Sở hữu ruộng đất công ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX

Phong Phú là đơn vị hành chính cấp huyện

thuộc tỉnh An Giang ở nửa đầu thế kỷ XIX,

có địa giới “cách phủ Tuy Biên hơn 50 dặm

về phía đông nam; đông tây cách nhau 50

dặm, nam bắc cách nhau 65 dặm, phía đông

đến địa giới huyện An Xuyên phủ Tân Thành

6 dặm, phía tây đến địa giới huyện Kiên

Giang tỉnh Hà Tiên 44 dặm, phía nam đến địa

giới huyện Vĩnh Định phủ Ba Xuyên 3 dặm,

phía bắc đến địa giới huyện An Xuyên và Tây

Xuyên 62 dặm” [1, tr.186]. Trải qua từng giai

đoạn lịch sử, vùng đất này có sự thay đổi về

tên gọi và địa giới hành chính khác nhau.

Trước thế kỷ VII, vùng đất này thuộc quyền

quản lý của vương quốc Phù Nam. Từ thế kỷ

VII – XVIII, sau khi vương quốc Phù Nam

suy yếu và tàn lụi, vùng đất này trở nên hoang

vu, hầu như vắng bóng người canh tác.

Sau năm 1735, Mạc Cửu mất, Mạc Thiên

Tích nối nghiệp cha làm Tổng trấn Hà Tiên,

ông đã tiến hành công cuộc khai phá vùng đất

phía nam sông Hậu. Năm 1739, Mạc Thiên

Tích khai lập thêm Long Xuyên, Kiên Giang,

Trấn Giang và Trấn Di. Trong đó, Trấn Giang

là vùng đất dọc hữu ngạn sông Hậu tương

ứng với huyện Phong Phú sau này và nơi đây

trở thành hậu cứ quan trọng về kinh tế và

quân sự của trấn Hà Tiên. Năm 1753, Nguyễn

Cư Trinh được phái đi kinh lược ở Nam Bộ

nhằm củng cố quyền quản lý hành chính của

chúa Nguyễn ở vùng cực nam Đàng Trong.

Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Trấn Giang đã trở

thành cứ điểm quan trọng được lực lượng

Nguyễn Ánh củng cố và phát triển trong quá

trình nội chiến với Tây Sơn.

Đầu thế kỷ XIX, thời vua Gia Long (1802 –

1820) đã cho phân định lại đơn vị hành chính

trong cả nước. Năm 1803, vùng đất Trấn

Giang thuộc quyền quản lý của dinh Long

Hồ. Sau đó, dinh Long Hồ được thay đổi về

địa giới và đổi tên là dinh Hoằng Trấn, sau

đổi thành dinh Vĩnh Trấn, về cơ bản Trấn

Giang vẫn do dinh này quản lý. Năm 1808,

trên cơ sở địa giới vùng đất Trấn Giang,

huyện Vĩnh Định được thành lập trực thuộc

trấn Vĩnh Thanh. Huyện Vĩnh Định thời vua

Gia Long chỉ có 37 thôn.

pdf 8 trang kimcuc 1840
Bạn đang xem tài liệu "Sở hữu ruộng đất công ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sở hữu ruộng đất công ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX

Sở hữu ruộng đất công ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 196(03): 71- 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 71 
SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT CÔNG Ở HUYỆN PHONG PHÚ, TỈNH AN GIANG 
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX 
Bùi Hoàng Tân
*
, Võ Ngọc Hiển 
Trường Đại học Cần Thơ 
TÓM TẮT 
Huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX là vùng đất trẻ nên diện tích ruộng đất được 
khai khẩn còn tương đối ít so với các vùng đất khác ở Nam Kỳ. Với phương pháp thống kê và 
phân tích số liệu, bài viết đã góp phần phản ánh những đặc điểm cơ bản trong cơ cấu sở hữu ruộng 
đất công ở huyện Phong Phú về diện tích và quy mô sở hữu. Ở khía cạnh khác, chính sách quản lý 
ruộng đất của triều Nguyễn đối với huyện Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX còn là bài học lịch sử có 
giá trị sâu sắc trong việc hoạch định chính sách quản lý đất đai hiện nay của thành phố Cần Thơ. 
Từ khóa: huyện Phong Phú, tư liệu địa bạ, ruộng đất, tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ 
Ngày nhận bài: 04/01/2019; Ngày hoàn thiện: 18/01/2019; Ngày duyệt đăng: 20/3/2019 
OWNING PUBLIC LAND-FIELD IN PHONG PHU DISTRICT, 
AN GIANG PROVINCE IN THE FIRST HALF OF THE 19TH CENTURY 
Bui Hoang Tan
*
, Vo Ngoc Hien 
Can Tho University 
ABSTRACT 
Phong Phu district, An Giang province in the first half of the 19th century was young land area, so 
the area of cultivated land-field was relatively small compared to other areas in Cochinchine. With 
the method of statistics and analysis of cadastral registers, the paper that contributes to reflect the 
basic characteristics in the structure of ownership of public land-field in Phong Phu district in 
terms of area and scale of ownership. On another perspective, the land management policy of the 
Nguyen Dynasty for Phong Phu district in the first half of the 19 century was also deep history 
lesson in planning the current land management policy of Can Tho city. 
Key words: Phong Phu district, cadastral registers, land-field, An Giang province, Can Tho city 
Received: 04/01/2019; Revised: 18/01/2019; Approved: 20/3/2019 
* Corresponding author: Tel: 036 77 00 588; Email: bhtan@ctu.edu.vn
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 72 
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT PHONG PHÚ 
Phong Phú là đơn vị hành chính cấp huyện 
thuộc tỉnh An Giang ở nửa đầu thế kỷ XIX, 
có địa giới “cách phủ Tuy Biên hơn 50 dặm 
về phía đông nam; đông tây cách nhau 50 
dặm, nam bắc cách nhau 65 dặm, phía đông 
đến địa giới huyện An Xuyên phủ Tân Thành 
6 dặm, phía tây đến địa giới huyện Kiên 
Giang tỉnh Hà Tiên 44 dặm, phía nam đến địa 
giới huyện Vĩnh Định phủ Ba Xuyên 3 dặm, 
phía bắc đến địa giới huyện An Xuyên và Tây 
Xuyên 62 dặm” [1, tr.186]. Trải qua từng giai 
đoạn lịch sử, vùng đất này có sự thay đổi về 
tên gọi và địa giới hành chính khác nhau. 
Trước thế kỷ VII, vùng đất này thuộc quyền 
quản lý của vương quốc Phù Nam. Từ thế kỷ 
VII – XVIII, sau khi vương quốc Phù Nam 
suy yếu và tàn lụi, vùng đất này trở nên hoang 
vu, hầu như vắng bóng người canh tác. 
Sau năm 1735, Mạc Cửu mất, Mạc Thiên 
Tích nối nghiệp cha làm Tổng trấn Hà Tiên, 
ông đã tiến hành công cuộc khai phá vùng đất 
phía nam sông Hậu. Năm 1739, Mạc Thiên 
Tích khai lập thêm Long Xuyên, Kiên Giang, 
Trấn Giang và Trấn Di. Trong đó, Trấn Giang 
là vùng đất dọc hữu ngạn sông Hậu tương 
ứng với huyện Phong Phú sau này và nơi đây 
trở thành hậu cứ quan trọng về kinh tế và 
quân sự của trấn Hà Tiên. Năm 1753, Nguyễn 
Cư Trinh được phái đi kinh lược ở Nam Bộ 
nhằm củng cố quyền quản lý hành chính của 
chúa Nguyễn ở vùng cực nam Đàng Trong. 
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Trấn Giang đã trở 
thành cứ điểm quan trọng được lực lượng 
Nguyễn Ánh củng cố và phát triển trong quá 
trình nội chiến với Tây Sơn. 
Đầu thế kỷ XIX, thời vua Gia Long (1802 – 
1820) đã cho phân định lại đơn vị hành chính 
trong cả nước. Năm 1803, vùng đất Trấn 
