So sánh các phương pháp đánh giá năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp, các ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu
Sự ra đời của khái niệm “đánh giá công nghệ” và quá trình phát triển các hoạt động đánh
giá công nghệ trong thực tiễn có thể xem là những cố gắng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của quá trình ra quyết định về công nghệ gắn với xã hội. Làn sóng khởi đầu của việc đánh giá
công nghệ xuất hiện vào những năm 1960, được coi là hệ thống cảnh báo sớm phục vụ cho
hoạch định chính sách. Tuy nhiên, dần dần người ta hiểu rằng việc dự báo công nghệ vô cùng
khó khăn, nếu như không muốn nói là một việc không thể làm được. Người ta cũng nhận thức
rằng cho dù có được một công trình đánh giá công nghệ hoàn mỹ đến đâu chăng nữa cũng không
có gì đảm bảo là các nhà hoạch định chính sách sẽ thực sự sử dụng thông tin này.
Từ năm 1980 đến nay, khái niệm mới về đánh giá công nghệ đã ra đời, trong đó hướng
chú ý đã chuyển từ những cố gắng đáp ứng nhu cầu này càng tăng của quá trình xây dựng và
hoàn thiện của các chính sách và chiến lược phát triển công nghệ. Việc đánh giá công nghệ, một
giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa nghiên cứu - triển khai và phát triển sản phẩm, mặt khác
tăng cường phạm vi áp dụng công nghệ.
Một vấn đề mang tính trọng tâm đối với các nước đang phát triển là xây dựng được năng
lực công nghệ. Quá trình nghiên cứu vấn đề này đã trải qua chặng đường khá phức tạp. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về năng lực công nghệ có thể được tổng hợp vào 3 phương pháp chính:
- Phương pháp tiếp cận đầu vào đầu ra của quy trình (input, output)
- Phương pháp Atlas công nghệ do APCTT (trung tâm chuyển giao công nghệ châu Á –
Thái Bình Dương) xây dựng (1986);
- Phương pháp tiếp cận theo quan điểm quản trị chiến lược (Sharif, 1995).
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh các phương pháp đánh giá năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp, các ngành kinh tế
51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009 1 SO SÁNH CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ CHO CÁC DOANH NGHIỆP, CÁC NGÀNH KINH TẾ Nguyễn Hồng Liên (ĐH Thái Nguyên) 1. Đặt vấn đề Trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, công nghệ được xem là biến số chiến lược quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đã từ lâu, vai trò quan trọng của công nghệ trong phát triển của bất kỳ một quốc gia nào đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Đánh giá năng lực công nghệ để có cái nhìn xác thực về công nghệ cụ thể của mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành kinh tế hoặc trong phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ là hết sức cần thiết, cho phép xác định điểm xuất phát của lộ trình phát triển công nghệ một cách hợp lý và tối ưu hóa cách ngành sản xuất. Ngoài ra, đánh giá năng lực công nghệ như một thước đo nhằm xác định được giá trị thực tế của công nghệ để định giá và thỏa thuận các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Trên thế giới đã có nhiều phương pháp đánh giá năng lực công nghệ ra đời, tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng và phù hợp với mỗi nền kinh tế khác nhau. Vì vậy mục tiêu đặt ra ở đây là: Tìm hiểu, so sánh một số phương pháp đánh giá năng lực công nghệ các doanh nghiệp, các ngành kinh tế và các địa phương. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Trên thế giới có nhiều phương pháp đánh giá năng lực công nghệ ra đời, nhưng tựu trung lại thì có 3 phương pháp đánh giá năng lực công nghệ chính: Phương pháp tiếp cận đầu vào đầu ra của quy trình (input, output); phương pháp Atlas công nghệ do APCTT (trung tâm chuyển giao công nghệ châu Á – Thái Bình Dương) xây dựng (1986); phương pháp tiếu cận theo quan điểm quản trị chiến lược (Sharif, 1995). 