Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi ngân hàng thương mại Việt Nam- Bằng chứng thực nghiệm và một số thảo luận

Tính bền vững của lợi nhuận, thể hiện ở việc lợi nhuận báo cáo năm

nay có mối quan hệ chặt chẽ với lợi nhuận tương lai, là một tiêu chí

đánh giá về chất lượng của lợi nhuận báo cáo được các nhà đầu tư

và phân tích đặc biệt quan tâm. Các nghiên cứu trước cũng cho thấy,

để đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư, các công ty đã điều

chỉnh số liệu kế toán nhằm ổn định lợi nhuận báo cáo. Chính vì thế,

khi xem xét về tính bền vững của lợi nhuận, các nghiên cứu cần phân

biệt được sự ổn định này đến từ bản chất hoạt động của đơn vị và thể

hiện giá trị dự báo tương lai của lợi nhuận báo cáo hay là kết quả

của các hoạt động thao túng số liệu kế toán. Nghiên cứu này sử dụng

phương pháp hồi quy dữ liệu bảng với dữ liệu của 23 ngân hàng

thương mại (NHTM) Việt Nam trong 10 năm để kiểm định và đưa ra

bằng chứng về việc lợi nhuận tương lai của NTHM Việt Nam có mối

quan hệ khá chặt chẽ với lợi nhuận báo cáo, nhưng lại không phản

ánh các biến số về đặc điểm tài chính của đơn vị hay chu kỳ của nền

kinh tế. Điều này cho thấy sự ổn định trong chuỗi lợi nhuận báo cáo

của các NHTM Việt Nam không phải là một biểu hiện về chất lượng

thông tin mà là kết quả của việc thao túng số liệu kế toán nhiều hơn.

Điều này về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của hệ

thống ngân hàng và cần được quan tâm xử lý bởi các cơ quan quản

lý cũng như các bên hữu quan khác.

pdf 6 trang kimcuc 4140
Bạn đang xem tài liệu "Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi ngân hàng thương mại Việt Nam- Bằng chứng thực nghiệm và một số thảo luận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi ngân hàng thương mại Việt Nam- Bằng chứng thực nghiệm và một số thảo luận

Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi ngân hàng thương mại Việt Nam- Bằng chứng thực nghiệm và một số thảo luận
55
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 205- Tháng 6. 2019
Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi ngân hàng 
thương mại Việt Nam- bằng chứng thực nghiệm 
và một số thảo luận
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
Đào Nam Giang
Ngày nhận: 20/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 30/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/06/2019
Tính bền vững của lợi nhuận, thể hiện ở việc lợi nhuận báo cáo năm 
nay có mối quan hệ chặt chẽ với lợi nhuận tương lai, là một tiêu chí 
đánh giá về chất lượng của lợi nhuận báo cáo được các nhà đầu tư 
và phân tích đặc biệt quan tâm. Các nghiên cứu trước cũng cho thấy, 
để đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư, các công ty đã điều 
chỉnh số liệu kế toán nhằm ổn định lợi nhuận báo cáo. Chính vì thế, 
khi xem xét về tính bền vững của lợi nhuận, các nghiên cứu cần phân 
biệt được sự ổn định này đến từ bản chất hoạt động của đơn vị và thể 
hiện giá trị dự báo tương lai của lợi nhuận báo cáo hay là kết quả 
của các hoạt động thao túng số liệu kế toán. Nghiên cứu này sử dụng 
phương pháp hồi quy dữ liệu bảng với dữ liệu của 23 ngân hàng 
thương mại (NHTM) Việt Nam trong 10 năm để kiểm định và đưa ra 
bằng chứng về việc lợi nhuận tương lai của NTHM Việt Nam có mối 
quan hệ khá chặt chẽ với lợi nhuận báo cáo, nhưng lại không phản 
ánh các biến số về đặc điểm tài chính của đơn vị hay chu kỳ của nền 
kinh tế. Điều này cho thấy sự ổn định trong chuỗi lợi nhuận báo cáo 
của các NHTM Việt Nam không phải là một biểu hiện về chất lượng 
thông tin mà là kết quả của việc thao túng số liệu kế toán nhiều hơn. 
Điều này về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của hệ 
thống ngân hàng và cần được quan tâm xử lý bởi các cơ quan quản 
lý cũng như các bên hữu quan khác.
Từ khóa: sự bền vững của lợi nhuận; thao túng số liệu để ổn định lợi 
nhuận; chất lượng thông tin lợi nhuận; thao túng lợi nhuận; ngân 
hàng thương mại.
1. Tổng quan các nghiên cứu về tính bền vững của lợi nhuận nói chung và trong lĩnh vực ngân 
hàng nói riêng
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
ính bền vững được hiểu là sự tự 
tương quan trong chuỗi giá trị lợi 
nhuận, hay mức độ mà lợi nhuận 
hiện tại trở thành một phần cố 
định trong chuỗi giá trị lợi nhuận 
tương lai (Schipper & Vincent, 2003). Tương 
tự, Dechow, Ge, & Schrand (2010) cho rằng 
sự bền vững của lợi nhuận được đo bằng hệ 
số quan hệ trong hồi quy giữa lợi nhuận tương 
lai và lợi nhuận hiện tại. Thông tin lợi nhuận 
kế toán bền vững sẽ hữu ích hơn cho việc dự 
đoán và đánh giá về kết quả hoạt động trong 
tương lai của đơn vị báo cáo, và hữu ích cho 
việc định giá cổ phiếu. Điều này cũng lý giải 
tại sao các nghiên cứu liên quan đến thị trường 
chứng khoán và tài chính doanh nghiệp rất 
nhấn mạnh đến tính bền vững của lợi nhuận. Cả 
Francis, LaFond, Olsson, và Schipper (2004), 
Schipper và Vincent (2003) và Dechow và các 
cộng sự (2010) đều khẳng định đây là một tiêu 
chí được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu về 
chất lượng thông tin lợi nhuận báo cáo. Hơn 
nữa, tiêu chí này có mối tương quan thuận với 
các tiêu chí khác như phản ứng của nhà đầu tư 
(Schipper và Vincent, 2003) và chất lượng các 
khoản dồn tích (Dechow và các cộng sự, 2010). 
Dechow và các cộng sự (2010) cũng khẳng 
định các hãng có tổng các khoản dồn tích cao 
thì cũng có giá trị dồn tích bất thường cao, lợi 
nhuận kém bền vững, có số lần báo cáo lại số 
liệu cao, hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém 
hơn và mức độ phản ứng của nhà đầu tư với 
