra tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi như trong hình 1. Hình 1. Phát thải của 131I và 137Cs trong thời gian xảy ra sự cố hạt nhân Fukushima Daiichi III. PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TAI NẠN FUKUSHIMA Trong khoảng thời gian xảy ra tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi vào tháng 3 năm 2011, do vị trí nhà máy nằm ở vĩ độ 30ºN phía Bắc bán cầu và là khu vực gió tây chiếm ưu thế nên phóng xạ phát tán từ nhà máy lan truyền hầu hết phía Bắc bán cầu theo hướng chính từ Tây sang Đông, lan truyền từ Nhật Bản đến châu Mỹ, qua châu Âu, tới châu Á và cuối cùng tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, do đặc trưng gió mùa khu vực Đông Nam Á và các biến động do đới hội tụ liên chí tuyến (ICTZ) tại khu vực này mà một phần lượng phóng xạ phát tán từ nhà máy di chuyển trực tiếp về phía khu vực Đông Nam Á. Diễn biến quá trình lan truyền của phóng xạ thông qua phân tích dữ liệu khí tượng và dữ liệu thu được từ quan trắc và mô phỏng, cụ thể như sau: Thứ 6 ngày 11/3/2011, trận động đất Tohoku-Oki đã dẫn đến một cơn sóng thần cực mạnh tàn phá nhà máy điện Fukushima Daiichi [9]. Phóng xạ phát tán từ nhà máy phần lớn di chuyển về phía Thái bình dương do gió tây chiếm ưu thế trong hầu hết thời gian xảy ra tai nạn [10], sau đó phóng xạ cuốn theo xoáy nghịch gây bởi áp thấp Aleutian và di chuyển đến phía Tây Mỹ sau 5 ngày. Áp thấp này chính là nguyên nhân khiến phóng xạ được nâng lên cao trong tầng Đối lưu và nâng đến dòng xiết hay dòng tia (Jet stream). Dòng xiết ở độ cao 8-12 km với tốc độ có thể đạt tới 160 km/h là nguyên nhân khiến phóng xạ được lan truyền rất nhanh phía Bắc bán cầu. Kết hợp với hệ thống xoáy thuận nghịch và front làm cho phóng xạ được nâng lên hạ xuống và lan truyền toàn bộ phía Bắc bán cầu sau khoảng 17 ngày (11-28/3). Hình 2. Diến biến áp suất khí tượng trong thời gian xảy ra sự cố Fukushima Daiichi Vào ngày 18/3/2011, xoáy thuận do cao áp Siberia di chuyển qua phía Nam Nhật Bản kết hợp với các biến động do đới hội tụ liên chí tuyến tại khu vực này, làm cho một lượng chất phóng xạ đang di chuyển ngoài biển chuyển hướng di chuyển ngược lại theo chiều kim đồng hồ theo cao áp, hướng về phía khu vực Đông Nam Á như Hình 2 và 3. Đây chính là lượng phóng xạ đầu tiên sẽ di chuyển đến khu vực Đông Nam Á. Lượng phóng xạ này di chuyển phần lớn ở THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 16 Số 57 - Tháng 12/2018 lớp biên hành tinh với tốc độ chậm hơn hướng di chuyển chính (Hình 3, 4), đến ngày 22/3 mới di chuyển đến Philipines, một phần nguyên nhân lượng phóng xạ này di chuyển chậm cũng do xoáy thuận tại khu vực Philipines vào ngày 23/3 (Hình 2). Lượng phóng xạ này di chuyển đến Việt Nam sau ngày 24/3. Hình 3. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán trong khí quyển tại độ cao từ bề mặt đến 2000 m (lớp biên hành tinh) phía Bắc bán cầu Hình 4. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán trong khí quyển tại độ cao từ 2000 m đến 8000 m (lớp giữa tầng Đối lưu) phía Bắc bán cầu Đến ngày 28/3/2011, phóng xạ đã lan truyền hầu hết Bắc bán cầu. Vào thời điểm ngày 04/04/2011, diễn biến khí tượng như trong Hình 2, lúc này cao áp Siberia dịch chuyển đến ven biển Trung Quốc và Nhật Bản, cao áp này cuốn phóng xạ theo chiều kim đồng hồ di chuyển thẳng về khu vực Đông Nam Á đến Việt Nam sau 4 ngày, quá trình di chuyển thu được các đỉnh cực đại tại các trạm quan trắc dọc đường lan truyền. Đây chính là yếu tố đặc trưng ở khu vực Đông Nam Á, ngoài di chuyển toàn cầu đến còn có thời điểm phóng xạ lan truyền thẳng từ nhà máy đến. Hình 5. Nồng độ phóng xạ 137Cs phát tán trong khí quyển tại độ cao từ 8000 m đến 12000 m (lớp cao tầng Đối lưu chứa dòng xiết Jet Stream) phía Bắc bán cầu IV. SO SÁNH KẾT QUẢ MÔ PHỎNG VÀ QUAN TRẮC Hình 6 và 7 thể hiện các giá trị nồng độ của 131I và 137Cs thu được từ mô phỏng và quan trắc tại 8 trạm quan trắc của Việt Nam, Nhật Bản và CTBTO. Nhìn chung, dữ liệu thu được từ mô phỏng có dạng tương quan với các giá trị quan trắc, thời điểm phóng xạ phát tán đến các trạm cũng gần như trùng khớp giữa mô phỏng và quan trắc. Ta có thể thấy vào thời điểm đầu tháng 4 xuất hiện các đỉnh quan trắc và mô phỏng tương ứng với khoảng thời gian phóng xạ di chuyển thẳng về phía Việt Nam qua các trạm Okianawa, Manila, Hanoi, Dalat, HCM từ ngày 6-10 tháng 4. Hình 8 và 9 thể hiện tỉ số của 131I và 137Cs tại nguồn phát và tại các trạm quan trắc thu được từ mô phỏng và quan trắc trong thời gian xảy ra tai nạn Fukushima. Ta thấy tại các trạm quan trắc THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 17Số 57 - Tháng 12/2018 tỉ số 131I/137Cs thu được giảm dần so với tỉ số ban đầu tại nguồn phát cả ở dữ liệu quan trắc và mô phỏng. Nguyên nhân là do chu kỳ bán rã của 131I ngắn hơn so với 137Cs tương ứng là 8,02 ngày và 30,1 năm. Nhìn chung, yếu tố phân rã phóng xạ thể hiện tương đối tốt trong mô hình FLEXPART. Hình 6. So sánh giữa dữ liệu mô phỏng và quan trắc 131I tại các trạm quan trắc Hình 7. So sánh giữa dữ liệu mô phỏng và quan trắc 137Cs tại các trạm quan trắc Biểu đồ phân tán kết quả quan trắc và mô phỏng của hai nhân phóng xạ 131I và 137Cs tại 5 trạm quan trắc khu vực Đông Nam Á, bao gồm Manila, Hanoi, Dalat, HCM và Kuala Lumpur trong khoảng từ 3000 km đến 5000 km từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Ta thấy các kết quả mô phỏng của 131I phù hợp với quan trắc tốt hơn so với 137Cs, phần lớn các kết quả của 131I nằm trong khoảng FA5. Trong khi đó các kết quả của 137Cs thu được từ mô phỏng cao hơn so với quan trắc. Ngoài các nguyên nhân do chênh lệnh về số hạng nguồn, cũng một phần nguyên nhân do giả thiết ban đầu về kích thước hạt được sử dụng trong mô phỏng giống nhau ở cả 131I và 137Cs, giả thiết kích thước hạt này không phù hợp cho 137Cs do thấp hơn so với thực tế quan trắc được, với giả thiết hạt lớn hơn sẽ làm 137Cs rơi lắng nhiều hơn dẫn đến hạ thấp biểu đồ phân tán trên. Cụ thể trong thực tế các giá trị quan trắc được cho thấy kích thước hạt của của 131I nhỏ hơn so với 137Cs [11]–[14]. Hình 9. Tỉ số 131I/137Cs tại 8 trạm quan trắc với dữ liệu quan trắc (xanh) và dữ liệu mô phỏng (đỏ) Hình 10. Biểu đồ phân tán kết quả quan trắc và mô phỏng của hai nhân phóng xạ 131I (trái) và 137Cs (phải) tại 5 trạm quan trắc khu vực Đông Nam Á THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 18 Số 57 - Tháng 12/2018 Bảng 2. Thống kê dữ liệu mô phỏng và quan trắc của 137Cs và 131I tại các trạm 131I 137Cs CC (p- value) FB FA5 NRMSE CC (p- value) FB FA5 NRMSE Okinawa 0.7 (<0.001) 1.45 65 0.24 0.8 (<0.001) 0.65 20 0.21 Guam 0.4 (0.05) - 0.62 63 0.01 0.1 (0.61) 0.29 29 0.02 Fukuoka 0.3 (0.15) 0.66 75 0.32 0.2 (0.47) 1.26 42 0.53 Manila 0.3 (0.1) 0.95 79 0.29 -0.1 (0.88) 1.46 39 0.30 Hanoi -0.1 (0.76) 0.48 88 0.51 0.3 (0.33) 1.39 75 0.52 Dalat 0.4 (0.09) 0.12 91 0.26 0.5 (0.03) 1.65 15 0.43 HCM 0.6 (0.09) 0.41 100 0.47 0.8 (0.03) 1.14 71 0.56 KL 0.2 (0.41) 0.95 63 0.44 -0.1 (0.73) 1.39 22 0.72 Bảng 2 thể hiện các kết quả thống kê thu được từ dữ liệu mô phỏng và quan trắc tại các trạm quan trắc. Các kết quả FA5, FB ở 131I tốt hơn so với kết quả thu được từ 137Cs tương tự như biểu đồ phân tán đã thể hiện. Các kết quả hệ số tương quan giữa mô phỏng và quan trắc ở một số trạm có giá trị p mang ý nghĩa thống kê tốt, còn lại một số trạm chưa được tốt nên các so sánh chưa mang lại nhiều ý nghĩa về mặt thống kê. Có rất nhiều nguyên do như dữ liệu quan trắc tại các trạm đó còn thưa và ít, hay ước lượng số hạng nguồn chưa thực sự chính xác so với thực tế, hay như mô hình tính toán chưa diễn đạt được hết sự lan truyền của phóng xạ trong bầu khí quyển. Tuy nhiên, các kết quả thu được bước đầu cho thấy khả năng ứng dụng tương đối tốt của mô hình FLEXPART trong mô phỏng phóng xạ lan truyền trong bầu khí quyển. V. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, FLEXPART với mô hình phát tán hạt Lagrange được sử dụng để mô phỏng phóng xạ phát tán từ tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi đến khu vực Đông Nam Á, kết hợp với dữ liệu khí tượng toàn cầu cung cấp bởi NCEP. Kết quả cho thấy phóng xạ phát tán đến khu vực Đông Nam Á thông qua hai con đường chính là lan truyền toàn cầu và khu vực. Cụ thể là lan truyền toàn cầu do đới gió tây chiếm ưu thế và lan truyền trực tiếp đến khu vực Đông Nam Á do đặc trưng khí tượng tại khu vực này. Nhìn chung, dữ liệu thu được từ mô phỏng có dạng tương quan với các giá trị quan trắc, thời điểm phóng xạ phát tán đến các trạm quan trắc cũng gần như trùng khớp giữa kết quả thu được từ mô phỏng và quan trắc. Qua các kết quả thu được từ mô phỏng và quan trắc cho ta cái nhìn rõ hơn về lan truyền toàn cầu của phóng xạ trong tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi và lan truyền của phóng xạ đến khu vực Đông Nam Á. Qua so sánh về cơ bản các kết quả thu được cũng tương đồng với các kết quả của các nghiên cứu trên thế giới. Mặc dù ở một số trạm các đánh giá thống kê chưa mang lại nhiều ý nghĩa, tuy nhiên các kết quả tính toán mô phỏng bước đầu cho thấy khả năng áp dụng tương đối tốt của FLEXPART trong bài toán phát tán phóng xạ tầm xa, có thể áp dụng cho các kịch bản phát tán phóng xạ tác động đến Việt Nam từ các nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc và Ấn Độ, qua đó có những kế hoạch cảnh báo sớm hay ứng phó sự cố kịp thời. Hoàng Sỹ Thân, Phạm Kim Long __________________________________ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] R. Draxler et al., “World Meteorological Organization Third Meeting of Wmo Task Team on Meteorological Analyses