3. Nội dung nghiên cứu Sự ra đời của khái niệm “đánh giá công nghệ” và quá trình phát triển các hoạt động đánh giá công nghệ trong thực tiễn có thể xem là những cố gắng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của quá trình ra quyết định về công nghệ gắn với xã hội. Làn sóng khởi đầu của việc đánh giá công nghệ xuất hiện vào những năm 1960, được coi là hệ thống cảnh báo sớm phục vụ cho hoạch định chính sách. Tuy nhiên, dần dần người ta hiểu rằng việc dự báo công nghệ vô cùng khó khăn, nếu như không muốn nói là một việc không thể làm được. Người ta cũng nhận thức rằng cho dù có được một công trình đánh giá công nghệ hoàn mỹ đến đâu chăng nữa cũng không có gì đảm bảo là các nhà hoạch định chính sách sẽ thực sự sử dụng thông tin này. Từ năm 1980 đến nay, khái niệm mới về đánh giá công nghệ đã ra đời, trong đó hướng chú ý đã chuyển từ những cố gắng đáp ứng nhu cầu này càng tăng của quá trình xây dựng và hoàn thiện của các chính sách và chiến lược phát triển công nghệ. Việc đánh giá công nghệ, một giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa nghiên cứu - triển khai và phát triển sản phẩm, mặt khác tăng cường phạm vi áp dụng công nghệ. Một vấn đề mang tính trọng tâm đối với các nước đang phát triển là xây dựng được năng lực công nghệ. Quá trình nghiên cứu vấn đề này đã trải qua chặng đường khá phức tạp. Tuy nhiên, các nghiên cứu về năng lực công nghệ có thể được tổng hợp vào 3 phương pháp chính: - Phương pháp tiếp cận đầu vào đầu ra của quy trình (input, output). 51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009 2 - Phương pháp Atlas công nghệ do APCTT (trung tâm chuyển giao công nghệ châu Á – Thái Bình Dương) xây dựng (1986); - Phương pháp tiếp cận theo quan điểm quản trị chiến lược (Sharif, 1995). 3.1. Phương pháp tiếp cận theo đầu vào và đầu ra của quá trình (Science & technology input and output ingdicators) Tiêu biểu là phương pháp OECD (1970) và UNESCO (1978). Một trong những cố gắng đầu tiên để xây dựng lên được một phương pháp luận để phục vụ các công việc xem xét vấn đề về công nghệ là cách tiếp cận theo quan điểm đầu vào và đầu ra của quá trình (science & technology input and output indicators). Theo cách tiếp cận này, năng lực công nghệ liên quan đến năng lực của doanh nghiệp có thể tiến hành những hoạt động xác định gắn liền với các vấn đề kinh tế - xã hội khác nhằm chuyển hóa đầu vào thành đầu ra. Để đánh giá hiện trạng công nghệ của một đơn vị kinh tế, một vùng, một quốc gia... người ta tiếp cận đo lường các yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của quá trình. Bằng cách thống kê, so sánh các yếu tố đó, người ta có thể đánh giá, theo dõi.. được hiện trạng công nghệ cũng như đóng góp của công nghệ của một đơn vị kinh tế, một vùng, một quốc gia. Theo phương pháp này, đầu vào và đầu ra của quá trình được thể hiện như sau: Chỉ tiêu đầu vào Chỉ tiêu đầu ra Theo OECD Nguồn lực về vốn cho R&D (đầu vào của các hoạt động S&T) ở khu vực công cộng Cán cân thanh toán về công nghệ Nguồn lực về con người cho R&D ở khu vực công cộng Thống kê các phát minh, sáng chế Nguồn lực về vốn cho R&D ở khu vực tư nhân Chuyển giao công nghệ Nguồn lực về con người cho R&D ở khu vực tư nhân . Theo UNESCO (ngoài các chỉ tiêu OECD còn thêm một số chỉ tiêu sau) Hoạt động R&D xác định ở quy mô quốc gia Các công trình KHCN được công bố Giáo dục và đào tạo cho S&T Số lượng các phát minh sáng chế đã công bố Dịch vụ cho S&T .. 3.2. Phương pháp Atlas công nghệ Sơ đồ 1. Ứng dụng phương pháp Atlas công nghệ Phương pháp này do APCTT do trung tâm chuyển giao công nghệ châu Á – Thái Bình Dương) thuộc ủy ban Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (UN- ESCAP) đã nghiên cứu và ban hành bộ tài liệu “nguyên lý phát triển dựa trên công nghệ” xây dựng từ năm 1986 đến năm 1988, dưới sự tài trợ của chính phủ Nhật Bản. Tài liệu hướng dẫn các nội dung và phương pháp đánh 51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009 3 giá công nghệ theo các thành phần đóng góp công nghệ là: Thiết bị (Technology – T); Nhân lực (Humanware – H); Thông tin (Inforware – I); Tổ chức (Orgaware – O). Việc đánh giá năng lực công nghệ được tiến hành qua các bước đánh giá như sau: Nghiên cứu tổng quan về ngành công nghiệp/ngành kinh tế; đánh giá định tính năng lực công nghệ; đánh giá các nguồn lực tự nhiên; đánh giá các nguồn lực con người; đánh giá diện mạo hạ tầng cơ sở; đánh giá cơ cấu công nghệ; đánh giá tổng thể năng lực công nghệ. 3.3. Phương pháp tiếp cận theo quan điểm quản trị chiến lược Phương pháp này do Sharif đề xuất năm 1995. Sharif là một thành viên chính xây dựng phương