thông tin lợi nhuận cũng thấp hơn. 
Trong một nghiên cứu khảo sát gần đây, Dichev 
và các cộng sự (2013) đã phỏng vấn 169 giám 
đốc tài chính của các công ty đại chúng tại Mỹ 
về chất lượng thông tin lợi nhuận kế toán. Kết 
quả cho thấy phần lớn các giám đốc tài chính 
đều cho rằng chất lượng của thông tin lợi nhuận 
báo cáo thể hiện ở sự bền vững và khả năng lặp 
lại trong tương lai. Nelson và Skinner (2013) 
phê phán kết luận này và cho rằng việc xác định 
tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin chỉ dựa 
trên phỏng vấn các giám đốc tài chính (CFO) 
là không hoàn toàn khách quan và chỉ nên coi 
như là một góc nhìn bổ sung vào tổng thể, thay 
vào đó góc nhìn của người sử dụng thông tin 
như nhà đầu tư hay các nhà phân tích sẽ hữu 
ích hơn. Tuy nhiên, Barker và Imam (2008) 
cũng đã khẳng định vai trò của tính bền vững 
như một tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin 
lợi nhuận công bố khi nghiên cứu quan điểm 
của các chuyên viên phân tích báo cáo tài chính 
(BCTC).
Mặt khác, do các nhà đầu tư và các đối tượng 
sử dụng thông tin khác đặc biệt quan tâm đến 
tính bền vững của lợi nhuận nên có một thực tế 
là các nhà quản trị sẽ có động cơ để thao túng 
số liệu kế toán nhằm báo cáo mức lợi nhuận 
ổn. Đây được coi là hiện tượng khá phổ biến 
ở các thị trường chứng khoán phát triển cũng 
như đang phát triển. Dechow và các cộng sự 
(2010) tổng kết từ các nghiên cứu thực chứng 
trong gần 30 năm về chất lượng lợi nhuận đã 
nhấn mạnh, cần phân biệt giữa sự ổn định vốn 
có của lợi nhuận và sự ổn định do các nhà quản 
lý điều chỉnh số liệu kế toán mà có. Một trong 
những cách tiếp cận để xử lý vấn đề này là đưa 
vào mô hình đánh giá mối quan hệ giữa lợi 
nhuận hiện tại với lợi nhuận tương lai các biến 
số phản ánh đặc điểm tình hình hoạt động và tài 
chính của đơn vị. Nếu lợi nhuận hiện tại và lợi 
nhuận tương lai có mối tương quan thuận với 
nhau chứng tỏ lợi nhuận có tính bền vững. Tuy 
nhiên nếu lợi nhuận không có mối quan hệ chặt 
chẽ với các đặc điểm tài chính và hoạt động của 
đơn vị chứng tỏ tính bền vững của lợi nhuận 
chủ yếu là kết quả của các việc thao túng số 
liệu kế toán.
Trong lĩnh vực ngân hàng, tính bền vững chưa 
được quan tâm một cách thích đáng. Theo tác 
giả được biết, công trình nghiên cứu đầu tiên có 
sử dụng tính bền vững để đánh giá chất lượng 
thông tin lợi nhuận kế toán công bố của các 
NHTM là nghiên cứu của Altamuro & Beatty 
(2010). Altamuro & Beatty (2010) đã chứng 
minh rằng các quy định mới của Cơ quan bảo 
hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) nhằm giám 
sát chặt chẽ hơn hệ thống kiểm soát nội bộ 
của các NHTM đã củng cố mối quan hệ giữa 
lợi nhuận kỳ báo cáo với lợi nhuận và luồng 
tiền trong tương lai. Kế thừa nghiên cứu của 
Altanmuro và Beatty, Kanagaretnam, Lim, & 
Lobo (2014) cũng sử dụng khả năng dự báo 
như một trong các tiêu chí đánh giá khi nghiên 
cứu ảnh hưởng của các yếu tố thể chế đến chất 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019
lượng thông tin lợi nhận kế toán công bố với 
mẫu nghiên cứu gồm các ngân hàng của 35 
quốc gia khác nhau. Fang, Hasan, & Li (2014) 
tiếp tục kế thừa phương pháp của hai nghiên 
cứu trên để đánh giá tác động của cải cách ngân 
hàng đến chất lượng thông tin lợi nhuận kế 
toán công bố của các NHTM ở 16 nước Trung 
và Đông Âu. Nulla (2014) chứng minh việc áp 
dụng IFRS củng cố chất lượng thông tin kế toán 
của các tổ chức tín dụng (TCTD) Canada biểu 
hiện ở việc tính bền vững và khả năng dự báo 
luồng tiền trong tương lai của lợi nhuận là tốt 
hơn. Ngoài 4 công trình kể trên, tác giả chưa 
được biết đến nghiên cứu nào khác đánh giá 
chất lượng thông tin lợi nhuận công bố thông 