Giang thuộc quyền quản lý của dinh Long 
Hồ. Sau đó, dinh Long Hồ được thay đổi về 
địa giới và đổi tên là dinh Hoằng Trấn, sau 
đổi thành dinh Vĩnh Trấn, về cơ bản Trấn 
Giang vẫn do dinh này quản lý. Năm 1808, 
trên cơ sở địa giới vùng đất Trấn Giang, 
huyện Vĩnh Định được thành lập trực thuộc 
trấn Vĩnh Thanh. Huyện Vĩnh Định thời vua 
Gia Long chỉ có 37 thôn. 
Năm 1832, vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định 
thành, phân chia lại 5 trấn thuộc Gia Định 
trước đây thành 6 tỉnh Gia Định, Định Tường, 
Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. 
Trong đó, tỉnh An Giang được chia ra làm 2 
phủ: phủ Tuy Biên quản lý huyện Tây Xuyên 
và huyện Phong Phú (nguyên là đất huyện 
Vĩnh Định thời vua Gia Long) và phủ Tân 
Thành quản lý huyện Đông Xuyên và Vĩnh 
An. Năm 1835, vua Minh Mạng cho tái thiết 
lại đơn vị hành chính, sáp nhập huyện Phong 
Phú với một phần đất đai Ba Thắc lập thành 
huyện Vĩnh Định thuộc phủ Ba Xuyên quản 
lý. Sau cuộc tổng đạc điền và lập địa bạ trên 
toàn Nam Kỳ lục tỉnh năm 1836, huyện Vĩnh 
Định được giao về phủ Tân Thành quản lý, 
bao gồm 4 tổng: Định An, Định Bảo, Định 
Khánh và Định Thới. Năm 1839, lấy đất trung 
tâm huyện Vĩnh Định kết hợp với đất bản địa 
Ô Môn lập ra huyện Phong Phú gồm 3 tổng 
19 thôn. 
Căn cứ vào cách xác định “tứ cận giáp giới” 
và kết hợp với bản đồ [2, tr.143-153,167], 
huyện Phong Phú tỉnh An Giang nửa đầu thế 
kỷ XIX nguyên là vùng đất Trấn Giang được 
khai mở từ thế kỷ XVIII thời Tổng trấn Mạc 
Thiên Tích. Diên cách huyện Phong Phú được 
xác định hữu ngạn sông Hậu, phía tây bắc giáp 
huyện Đông Xuyên tỉnh An Giang, tây nam 
giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía 
đông và đông nam giáp huyện Vĩnh Định và 
huyện Phong Nhiêu tỉnh An Giang. Về cơ bản, 
định danh Phong Phú là đơn vị hành chính 
thuộc tỉnh An Giang, được sử dụng không thay 
đổi từ năm 1839 đến năm 1867 được giới hạn 
trong phần đất đai 3 tổng Định An, Định Bảo 
và Định Thới tương ứng với phần lớn đất đai 
của thành phố Cần Thơ hiện nay. 
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT CÔNG Ở HUYỆN 
PHONG PHÚ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX 
Khái quát về ruộng đất công 
Ruộng đất công chủ yếu là công điền công 
thổ, đây là loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà 
nước nhưng được giao cho xã, thôn quản lý 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 73 
theo quy định. Trong đó, công điền có ở cả 3 
tổng, xong tập trung nhiều ở thôn Thới Hưng 
của tổng Định Thới và được ghi trong địa bạ 
là bản thôn đồng canh. Công thổ chủ yếu là 
đất dân cư “những dân cư, chỗ nào là đất 
hoang và gò đống, trong sổ không ghi người 
nào trước đã nộp thuế thì liệt làm hạng đất 
dân cư, miễn thuế; nếu có chủ khai nhận, thì 
cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng đất 
công” [3, tr.983] và đất do quân binh cùng 
nhân dân khai khẩn “trong sổ trước là thực 
trưng, nay khám ra còn một, hai chỗ hoang 
vu thì căn cứ vào ruộng thực canh, đã đạt 
thành mẫu, thành sào, trước bạ; còn thì liệt 
vào hạng lưu hoang, đều do quân địa phương 
sức dân khai khẩn cày cấy thành ruộng, cho 
làm hạng công điền, bắt nộp thuế” [3, tr.983]. 
Công điền công thổ ở huyện Phong Phú được 
hình thành do chính sách khuyến khích khẩn 
hoang. “Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ khai 
hoang, khuyến khích di dân tự do khai phá 
đất hoang, cho phép tự lựa chọn nơi khai phá, 
thậm chí còn trợ cấp thêm tiền, thóc, nông cụ 
và có lệ khen thưởng cho những ai khai 
hoang nhiều ở vùng đất này” [4, tr.366]. 
Cách thức phân chia và quản lý công điền 
công thổ ở huyện Phong Phú có sự khác biệt 
so với cách thức phân chia và quản lý ruộng 
đất công xã ở Bắc Bộ do đặc điểm chung làng 
xã ở Nam Bộ có tính mở và không mang tính 
tự trị cao so với ở Bắc Bộ. Mặt khác, công 
điền công thổ nơi đây nhờ vào chính sách 
khai hoang của nhà nước, do vậy công điền 
công thổ sẽ được phân phát cho cư dân canh 
tác nhằm để phát triển sản xuất và ổn định xã 