pháp luận Atlas công nghệ. Ông xây dựng phương pháp riêng dựa trên nền tảng của Atlas công nghệ và quan điểm một số chuyên gia khác nhằm phục vụ cho công tác hoạch định chiến lược công nghệ. Sơ đồ 2. Mô hình thông tin công nghệ theo quan điểm quản trị chiến lược của Sharif Hầu hết các định nghĩa về chiến lược đều có thể được mô tả từ sự kết hợp giữa điểm mạnh và điểm yếu của yếu tố bên trong công ty với cơ hội và thách thức của yếu tố bên ngoài. Phát triển cách tiếp cận này, phương pháp luận cho quản lý chiến lược công nghệ của Sharif (1995) [1] xem xét nguồn lực công nghệ và năng lực công nghệ có thể được xem như điểm mạnh và điểm yếu của xí nghiệp, trong khi đó môi trường công nghệ và cơ sở hạ tầng công nghệ có thể được xem như là cơ hội và thách thức. Trên cơ sở đó, Sharif xây dựng các chỉ số đặc trưng công nghệ này, xem xét đánh giá và đưa ra chiến lược quản lý chiến lược công nghệ (sơ đồ 2). Nguồn lực công nghệ Theo Sharif & Ramathan, hai thành viên cốt cán của dự án Atlas công nghệ, đánh giá nguồn lực công nghệ trên cơ sở xem xét đánh giá 4 thành phần công nghệ trong Atlas công nghệ (Thành phần kỹ thuật, thành phần con người, thành phần thông tin, thành phần tổ chức) mà chúng tôi đó giới thiệu một cách tổng quan ở trên. Năng lực công nghệ Có rất nhiều cách tiếp cận, các tác giả đó đưa ra các cách định nghĩa khác nhau về đánh giá năng lực công nghệ cho các nước thế giới thứ 3. Sharif (1995) đã xây dựng 6 thành phần của năng lực công nghệ đó là: Năng lực thu nhận công nghệ, năng lực biến đổi, năng lực bán hàng, năng lực sửa chữa, năng lực thiết kế, năng lực sản sinh công nghệ. Cơ sở hạ tầng công nghệ Ramathan (1993) đó xác định 3 yếu tố chính của cơ sở hạ tầng công nghệ đó là: i) Cơ sở hạ tầng hỗ trợ về mặt vật chất như: cung cấp điện, nước, giao thông, thông tin...; ii) Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động công nghệ như là các hỗ trợ đầu tư, số lượng các trung tâm đầu tư mạo hiểm, sự tồn tại của các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ; iii) Sức mạnh các hoạt 51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009 4 động công nghệ được đánh giá ở ba cấp (Viện hàn lâm - đơn vị Nghiên cứu và Triển khai (NCTK) - ngành công nghiệp), số lượng các thư viện NCTK, số lượng các trường đại học kỹ thuật... Môi trường công nghệ Theo Ramathan (1993), môi trường công nghệ trong phương pháp luận dựa theo quan điểm quản trị chiến lược của Sharif được diễn tả trong 4 nhân tố thông tin chính: thông tin về khách hàng (infor-Customers); thông tin về địch thủ cạnh tranh (infor-rivals), thông tin về bản thân (infor-owners), thông tin ngành (infor-clusters). Như vậy, phương pháp luận Sharif thực chất cũng bắt nguồn từ cơ sở của các nghiên cứu trong dự án Atlas công nghệ của trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương. Cha đẻ của cách tiếp cận theo quan điểm quản trị chiến lược này cũng là thành viên cốt cán của dự án Atlas công nghệ. Ví dụ, việc xác định nguồn lực công nghệ trong phương pháp luận của Sharif cũng chính là việc xem xét đánh giá bốn thành phần công nghệ trong phương pháp luận Atlas công nghệ. Tuy nhiên, so với Atlas công nghệ, phương pháp Sharif chưa có nhiều ứng dụng cụ thể cũng như không có tính nguyên bản. Ưu nhược điểm chính của các phương pháp trên là: Phƣơng pháp Ƣu điểm Nhƣợc điểm Tiếp cận theo đầu vào và đầu ra của quá trình (OECD, UNESCO) - Tổng quát, áp dụng cho tầm vĩ mô. - Xây dựng được các thuật ngữ chuyên môn, định nghĩa chuẩn về đánh giá công nghệ. - Áp dụng thích hợp cho các nước khối OECD - Khó xác định được sự thay đổi và tiến bộ công nghệ, khó dự đoán được xu hướng công nghệ. - Khó áp dụng cho các nước đang phát triển. - Giới hạn trong thiết kế chính sách công nghệ. Phương pháp Atlas - Áp dụng cho đánh giá công nghệ ở các cấp khác nhau cho các nước đang phát triển. - Dễ đối sánh theo chuẩn. - Hỗ trợ ra quyết định về chính sách KHCN. - Đã ứng dụng thành công ở nhiều nước trong khu vực như: Trung Quốc, Inđônêxia, được UNESCAP tổng hợp đúc kết kinh nghiệm. - Khá phức tạp. - Cần có chuẩn. - Cần có đội ngũ chuyên gia giỏi. - Nhiều chỉ tiêu định tính. Theo quan điểm quản trị chiến lược, Sharif (1995) - Có tính hệ thống, dễ hiểu. - Áp dụng tốt cho lập kế hoạch chiến lược công nghệ - Khó ứng dụng trong thống kê ngành vĩ mô. - Chưa được kiểm nghiệm nhiều. Kết luận Từ sự so sánh các phương pháp trên đây, tùy theo từng mục tiêu cụ thể và trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà chọn phương pháp phù hợp. Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở dữ liệu bao gồm hệ thống câu hỏi điều tra, tiêu chí đánh giá cần phải có sự nghiên cứu kỹ và phải có đội ngũ chuyên gia giỏi và giàu kinh nghiệm mới cho kết quả mang tính chính xác cao để từ đó có định hướng đúng đắn cho lộ trình phát triển công nghệ của mỗi doanh nghiệp, ngành kinh tế, vùng lãnh thổ và công việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế mang lại kết quả cao Summary It is extremely significant to evaluate the technological abilities of firms, economic branches, and nations. There have been a number of methods for assessing technological abilities suggested by scientists all over the world. However, different methods accord with different economies and different nations. It is necessary to make a comparison and choose a suitable 51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009 5 method for each. This article mentions three methods: the first of Atlas technology, the second of administration, and the last of input and output in a process. Tài liệu tham khảo [1]. Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ Quốc gia “Phương pháp lập kế hoạch phát triển năng lực công nghệ” Người dịch: Nguyễn Lân Bằng. [2]. Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài, “Giáo trình Quản lý Công nghệ”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. [3]. Committee on Statistics, Tenth session, 25-29 November 1996, Bangkok “Emerging issues in the development and utilization of science and technology indicators in developing countries of the ESCAP region” ( [4]. STAID (1993), “Science and Technology Indicators, Science & Technology for Industrial Development (STAID)”, Bandan Penkajian Dan Penrapan Technology (BPPT), Indonesia. [5]. UN-ESCAP (1989), “Technology Atlas Project Tokyo Program on Technology for Development in Asia and Pacific”, Bangalore, India. [6]. UNESCO (1977), “Guild to the Collection of Statistics on Science and Technology”, Paris. [7]. UNESCO (1977), “Manual for Surveying National Scientific and Technology Potential”, Paris. [8]. UNESCO (1984), “Manual on the National Budgeting of Scientific and Technological Activites”, Paris Unesco. [9]. Fabian Y. (1984): “The OECD International S&T Indicators System”, in Science and Public Policy n0 11, pp. 4-6. [10]. Fabian Y. (1984), “The OECD International S&T Indicators System”, in Science and Public Policy n0 11, pp. 4-6. [11]. Gour Chandra Saha1 Lecturer Department of General Management Assumption University Bangkok, Thailand. “Modeling Information Systems for Technology Strategy Formulation”. [12]. National Institute of Science and Technology Policy (NISTEP), Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology, JAPAN. “Science and Technology Trends —Quarterly Review Science & Technology Foresight Center”. [13]. Chang-Man Im “Đánh giá và chuyển giao công nghệ ở Hàn Quốc”, Korea technology transfer Center. [14]. Pavitt K. (1984), R&D Patenting and Innovative Activities: A statistical Exploration, in Research Policy, n0 11 pp. 33-35. [15]. Pavitt K. (1984), R&D Patenting and Innovative Activities: A statistical Exploration, in Research Policy, n0 11 pp. 33-35. [16]. Papitek and Lipi (1989), “UNDP-UNESCO project Science and Technology Management Information (STMIS)”, Published by Center for Analysis of Science & Technology Development and Indonesia Institute of Science, Indonesia. [17]. Sharif M.N. (1986), “Management of Technology for National Development”, in Technology Forecasting and Social Change, n. 29, pp. 119-172; et Sharif M.N. (1995): “Intergrating Business and Technology Strategies in Developing Countries, In Technology Forecasting and Social Change, n.45, pp. 195-167. [18]. Tarek M. Khalil, University of Miami. “Management of technology: The key to competitiveness and wealth creation” McGRAW-HILL INTERNATIONAL EDITIONS.
File đính kèm:
- so_sanh_cac_phuong_phap_danh_gia_nang_luc_cong_nghe_cho_cac.pdf