qua tính bền vững của lợi nhuận trong lĩnh 
vực ngân hàng. Cả 4 nghiên cứu kể trên đều 
thống nhất cách tiếp cận, đó là để có cái nhìn 
đúng đắn về tính bền vững, ngoài việc xem xét 
về mối quan hệ giữa lợi nhuận hiện tại và lợi 
nhuận tương lai thì phải xem xét về mối quan 
hệ giữa lợi nhuận với các yếu tố phản ánh tình 
hình tài chính của đơn vị và một số biểu hiện 
khác liên quan đến chất lượng của lợi nhuận 
báo cáo (ví dụ các ngân hàng có tìm cách tránh 
báo cáo lỗ không, lợi nhuận có hữu ích cho dự 
báo luồng tiền không). 
Các nghiên cứu trước khá nhất quán trong kết 
luận về mối tương quan thuận giữa lợi nhuận 
kỳ hiện tại với lợi nhuận và luồng tiền của kỳ 
tương lai. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là mức độ 
của mối quan hệ như thế nào? Một thực tế có 
thể quán sát được ở Việt Nam là khi các NHTM 
gặp khó khăn về tài chính, đặc biệt là việc một 
số ngân hàng bị mua lại giá 0 đồng, BCTC của 
những năm trước đó liền kề đưa ra rất ít các dấu 
hiệu cảnh báo cho nhà đầu tư. Điều này hàm ý 
chất lượng thông tin nói chung và hàm lượng 
thông tin hay tính hữu ích của lợi nhuận công 
bố thực sự trở thành một vấn đề đáng lo ngại 
đối với các nhà đầu tư cũng như các cơ quan 
quản lý. Đào Nam Giang (2018) thông qua phân 
tích về đặc điểm phân phối của các biến phản 
ánh lợi nhuận của các NHTM Việt Nam đã đưa 
ra các bằng chứng về việc các ngân hàng có 
thao túng số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ và 
tránh sự trồi sụt quá mức trong lợi nhuận báo 
cáo. Do đó, chúng tôi đặt giả thuyết về việc lợi 
nhuận báo cáo của các NHTM Việt Nam chỉ 
cung cấp thông tin rất hạn chế cho dự báo lợi 
nhuận tương lai.
Bên cạnh đó, cũng giống như cách tiếp cận của 
các nghiên cứu trước, bài viết sẽ đưa các biến 
kiểm soát vào mô hình để xem xét mức độ tác 
động của các nhân tố phản ánh đặc điểm tình 
hình tài chính của ngân hàng đến lợi nhuận 
tương lai. Việc xem xét tác động của các nhân 
tố này sẽ góp phần làm rõ hơn mối quan hệ 
giữa lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận tương lai 
có được là do lợi nhuận kế toán thực sự phản 
ánh trung thực kết quả hoạt động của ngân hàng 
hay đơn thuần là kết quả của những nỗ lực điều 
chỉnh số liệu nhằm báo cáo mức lợi nhuận ổn 
định của các NHTM. Do đó, các giả thuyết 
nghiên cứu được đặt ra là:
Giả thuyết 1: Lợi nhuận công bố của các 
NHTM Việt Nam chỉ giải thích được một phần 
nhỏ sự biến động của lợi nhuận tương lai.
Giả thuyết 2: Lợi nhuận công bố của các 
NHTM Việt Nam không phản ánh các đặc điểm 
tài chính của đơn vị.
2. Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu đề xuất
Tùy theo mục đích nghiên cứu, đã có nhiều mô 
hình được phát triển để đánh giá khả năng dự 
báo lợi nhuận tương lai hay tính bền vững của 
lợi nhuận báo cáo. Theo Dechow et al. (2010), 
mô hình cơ bản ban đầu để đánh giá về khả 
năng dự báo lợi nhuận tương lai của lợi nhuận 
kế toán là:
(1) earnings
t+1
 = α + β
1
*earnings
t 
+ ε
t
Trong đó, hệ số quan tâm là β
1
. Hệ số này càng 
cao thì khả năng dự báo lợi nhuận tương lai hay 
tính bền vững của lợi nhuận càng lớn. Cũng 
theo P. Dechow, một hướng chính để phát triển 
mô hình trên là phân tích tổng lợi nhuận thành 
luồng tiền và các khoản dồn tích để đánh giá 2 
cấu phần này xem cấu phần nào có khả năng dự 
báo cao hơn. 
(1a) earnings
t+1
 = α + β
1
 × CF
t
 + β
2
 × accruals
t 
+ ε
t
Tuy nhiên việc phân chia này hầu như không 
được áp dụng cho các nghiên cứu trong lĩnh 
vực ngân hàng do việc xác định tổng dồn tích 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
của các NHTM có những điểm khác biệt lớn so 
với các ngành khác. Thực tế, các nghiên cứu về 
tính bền vững của lợi nhuận trong lĩnh vực ngân 