hội. Điều này đã phản ánh tính chất sở hữu 
song song giữa nhà nước và xã, thôn trong sở 
hữu và quản lý công điền công thổ: nhà nước 
là chủ thể khởi xướng và hỗ trợ, nhân dân là 
lực lượng trực tiếp khai thác và canh tác. Tuy 
nhiên, họ không có quyền sở hữu và quyết 
định đối với phần ruộng đất này. 
Về diện tích ruộng đất 
Qua thống kê cho thấy, diện tích ruộng đất 
công ở huyện Phong Phú hơn 717 mẫu chiếm 
4,11% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện. 
Bảng 1. Diện tích ruộng đất công huyện Phong Phú 
Đơn vị tính: mẫu/sào/thước/tấc 
TT Tổng 
Tổng 
diện tích 
Ruộng 
đất công 
Tỉ lệ 
% 
Tỉ lệ 
% 
1 Định An 1712.4.10.0 52.6.3.0 3,07 7,33 
2 Định Bảo 4186.3.14.0 53.0.1.0 1,27 7,39 
3 Định Thới 11572.8.5.0 611.8.3.0 5,29 85,28 
Tổng cộng 17471.6.14.0 717.4.7.0 4,11 100 
Nguồn: [5] 
Theo đó, tổng Định Thới có diện tích ruộng 
đất công lớn nhất tron huyện với hơn 611 
mẫu, chiếm 5,29% diện tích ruộng đất toàn 
tổng. Vì đây là một vùng đất được sáp nhập 
sau “nguyên trước là huyện Vĩnh Định và thổ 
Điểu Môn. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), 
tách đặt thì tên huyện Vĩnh Định vẫn để như 
cũ, thuộc phủ Tân Thành thống hạt. Năm thứ 
20 (1839) đổi tên như ngày nay lại lấy thổ 
huyện Điểu Môn (tức tổng Định Thới) sáp 
nhập với huyện thuộc phủ Tuy Biên thống 
hạt” [1, tr.186] nên hầu như nơi đây đất đai 
còn hoang hóa rất nhiều được nhà nước cho 
khai khẩn. Xét về vị trí địa lí, nơi đây còn là 
vùng đất rộng lớn cách xa trung tâm lỵ sở 
huyện với hệ thống kênh rạch tự nhiên chằng 
chịt nhỏ, phía bắc và đông bắc tiếp giáp với 
sông Hậu, thậm chí thôn Tân Lộc Đông của 
tổng còn nằm trên một cù lao giữa sông Hậu. 
Do đó, quá trình định cư và khai khẩn của dân 
cư sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không có sự hỗ 
trợ của nhà nước. Với chính sách khuyến 
khích và hỗ trợ khai hoang của triều Nguyễn, 
phần lớn diện tích đất hoang nơi đây được 
quan quân địa phương cùng nhân dân khai 
khẩn và xếp vào hạng ruộng đất công. Trong 
tổng thể diện tích ruộng đất công của toàn 
huyện Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX, tổng 
Định Thới có diện tích công điền công thổ lớn 
hơn cả so với hai tổng còn lại với tỉ lệ 85,28% 
tổng diện tích ruộng đất công của toàn huyện. 
Trong khi đó, tổng Định An có diện tích 
ruộng đất công nhỏ nhất huyện với khoảng 52 
mẫu chiếm 3,07% diện tích ruộng đất toàn 
tổng. Tổng Định An là vùng đất thấp nằm ven 
vùng hạ lưu sông Hậu tương ứng với phần đất 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 74 
quận Cái Răng dọc theo tuyến đường Nam 
sông Hậu ngày nay. Do điều kiện tự nhiên nơi 
đây còn hoang vu, rừng rậm nên việc khai 
khẩn còn khá chậm, chủ yếu là các nhóm cư 
dân nhỏ lẻ đến canh tác trên các giồng đất 
cao. Mặt khác, nơi đây là vùng đất trũng thấp 
với nhiều cồn, bãi ven sông khó canh tác nên 
không hẳn là trục đường khai hoang chính mà 
nhà nước tập trung đầu tư so với các tổng còn 
lại. Vì thế, việc thực hiện chính sách công 
điền công thổ của nhà nước nơi đây còn nhiều 
hạn chế. Điều này đã góp phần lý giải nguyên 
do diện tích ruộng đất công ở tổng này thấp 
nhất huyện chỉ chiếm 7,33% trong tổng diện 
tích ruộng đất công của huyện Phong Phú. 
Riêng tổng Định Bảo là có tổng diện tích 
ruộng đất lớn thứ hai ở huyện Phong Phú, 
song diện tích ruộng đất công chỉ chiếm tỉ lệ 
nhỏ 1,27% trong tổng diện tích ruộng đất với 
khoảng hơn 53 mẫu. Đất đai khu vực này vốn 
đã được khai phá từ thế kỷ XVIII. “Cộng 
đồng dân cư ở đây từ ngày xưa gồm một bộ 
phận là binh lính và gia đình của quân binh 
Hà Tiên, Rạch Giá theo chồng, theo cha về 
trú ngụ ở Trấn Giang. Một bộ phận khác là 
những lưu dân từ miền ngoài đi vào, từ miền 
Đông đi xuống và ở lại trên đất Trấn Giang” 
[4, tr.29]. Mặt khác, ở đây còn là nơi giao 
thoa giữa các nhánh sông lớn, do vậy đường 
sông trở thành mạch giao thông thiết yếu. 
Cùng với đó là các làng xã ở tổng Định Bảo 
đã được hình thành trên các giồng đất trải dài 