for Fukushima- Daiichi Nuclear Power Plant Accident Vienna , Austria , 3 – 5 December 2012 Annex Iii,” no. December, pp. 3–5, 2012. [2] N. Q. Long et al., “Atmospheric radionuclides from the Fukushima Dai-ichi THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 19Số 57 - Tháng 12/2018 nuclear reactor accident observed in Vietnam,” J. Environ. Radioact., vol. 111, pp. 53–58, 2012. [3] UNSCEAR, “UNSCEAR: The Fukushima Accident,” p. 4, 2014. [4] N. Momoshima, S. Sugihara, R. Ichikawa, and H. Yokoyama, “Atmospheric radionuclides transported to Fukuoka, Japan remote from the Fukushima Dai-ichi nuclear power complex following the nuclear accident,” J. Environ. Radioact., vol. 111, pp. 28–32, 2012. [5] A. Stohl, M. Hittenberger, and G. Wotawa, “Validation of the lagrangian particle dispersion model FLEXPART against large-scale tracer experiment data,” Atmos. Environ., vol. 32, no. 24, pp. 4245–4264, 1998. [6] A. Stohl and T. Trickl, “A textbook example of long-range transport: Simultaneous observation of ozone maxima of stratospheric and North American origin in the free troposphere over Europe,” J. Geophys. Res. Atmos., vol. 104, no. D23, pp. 30445–30462, 1999. [7] A. Stohl, C. Forster, A. Frank, P. Seibert, and G. Wotawa, “Technical note : The Lagrangian particle dispersion model FLEXPART version 6 . 2,” Test, 2005. [8] G. Katata et al., “Detailed source term estimation of the atmospheric release for the Fukushima Daiichi Nuclear Power Station accident by coupling simulations of an atmospheric dispersion model with an improved deposition scheme and oceanic dispersion model,” Atmos. Chem. Phys., vol. 15, no. 2, pp. 1029–1070, 2015. [9] S. Furuta et al., “Results of the environmental radiation monitoring following the accident at the Fukushima Daiichi Nuclear Power Plant. Interim report. Ambient radiation dose rate, radioactivity concentration in the air and radioactivity concentration in the fallout,” JAEA- Rev., vol. 035, no. August, p. 98, 2011. [10] A. Stohl et al., “Xenon-133 and caesium-137 releases into the atmosphere from the Fukushima Dai-ichi nuclear power plant: Determination of the source term, atmospheric dispersion, and deposition,” Atmos. Chem. Phys., vol. 12, no. 5, pp. 2313–2343, 2012. [11] M. Długosz-Lisiecka and H. Bem, “Aerosol residence times and changes in radioiodine-131I and radiocaesium-137Cs activity over Central Poland after the Fukushima- Daiichi nuclear reactor accident,” J. Environ. Monit., vol. 14, no. 5, p. 1483, 2012. [12] T. Doi, K. Masumoto, A. Toyoda, A. Tanaka, Y. Shibata, and K. Hirose, “Anthropogenic radionuclides in the atmosphere observed at Tsukuba: Characteristics of the radionuclides derived from Fukushima,” J. Environ. Radioact., vol. 122, pp. 55–62, 2013. [13] H. Malá, P. Rulík, V. Bečková, J. Mihalík, and M. Slezáková, “Particle size distribution of radioactive aerosols after the Fukushima and the Chernobyl accidents,” J. Environ. Radioact., vol. 126, pp. 92–98, 2013. [14] O. Masson, “Size Distributions of Airborne Radionuclides from the Fukushima Nuclear Accident at,” no. August, 2017.
File đính kèm:
- su_dung_chuong_trinh_flexpart_tinh_toan_phat_tan_chat_phong.pdf