hàng, ví dụ như của Kanagaretnam và cộng 
sự (2014) về tác động của các yếu tố thể chế 
đến chất lượng lợi nhuận của các NHTM, cũng 
không áp dụng mô hình mở rộng (1a) mà chỉ sử 
dụng mô hình cơ bản (1). Bên cạnh đó, một số 
nhà nghiên cứu khác (Atwood, Drake, Myers, 
& Myers, 2011) khi nghiên cứu về khả năng 
dự báo luồng tiền và lợi nhuận tương lai của 
lợi nhuận báo cáo theo IFRS so với theo chuẩn 
mực kế toán Đức (DAS) cũng chỉ dừng lại ở mô 
hình cơ bản 1 mà không sử dụng mô hình mở 
rộng (1a). Điều này chứng tỏ mô hình cơ bản 
(1) mặc dù được phát triển trước và được coi là 
mô hình cơ bản ban đầu nhưng vẫn có ý nghĩa 
và phù hợp khi nghiên cứu trong lĩnh vực tài 
chính ngân hàng. Do đó, nghiên cứu này sẽ sử 
dụng mô hình cơ bản (1), đồng thời sử dụng các 
biến kiếm soát phản ánh đặc điểm tài chính của 
từng ngân hàng có thể ảnh hưởng tới sự tăng 
giảm của lợi nhuận tương lai. Vấn đề là những 
biến kiểm soát nào cần đưa vào mô hình?
Kanagaretnam và cộng sự (2011) xác định 3 
biến kiểm soát đặc điểm của ngân hàng là quy 
mô (size), tiền gửi khách hàng (deposit) và cơ 
cấu danh mục cho vay. Tuy nhiên, thông tin 
về cơ cấu danh mục cho vay của các NHTM 
Việt Nam rất hạn chế. Bên cạnh đó, do như 
tổng quan đã đề cập, các nghiên cứu trực tiếp 
về tính bền vững của lợi nhuận trong lĩnh vực 
ngân hàng còn khá ít. Do đó, để có cái nhìn 
đầy đủ hơn, bài viết xem xét các nghiên cứu về 
khả năng sinh lời của các NHTM để có thể bổ 
sung thêm các biến kiểm soát khác. Cụ thể, khi 
nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng 
sinh lời của các NHTM Việt Nam, Batten và 
Xuân Vinh (2013) đã tổng hợp các yếu tố: hệ 
số an toàn vốn (CAR), mức độ rủi ro trong hoạt 
động ngân hàng (được đo lường bằng tỷ lệ dư 
nợ tín dụng trên tổng tài sản, số dư dự phòng 
rủi ro tín dụng, và nợ xấu); tỷ lệ chi phí hoạt 
động trên tổng tài sản, đặc điểm sở hữu (nhà 
nước hay tư nhân), mức độ tập trung và quy mô 
ngân hàng. Đặng Hữu Mẫn và Hoàng Dương 
Việt Anh (2014) cũng tổng hợp từ các nghiên 
cứu trước và xác định các nhân tố nội tại của 
ngân hàng có ảnh hưởng tới khả năng sinh lời 
của các NHTM gồm: Quy mô ngân hàng (xác 
định bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản); 
logarit tự nhiên của số dư tiền gửi, cấu trúc tài 
chính (đo lường bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên 
tổng tài sản), và tỷ lệ chi phí hoạt động trên 
tổng tài sản. 
Như vậy, các biến kiểm soát có thể đưa và mô 
hình gồm: Đặc điểm nguồn vốn (tiền gửi khách 
hàng và vốn chủ sở hữu); đặc điểm tài sản sinh 
lời chủ yếu của ngân hàng (quy mô danh mục 
cho vay), đặc điểm rủi ro (tỷ lệ nợ xấu), quy mô 
của ngân hàng và hiệu quả quản lý chi phí (chi 
phí hoạt động). Căn cứ từ các nghiên cứu trên, 
nghiên cứu này sử dụng các biến kiểm soát sau: 
Quy mô cho vay (đại diện cho tài sản sinh lời), 
tỷ lệ nợ xấu (đại diện cho rủi ro), tỷ lệ vốn chủ 
sở hữu trên tổng tài sản và tỷ lệ tiền gửi khách 
hàng trên tổng tài sản (đại diện cho uy tín, cơ 
cấu tài chính và khả năng chịu đựng rủi ro), tỷ 
lệ chi phí hoạt động (đại diện cho hiệu quả quản 
trị chi phí), GDP phản ánh điều kiện kinh tế vĩ 
mô hay xu hướng biến động trong chu kỳ của 
nền kinh tế.
Mô hình đánh giá tính bền vững của lợi nhuận 
được trình bày trong Bảng 1.
Biến quan tâm là ebtlog
it 
và hệ số α
1 
phản ánh 
khả năng dự báo lợi nhuận tương lai hay tính 
bền vững của lợi nhuận. Các biến loan
it,
 npl
it,
ovh
it, 
equity
it, 
deposit
it
 là các biến được đưa vào 
mô hình để kiểm soát tác động của các nhân tố 
đặc thù của từng ngân hàng tới khả năng sinh 
lời. Căn cứ theo lý thuyết, giá trị các khoản cho 
vay (loan) phản ánh khối tài sản sinh lời chính 
của ngân hàng, do đó sẽ có mối quan hệ thuận 