theo sông, rạch và sớm hội tụ nên các thị tứ, 
trung tâm thương mại – văn hóa của một vùng 
từ cuối thế kỷ XVIII. Sang thế kỷ XIX, nơi 
đây đã trở thành lỵ sở chính của huyện Phong 
Phú. Vì thế, đất đai ở tổng Định Bảo sớm 
được khai khẩn và thuộc về sở hữu tư nhân, 
ngược lại, nhà nước chỉ can thiệp vào những 
khu vực đất đai trũng thấp, đầm lầy hoặc nơi 
hoang vu mà các cộng đồng dân cư không đủ 
sức khai phá, canh tác để thiết lập chế độ 
công điền công thổ vào nửa đầu thế kỷ XIX. 
Do đó, tuy diện tích canh tác rộng lớn nhưng 
ruộng đất công chỉ chiếm tỉ lệ hạn chế 7,39% 
diện tích ruộng đất công của toàn huyện. 
Bảng 2. Diện tích công điền công thổ ở huyện 
Phong Phú 
Đơn vị tính: mẫu/sào/thước/tấc 
TT Tổng Công điền 
Tỉ lệ 
% 
Công thổ 
Tỉ lệ 
% 
1 Định An 51.1.3.0 2,99 1.5.0.0 0,09 
2 Định Bảo 42.8.5.0 1,02 10.1.11.0 0,24 
3 Định Thới 584.4.13.0 5,05 27.3.5.0 0,24 
Tổng cộng 678.4.6.0 3,88 50.4.13.8 0,22 
Nguồn: [5] 
Biểu đồ 1. Cơ cấu diện tích công điền 
ở huyện Phong Phú 
Biểu đồ 2. Cơ cấu diện tích công thổ 
ở huyện Phong Phú 
Công điền ở tổng Định An với khoảng 51 
mẫu chiếm 2,99% diện tích ruộng đất toàn 
tổng, song chỉ đạt 7,54% tổng diện tích ruộng 
đất công của toàn huyện Phong Phú. Trong 
khi đó, diện tích công thổ nhỏ nhất huyện với 
1 mẫu, chiếm 0,09% diện tích ruộng đất của 
tổng Định An và chỉ chiếm tỉ lệ 3,85% tổng 
diện tích đất công của huyện. Công điền của 
tổng tập trung ở 2 thôn Đông Phú (38 mẫu) và 
Long Hưng (13 mẫu). Công thổ chủ yếu ở 
thôn Đông Phú. 
Tổng Định Bảo có công điền nhỏ nhất huyện 
với diện tích 42.8.5.0 (chiếm 1,02% diện tích 
ruộng đất toàn tổng và chiếm tỉ lệ 6,31% tổng 
diện tích ruộng đất công của huyện Phong 
Phú). Công điền được phân bố ở một số thôn 
như: Nhơn Ái (17 mẫu), Tân Thạnh Đông (9 
mẫu), Thới Bình (12 mẫu), Thường Thạnh (3 
mẫu). Công thổ của tổng Định Bảo có diện 
tích khoảng 10 mẫu (chiếm 0,24% diện tích 
ruộng đất của toàn tổng) nhưng đạt tỉ lệ khá 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 75 
cao trong tổng diện tích ruộng đất công của 
huyện với 26,08% và chủ yếu tập trung ở các 
thôn: Nhơn Ái (1 mẫu), Tân An (4 mẫu), Tân 
Thạnh Đông (2 mẫu), Thường Thạnh (2 mẫu). 
Tổng Định Thới có diện tích công điền lớn 
nhất huyện với hơn 584 mẫu (chiếm tỉ lệ 
5,05% diện tích ruộng đất toàn tổng và 
86,15% tổng diện tích ruộng đất công của 
huyện Phong Phú). Công điền tổng Định Thới 
được phân bố ở thôn: Phú Long (7 mẫu), Tân 
Lộc Đông (3 mẫu), Thới An (63 mẫu), Thới 
An Đông (128 mẫu) và Thới Hưng (381 
mẫu). Công thổ chiếm diện tích 27.3 mẫu (đạt 
tỉ lệ 0,24% diện tích ruộng đất toàn tổng và 
chiếm tỉ lệ 70,07% tổng diện tích ruộng đất 
công của huyện), tập trung phân bố chủ yếu ở 
2 thôn Thới An (3 mẫu) và thôn Thới Hưng 
(23 mẫu). 
Về quy mô sở hữu 
Công điền ở huyện Phong Phú phân bố ở 
11/17 thôn, chiếm 64,71% và công thổ tập 
trung ở 7/17 thôn, chiếm 41,18% tổng số thôn 
của huyện. 
Bảng 3. Số xã, thôn có công điền, công thổ 
Đơn vị tính: xã, thôn 
TT Tổng 
Tổng số 
xã, thôn 
Công điền Công thổ 
Có 
Tỉ lệ 
% 
Có 
Tỉ lệ 
% 
1 Định An 3 2 66,67 1 33,33 
2 Định Bảo 8 4 50 4 50 
3 Định Thới 6 5 83,33 2 33,33 
Tổng cộng 17 11 64,71 7 41,18 
Nguồn: [5] 
Theo đó, công điền công thổ ở huyện Phong 
Phú phân bố ở hầu hết các tổng. Tuy nhiên có 
sự chênh lệch về quy mô, cụ thể là: 
Công điền tổng Định An tập trung ở thôn 
Đông Phú (38.0.0.0) và thôn Long Hưng 
(13.1.3.0), chiếm 66,67% số thôn của tổng, 
bình quân diện tích là 25,5 mẫu/thôn. Diện 
tích công thổ tập trung ở thôn Đông Phú 
(1.5.0.0), chiếm 33,33% tổng số thôn, bình 
quân diện tích là 1 mẫu/thôn. 
Tổng Định Bảo có công điền phân bố ở 4 
thôn: Nhơn Ái (17.4.1.0), Tân Thạnh Đông 
(9.9.0.0), Thới Bình (12.0.0.0), Thường 
Thạnh (3.5.4.0), chiếm 50% tổng số thôn, 
bình quân diện tích là 10,5 mẫu/thôn. Công 
thổ tập trung ở 4 thôn: Nhơn Ái (1.1.7.0), Tân 
An (4.0.0.0), Tân Thạnh Đông (2.2.11.0), 
Thường Thạnh (2.7.8.0), chiếm 50% tổng số 
thôn và bình quân diện tích là 2,5 mẫu/thôn. 
Tổng Định Thới có 5 thôn có công điền, 
