Sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay (1930 -2018) là một đảng

cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc Việt

Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình

lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chứng tỏ được bản lĩnh, trí tuệ của mình trong

trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ

thể của Việt Nam, đưa cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

pdf 10 trang kimcuc 19240
Bạn đang xem tài liệu "Sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
53 
SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 
VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 
 Nguyễn Thị Túy1 
TÓM TẮT 
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay (1930 -2018) là một đảng 
cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc Việt 
Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ cách 
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình 
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chứng tỏ được bản lĩnh, trí tuệ của mình trong 
trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ 
thể của Việt Nam, đưa cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng tạo 
1. Đặt vấn đề 
Đảng Cộng sản Việt Nam là người 
tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của 
cách mạng Việt Nam trên con đường 
đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ 
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là 
một thực tiễn lịch sử không ai có thể 
phủ nhận được. 
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản 
Việt Nam ra đời không chỉ chấm dứt sự 
khủng hoảng về đường lối cứu nước mà 
còn khẳng định vai trò quyết định về sự 
lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đối với cách mạng Việt Nam. 
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là 
sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin 
với phong trào công nhân và phong trào 
yêu nước Việt Nam. Với đường lối 
đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với 
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt 
Nam và xu thế phát triển của lịch sử 
loài người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
quy tụ, đoàn kết, xây dựng nên lực 
lượng cách mạng to lớn, rộng khắp và 
tổ chức quần chúng đấu tranh không chỉ 
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân 
dân mà còn cả trong sự nghiệp đổi mới 
hiện nay. Trước những khó khăn, thách 
thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ 
trong lịch sử, bên cạnh nhiều điểm sáng 
tạo, trong quá trình lãnh đạo Đảng Cộng 
sản Việt Nam cũng không thể tránh 
khỏi những hạn chế, yếu kém, khuyết 
điểm, thậm chí có cả những sai lầm, 
nhưng Đảng ta đã sớm phát hiện ra 
những hạn chế, yếu kém, sai lầm, 
khuyết điểm, kịp thời đề ra những biện 
pháp sữa chữa đúng đắn. Vì vậy, Đảng 
ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là 
người lãnh đạo chân chính, duy nhất. 
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam 
đã chứng minh không có một tổ chức 
chính trị nào có thể thay thế được vai 
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: phuongtuydhdongnai@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
54 
Nam; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là 
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của 
cách mạng Việt Nam. Quan điểm, 
đường lối, chủ trương của Đảng là nhất 
quán về mục tiêu độc lập dân tộc gắn 
liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định trên 
lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh; là sự kế thừa, 
phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng 
Việt Nam. 
Với vai trò lãnh đạo, định hướng, 
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn 
bám sát thực tiễn, bổ sung và phát triển 
nhiều luận điểm quan trọng. Trong 
khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ dừng 
lại việc chứng minh, phân tích hai điểm 
sáng tạo nổi bật, đó là: vận dụng và phát 
triển lý luận về Đảng Cộng sản, sáng 
lập Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố 
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự 
nghiệp giải phóng dân tộc và tiến lên 
xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự sáng tạo 
trong đường lối đối ngoại của Đảng 
Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới. 
2. Nội dung 
2.1. Vận dụng và phát triển lý luận 
về Đảng Cộng sản, sáng lập Đảng 
Cộng sản Việt Nam - nhân tố hàng 
đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp 
giải phóng dân tộc và tiến lên xây 
dựng chủ nghĩa xã hội 
Gần 90 năm qua, Đảng Cộng sản 
Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và phát 
triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá 
trình đấu tranh giải phóng dân tộc và 