chiều với lợi nhuận tương lai. Nợ xấu (npl) 
phản ánh mức độ rủi ro và chi phí hoạt động 
(ovh) phản ánh khả năng quản trị chi phí. Cả 2 
biến số này đều làm suy giảm khả năng sinh lời 
của ngân hàng và do đó hệ số α
3 
và α
4 
dự kiến sẽ 
có dấu âm. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài 
sản cao thể hiện tiềm lực tài chính mạnh và có 
thể khả năng sinh lời tốt hơn. Tuy nhiên, khi tỷ 
lệ vốn chủ sở hữu cao đồng nghĩa hệ số nợ thấp 
và khả năng khuếch đại ROA giảm. Vì vậy hệ 
số α
5
 dự kiến âm. Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên 
tổng tài sản thể hiện khả năng huy động vốn từ 
dân cư (thị trường 1). Nếu khả năng huy động 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019
từ dân cư hạn chế, ngân hàng sẽ phải sử dụng 
nguồn vốn thay thế đến từ thị trường liên ngân 
hàng (thị trường 2) với lãi suất cao hơn. Nói 
cách khác, nếu tỷ lệ tiền gửi của khách hàng 
trên tổng tài sản cao đồng nghĩa với việc ngân 
hàng quản trị chi phí huy động tốt và khả năng 
sinh lời cao hơn. Hệ số α
6 
dự kiến dương.
Phương pháp phân tích, thu thập số liệu và mẫu 
nghiên cứu
Căn cứ từ đặc điểm của dữ liệu là thông tin về 
các NHTM qua thời gian, nghiên cứu sử dụng 
phương pháp hồi quỹ dữ liệu bảng cân bằng, 
với các kiểm định để lựa chọn mô hình tối ưu 
cũng như các kiểm định để đánh giá tính đáng 
tin cậy của mô hình.
Về mẫu nghiên cứu, do số lượng các NHTM 
Việt Nam không nhiều nên tác giả quyết định 
không chọn mẫu mà thu thập số liệu của tất cả 
các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 10 năm từ 
2008 đến 2017, ngoại trừ các NHTM đã ngừng 
hoạt động, bị sáp nhập, bị Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam (NHNN) mua lại với giá 0 đồng hoặc 
đưa vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tác giả 
căn cứ vào thông tin từ Cơ sở dữ liệu Orasis và 
Bảng 1. Mô hình nghiên cứu tính bền vững của lợi nhuận kế toán công bố
aebtlogit = αo + α1 × ebtlogit + α2 × loanit + α3 × nplit + α4 × ovhit + α5 × equityit + α6 × 
depositit + α7 × gdp + e
Định nghĩa các biến trong Mô hình 1 
aebtlogit Logarit của lợi nhuận trước thuế của ngân hàng i năm t+1
ebtlogit Logarit của lợi nhuận trước thuế của ngân hàng i năm t
loanit Cho vay khách hàng trên tổng tài sản cuối kỳ của ngân hàng i năm t
nplit Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay cuối kỳ của ngân hàng i năm t
ovhit Tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản cuối kỳ của ngân hàng i năm t
equityit Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cuối kỳ của ngân hàng i năm t
depositit Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản cuối kỳ của ngân hàng i năm t
gdp Tốc độ tăng trưởng gdp
αo Hệ số chặn của mô hình
e Phần sai số
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bảng 2. Tính bền vững của lợi nhuận: Thống kê mô tả các biến
Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Min Trung vị Max
Aebtlog 207 13,387 1,539 8,129 13,328 16,244
Ebtlog 230 13,306 1,548 8,129 13,271 16,244
Deposit 230 0,625 0,123 0,293 0,635 0,894
Loan 230 0,546 0,132 0,194 0,556 0,854
Npl 230 0,024 0,014 0,003 0,022 0,088
Ovh 230 0,017 0,005 0,006 0,016 0,038
Equity 230 0,108 0,051 0,041 0,093 0,356
Size 230 18,101 1,215 14,894 18,146 20,907
Gdp 230 0,060 0,005 0,052 0,061 0,068
Nguồn: Tính toán của tác giả với sự hỗ trợ của phần mềm R
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
BCTC công bố công khai trên website của các 
NHTM. Sau khi loại trừ các trường hợp không 
đủ dữ liệu, mẫu nghiên cứu cuối cùng gồm 23 
Tài liệu tham khảo
1. Akindayomi, A. (2012). Earnings management and the banking crisis of the 1990s: evidence from Nigeria. Academy of 
Accounting and Financial Studies Journal, 16(3), 119. 
2. Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal control regulation affect financial reporting? Journal of Accounting and 
Economics, 49(1–2), 58-74. doi: 
3. Atwood, T. J., Drake, M. S., Myers, J. N., & Myers, L. A. (2011). Do earnings reported under IFRS tell us more about 
future earnings and cash flows? Journal of Accounting and Public Policy, 30(2), 103-121. doi: 
jaccpubpol.2010.10.001
4. Barker, R., & Imam, S. (2008). Analysts’ perceptions of ‘earnings quality’. Accounting and Business Research, 38(4), 313-
329. 
5. Batten, J. A., & Xuân Vinh, V. (2013). Determinants of Bank Profitability–Evidence from Vietnam. Available at SSRN 
2485023. 
6. Callen, J. L. (2015). A selective critical review of financial accounting research. Critical Perspectives on Accounting, 26, 
157-167. doi: 
7. Đặng Hữu Mẫn và Hoàng Dương Việt Anh. (2014). Nghiên cứu các yếu tố kinh tế và thể chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ 
thống NHTM Việt Nam. Kinh tế & Phát triển, Tháng 11/2014(209), 13. 
8. Dechow, P., Ge, W., & Schrand, C. (2010). Understanding earnings quality: A review of the proxies, their determinants 
and their consequences. Journal of Accounting and Economics, 50(2–3), 344-401. doi: 
jacceco.2010.09.001
9. Đào Nam Giang (2018), Điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận- Bằng chứng thực 
nghiệm từ các NHTM Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, tháng 6/2018.
10. Dichev, I. D., Graham, J. R., Harvey, C. R., & Rajgopal, S. (2013). Earnings quality: Evidence from the field. Journal of 
Accounting and Economics, 56(2–3, Supplement 1), 1-33. doi: 
11. Fang, Y., Hasan, I., & Li, L. (2014). Banking reform, risk-taking, and earnings quality : evidence from transition countries: 
Helsinki : Bank of Finland.
12. Francis, J., LaFond, R., Olsson, P. M., & Schipper, K. (2004). Costs of equity and earnings attributes. The Accounting 
Review, 79(4), 967-1010. 
Thông tin tác giả
Đào Nam Giang, Tiến sĩ
Khoa Kế toán - Kiểm toán, Học viện Ngân hàng 
Email: namgiangriver@gmail.com/giangdn@hvnh.edu.vn
Summary
Earnings persistence of Vietnamese commercial banks-empirical evidences and discussion
Earnings persistance, the positive relationship between reported earnings and future earnings or ability to be 
repeated of earnings, is a proxy of earnings quality that is expected by many investors and other stakeholders. 
However, previous researches have evidenced that to meet this expectation, management tend use creative 
accounting techniques to smooth earnings. And it is a big question on how to confirm that reported earnings 
are persistent or smoothed. One way to deal with such issue is to test relationships between earnings and 
financial characteristics of the firms. This paper, using panel regression techniques on a sample of 23 Vietnamese 
commercial banks in 10 years, has proved that future earnings has a significant relationship with current earnings 
but is unexplainable by banks’ financial characteristics and business cycle. In the other words, the reported profit 
is not persistent but smoothed; thus do not faithfully represents the financial health and performance of the banks. 
This trend will harm the sustainable development of the banking system and should be addressed soon by the 
policy makers as well as other stakeholders.
Key- words: Earnings persistance; earnings smoothing, earnings quality; earnings magement; commercial banks
Giang Nam Dao, PhD.
Banking Academy of Vietnam
ngân hàng với 230 quan sát. Việc phân tích sẽ 
được thực hiện với phầm mềm thống kê R.
(xem tiếp kỳ sau)

File đính kèm:

  • pdfsu_ben_vung_cua_loi_nhuan_cong_bo_boi_ngan_hang_thuong_mai_v.pdf