chiếm 83,33% số thôn của tổng, được phân 
bố ở các thôn: Phú Long (7.5.0.0), Tân Lộc 
Đông (3.3.13.0), Thới An (63.2.8.0), Thới An 
Đông (128.6.11.0), Thới Hưng (381.6.11.0) 
và bình quân diện tích là 116,8 mẫu/thôn. 
Công thổ tập trung ở 2 thôn, chiếm 33,33% số 
thôn của tổng: thôn Thới An (3.6.5.0) và Thới 
Hưng (23.7.0.0), bình quân diện tích là 13,5 
mẫu/thôn. 
Bình quân ruộng đất công ở huyện Phong Phú 
khoảng 39,9 mẫu/thôn. Về cơ bản, loại đất 
“bổn thôn điền thổ” này tồn tại hầu khắp 
trong các thôn huyện Phong Phú nhằm chi 
dùng vào việc chung của xã thôn một cách 
vừa đủ, do vậy quy mô sở hữu và bình quân 
diện tích của nó sẽ không chiếm tỉ lệ quá lớn 
so với các loại hình sở hữu đất đai khác của 
huyện. Mặt khác, quy mô sở hữu loại đất này 
còn do lịch sử quá trình khai phá đất đai, lập 
làng xã của các cộng đồng cư dân từ thế kỷ 
XVII – XVIII để lại. Nửa đầu thế kỷ XIX, với 
chính sách khuyến khích và hỗ trợ nhân lực, 
vật lực trong khai hoang của nhà nước đã góp 
phần thúc đẩy tốc độ và quy mô sở hữu ruộng 
đất công ở Nam Bộ nói chung và ở huyện 
Phong Phú nói riêng có sự gia tăng đáng kể, 
đặc biệt là đối với những khu vực có điều 
kiện tự nhiên còn hoang vu và khó canh tác. 
Một số nhận xét 
Ruộng đất công ở huyện Phong Phú có sự 
chênh lệch lớn trong phân phối sở hữu 
Qua thống kê, diện tích ruộng đất công huyện 
Phong Phú có sự chênh lệch khá lớn về diện 
tích: tổng Định An và tổng Định Bảo có 
khoảng 52 – 53 mẫu. Trong khi đó, tổng Định 
Thới có tới hơn 611 mẫu, chênh lệch xấp xỉ 
12 lần. 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 76 
Sự chênh lệch thể hiện trong cơ cấu diện tích 
giữa công điền và công thổ: diện tích công 
điền là 678 mẫu lớn gấp 17 lần so với công 
thổ (39 mẫu). Trong đó, diện tích công điền 
giữa các tổng của huyện có sự chênh lệch cao: 
diện tích công điền tổng Định An lớn gấp 1,2 
lần so với tổng Định Bảo nhưng lại nhỏ hơn 
11,5 lần so với tổng Định Thới. Ngược lại, 
diện tích công thổ giữa các tổng tuy vẫn có sự 
chênh lệch nhưng tỉ lệ không quá lớn như 
công thổ: tổng Định Bảo có diện tích công 
điền lớn gấp 10 lần so với tổng Định An 
nhưng lại bé hơn 2,7 lần so với diện tích công 
thổ của tổng Định Thới. 
Độ chênh lệch được thể hiện ở quy mô sở hữu 
ruộng đất công các thôn của từng tổng. Công 
điền được phân bố ở 11 thôn, nhiều gấp 1,5 
lần so với 7 thôn có diện tích công thổ trong 
cùng huyện. Trong đó, số lượng thôn có công 
điền và công thổ giữa các tổng cũng chưa có 
sự đồng đều về quy mô sở hữu. 
Do điều kiện tự nhiên của huyện Phong Phú 
nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông 
Cửu Long được bao bọc bởi hệ thông sông 
ngòi chằng chịt nên đất đai dọc ven các nhánh 
sông khá màu mỡ và phì nhiêu. Các khu vực 
đất đai thuận lợi đã được các cộng đồng lưu 
dân khai phá và định cư từ các thế kỷ XVII – 
XVIII, đặc biệt là nửa sau thế kỷ XVIII, dưới 
thời Tổng trấn Mạc Thiên Tích đã tổ chức 
cuộc khai hoang, mở rộng diện tích ruộng đất 
canh tác. “Mạc Thiên Tích đã cho người 
ngược sông Cái Lớn, lập đạo Trấn Giang và 
Trấn Di ở hữu ngạn sông Hậu. Đây được xem 
như là những đồn binh để liên lạc với quân 
chúa Nguyễn đồng thời tạo điều kiện cho lưu 
dân định cư và khai phá những vùng đất tốt ở 
hữu ngạn sông Hậu” [6, tr.110]. Vì thế, 
những khu vực còn lại phần vì điều kiện tự 
nhiên còn khó khăn, kém màu mỡ, phần vì 
thiếu nguồn nhân lực cho quá trình khai 
hoang nên cần đến sự hỗ trợ của triều đình 
thông qua chính sách khẩn hoang. Qua đó, 
nhà nước trung ương dễ dàng thiết lập công 
điền công thổ đối với các khu vực đất đai này. 
Chính vì điều đó, trong quy mô sở hữu và 
bình quân diện tích ruộng đất công không thể 
có sự đồng đều giữa các tổng trong cùng 
huyện và giữa các thôn xã trong cùng tổng. 
Ruộng đất công chiếm tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu 
sở hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú 
Diện tích ruộng đất công chiếm tỉ lệ nhỏ 
4,11% trong cơ cấu ruộng đất của huyện 
Phong Phú và chỉ chiếm 0,74% trong cơ cấu 
ruộng đất toàn tỉnh An Giang 
(717.4.7.0/97407.8.3.1). 
Bảng 4. So sánh tỉ lệ % giữa diện tích ruộng đất 
công trong tổng diện tích ruộng đất ở một số địa 
phương Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX 
Đơn vị tính: mẫu/sào/thước/tấc 
TT 
Đơn vị 
hành chính 
Tổng 
diện tích 
Ruộng đất 
công 
Tỉ lệ 
% 
1 Phong Phú 1747.6.14.0 717.4.7.0 4,11 
2 Sa Đéc 43874.9.5.1 872.12.0 1,99 
3 Sóc Trăng 2238.6.1.0 159.0.11.0 7,11 
4 Long Xuyên 8527.3.4.0 613.8.8.0 7,20 
5 Châu Đốc 25295.2.9.0 2001.9.5.0 7,91 
6 Kiến Đăng 66766.4.10.3 1357.5.13.5 2,03 
7 Kiên Giang 526.9.7.3 476.4.12.3 90,42 
Nguồn: [7] 
Nếu so sánh tỉ lệ ruộng đất công trong cơ cấu 
ruộng đất ở một số đơn vị hành chính Nam 
Bộ nửa đầu thế kỷ XIX thì ở huyện Phong 
Phú chiếm tỉ lệ khá nhỏ. Trong đó một số 
huyện như Châu Đốc (tỉnh An Giang) chiếm 
tỉ lệ 7,91%, Kiên Giang (tỉnh Hà Tiên) có tỉ lệ 
ruộng đất công rất cao 90,42%... 
Vùng đất Trấn Giang thế kỷ XVIII đồng thời 
là huyện Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX đã 
từng tồn tại và phát triển mạnh mẽ của hình 
thức tư hữu ruộng đất của địa chủ trong tiến 
trình khai phá và canh tác. Đến nửa đầu thế 
kỷ XIX, khi tổ chức nhà nước trung ương 
được tái lập, xã hội được ổn định dần thì xu 
hướng tư hữu ngày càng cao và chiếm ưu thế. 
Do vậy, kết quả đo đạc điền thổ năm 1836 
dưới triều Minh Mạng cho thấy sự tồn tại của 
loại hình ruộng đất công về thực chất là 
những khu vực đất đai trong các thôn xã được 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 77 
canh tác và sử dụng hoa lợi cho những việc 
chung của xã thôn. Vì thế, diện tích của loại 
ruộng đất công này không nhiều và chiếm tỉ 
lệ không quá lớn trong cơ cấu sở hữu ruộng 
đất của toàn huyện Phong Phú. 
Bên cạnh đó, từ triều Gia Long đến triều Tự 
Đức đã không ngừng khuyến khích và chú 
trọng phát triển đồn điền đối với những khu 
vực đất đai xung quanh đồn binh hoặc ở 
những khu vực đất đai hoang nhàn, rừng 
rậm mà nhân dân không đủ điều kiện khai 
khẩn và canh tác. Chính vì vậy, triều đình dễ 
dàng thực hiện và phát triển chế độ công điền 
công thổ đối với những khu vực đất đai do 
chính nhà nước đầu tư khai khẩn nên loại 
ruộng đất công này ngày càng phát triển và 
chiếm một tỉ lệ đáng kể. 
Loại ruộng đất thuộc công điền công thổ có 
chế định riêng, được dùng để phân cấp cho 
nhân dân trong các làng xã canh tác tác và chỉ 
thích ứng đối với những địa bàn đất hẹp 
người đông, nhằm ngăn chặn tình trạng chấp 
chiếm ruộng đất và củng cố nguồn nhân lực 
đáp ứng nhu cầu binh dịch, sưu thuế. Tuy 
nhiên, đối với vùng đất Nam Bộ nói chung và 
ở huyện Phong Phú nói riêng, nguồn quỹ đất 
đai rất lớn nên việc thiết lập chế độ công điền 
công thổ theo ý chí của triều Nguyễn nơi đây 
đã tạo nên sự biến đổi quan trọng trong cơ 
cấu sở hữu ruộng đất ở địa phương. Qua đó 
đã phản ánh xu thế lạc hậu trong cơ chế quản 
lý đất đai và hạn chế tầm nhìn vĩ mô trong 
quản lý kinh tế nông nghiệp đối với vùng đất 
Phong Phú. “Việc ra đời và ngày càng được 
gia tăng của diện tích công điền công thổ ở 
đồng bằng Nam Bộ đã có tác động tiêu cực 
đến tiến trình phát triển kinh tế của đồng 
bằng Nam Bộ” [8, tr.27]. 
Vấn đề sở hữu ruộng đất công ở huyện 
Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX để lại bài 
học về cơ chế quản lý đất đai hiện nay ở 
thành phố Cần Thơ 
Từ kết quả khảo cứu lịch sử huyện Phong Phú 
nửa đầu thế kỷ XIX đã góp phần phản ánh 
chính sách quản lý ruộng đất của triều Nguyễn 
đối với địa phương ở Nam Bộ đương thời theo 
các chiều hướng khác nhau. Việc thiết lập 
công điền công thổ trong chính sách quản lý 
ruộng đất dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ 
XIX đã mang lại nhiều tín hiệu tích cực trong 
việc phân cấp ruộng đất công cho nhân dân 
canh tác, tạo nguồn nhân lực địa phương ổn 
định góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy 
nhiên, chính sách vĩ mô được áp dụng ở từng 
địa phương, đặc biệt là vùng đất trẻ Phong Phú 
chưa thực sự phù hợp với xu thế phát triển 
kinh tế - xã hội. Điều đó tạo nên rào cản lớn 
trong phát triển và hội nhập nền kinh tế Nam 
Bộ ở vùng đất Phong Phú thế kỷ XIX. 
Lịch sử đã sang trang, song bài học lịch sử 
vẫn còn nguyên giá trị đối với việc hoạch 
định chính sách phát triển kinh tế - xã hội 
hiện đại, đặc biệt là trong cơ chế quản lý đất 
đai ở thành phố Cần Thơ ngày nay. Cần Thơ 
ở thế kỷ XXI là một thành phố năng động, 
đầy tiềm năng trong hội nhập và phát triển 
kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, sự 
phát triển kinh tế cần gắn kết chặt chẽ với an 
sinh xã hội, các vấn đề nhà ở, đất đai canh tác 
cần được giải quyết một cách ổn thỏa. Vấn đề 
phát triển kinh tế nông nghiệp đủ sức cạnh 
tranh với thị trường quốc tế cần giải quyết bài 
toán phân tán nhỏ lẻ ruộng đất canh tác theo 
cá thể hay tích tụ ruộng đất với quy mô lớn để 
lập các đồn điền, trang trại nông nghiệp kiểu 
mẫu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Vì 
vậy, trong quy hoạch và quản lý đất đai hiện 
nay tại thành phố Cần Thơ cần chú trọng đến 
vấn đề đặc thù của địa phương, đặc điểm cư 
trú và canh tác của các tộc người nhằm xây 
dựng chính sách quản lý và sử dụng quỹ đất 
đai phù hợp. Việc nghiên cứu bài học lịch sử 
một cách thấu đáo sẽ dần xóa bỏ những hạn 
chế, yếu kém trong quản lý đất đai và quy 
hoạch xây dựng, góp phần đảm bảo phát triển 
bền vững, quy hoạch đô thị tổng thể và có 
định hướng, nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng 
cường khả năng huy động nguồn lực xã hội 
đóng góp vào sự phát triển của thành phố. 
Bùi Hoàng Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 71 - 78 
 Email: jst@tnu.edu.vn 78 
KẾT LUẬN 
Trên cơ sở thống kê và phân tích số liệu địa 
bạ huyện Phong Phú, tỉnh An Giang đã thể 
hiện sự tồn tại ruộng đất công thuộc sở hữu 
nhà nước với hai loại hình cơ bản: công điền 
và công thổ với diện tích và quy mô sở hữu 
có sự chênh lệch khác nhau. Song, ruộng đất 
công vẫn chiếm tỉ lệ khá trong cơ cấu hữu 
ruộng đất ở huyện Phong Phú, điều này phản 
ánh đặc thù của tiến trình lịch sử khai phá 
vùng đất Phong Phú. Đồng thời còn phản ánh 
quy mô sở hữu ruộng đất nhỏ lẻ và chưa có sự 
tập trung cao đủ tạo nên sự chuyển đổi mạnh 
mẽ trong canh tác nông nghiệp. Thực trạng về 
sở hữu ruộng đất nhỏ lẻ ở huyện Phong Phú là 
sản phẩm của hoàn cảnh tự nhiên và xã hội 
nửa đầu thế kỷ XIX đã để lại nhiều hệ quả lớn 
tác động đến tiến trình phát triển và hội nhập 
nền kinh tế Nam Bộ đương thời. Tuy lịch sử 
dân tộc đã trải qua nhiều bước thăng trầm 
theo thời gian, nhưng bài học về cơ chế quản 
lý ruộng đất công hữu dưới triều Nguyễn vẫn 
còn nguyên giá trị đối với việc hoạch định 
chính sách xây dựng quy hoạch và quản lý đất 
đai ở thành phố Cần Thơ hiện đại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất 
thống chí, bản dịch Viện Sử học, tập 5, Nxb 
Thuận Hóa, Huế, 2006. 
[2]. Philippe Langlet et Quach Thanh Tam, Atlas 
Historique des six povinces du Sud du 
Vietnam – du milieu du XIXe au début du XX 
siècle, Editions Les Indes savantes, Paris, 
2001. 
[3]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực 
lục, bản dịch Viện Sử học, tập 4, Nxb Giáo 
dục, Hà Nội, 2006. 
[4]. Tỉnh ủy – UBND tỉnh Cần Thơ, Địa chí Cần 
Thơ, Cần Thơ, 2002. 
[5]. Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa 
bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb Thành phố Hồ Chí 
Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 1994. 
[6]. Đỗ Quỳnh Nga, Công cuộc mở đất Tây Nam 
Bộ thời chúa Nguyễn, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2013. 
[7]. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều 
Nguyễn – An Giang, Nxb Thành phố Hồ Chí 
Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 1995. 
[8]. Trần Thị Thu Lương, "Chế độ sở hữu ruộng 
đất ở Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế 
kỷ XIX", Tạp chí Phát triển Khoa học và 
Công nghệ Đại học Quốc gia – Hồ Chí Minh, 
tập 9, số 3, 2006. 

File đính kèm:

  • pdfso_huu_ruong_dat_cong_o_huyen_phong_phu_tinh_an_giang_nua_da.pdf