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam với những thắng lợi vô cùng 
to lớn. 
Quá trình vận dụng và phát triển lý 
luận về Đảng Cộng sản, sáng lập ra 
Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố 
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự 
nghiệp giải phóng dân tộc và tiến lên 
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một luận 
điểm sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh. 
Trong lúc đất nước ta đang bế tắc 
về đường lối chính trị, Nguyễn Ái Quốc 
đã tìm thấy con đường cứu nước cho 
cách mạng Việt Nam là con đường cách 
mạng vô sản. Hành trình đi tìm đường 
cứu nước, Người đã nghiên cứu nhiều 
cuộc cách mạng lớn trên thế giới như 
cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, 
nhưng chỉ có Cách mạng tháng Mười 
Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, 
giải phóng dân tộc và mang lại lợi ích 
cho người lao động. Người cho rằng 
cần phải nhận thức và hiểu đúng giá trị 
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để 
truyền bá vào Việt Nam, song việc 
truyền bá lý luận không được cứng 
nhắc, máy móc, sách vở mà phải truyền 
bá tinh thần và phương pháp của học 
thuyết đó, làm cho các dân tộc và mọi 
người có thể hiểu thấu và hành động 
đúng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Ái 
Quốc đã từng bước truyền bá lý luận 
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong 
trào công nhân và phong trào yêu nước 
Việt Nam để tiến tới thành lập Đảng 
Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. 
Về quy luật ra đời của Đảng Cộng 
sản Việt Nam: Học thuyết Mác - Lênin 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
55 
chỉ rõ, sự kết hợp chủ nghĩa Mác - 
Lênin với phong trào công nhân là quy 
luật chung cho sự ra đời của các Đảng 
Cộng sản trên thế giới, nhưng đặc điểm 
của mỗi nước đòi hỏi phải có con 
đường riêng biệt, không theo một khuôn 
mẫu giáo điều, cứng nhắc. Là một công 
dân yêu nước, Nguyễn Ái Quốc hiểu rất 
rõ một điều rằng, tình hình Việt Nam 
hoàn toàn khác với nước Nga và các 
nước châu Âu; làm thế nào để thành lập 
được một đảng vô sản ở một nước với 
nền nông nghiệp lạc hậu, dưới sự đô hộ 
của thực dân, phong kiến trong suốt 
nhiều thế kỷ như Việt Nam là vấn đề 
mới và khó. Điều đó đòi hỏi sự vận 
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - 
Lênin về Đảng Cộng sản trong điều kiện 
lịch sử cụ thể ở thuộc địa. 
Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của 
Đảng Cộng Sản, xuất phát từ hoàn cảnh 
cụ thể của nước Nga và của phong trào 
công nhân châu Âu, V.I. Lê nin nêu lên 
hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa 
Mác với phong trào công nhân. 
Khi đề cập sự hình thành Đảng 
Cộng sản Việt Nam bên cạnh hai yếu tố 
chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào 
công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến 
yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu 
nước. Đây chính là một quan điểm quan 
trọng của Hồ Chí Minh về sự hình 
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự 
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - 
Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt 
Nam, với những lý do sau: 
Một là phong trào yêu nước có vị trí, 
vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát 
triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa 
yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn 
trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là 
nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp 
chống ngoại xâm của dân tộc ta. 
Hai là phong trào công nhân kết hợp 
được với phong trào yêu nước bởi vì hai 
phong trào đó đều có mục tiêu chung. 
Ba là phong trào nông dân kết hợp 
với phong trào công nhân. Nói đến 
phong trào yêu nước Việt Nam, phải kể 
đến phong trào nông dân. 
Bốn là phong trào yêu nước của trí 
thức Việt Nam là nhân tố quan trọng 
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra 
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Từ nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa 
Mác - Lênin, từ thực tiễn cách mạng 
Việt Nam, sự ra đời và ngày càng trưởng 
thành, vững mạnh của Đảng Cộng sản 
Việt Nam trong gần 90 năm qua đã minh 
chứng rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh và 
Đảng ta không những vận dụng sáng tạo 
mà còn luôn bổ sung, phát triển chủ 
nghĩa Mác - Lênin trong các giai đoạn 
cách mạng cho phù hợp. Từ thực tiễn đó, 
Đại hội VII của Đảng (1991) đã khẳng 
định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và 
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư 
tưởng và kim chỉ nam cho hành động 
của Đảng. Để vận dụng đúng đắn, sáng 
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, yêu cầu toàn 
Đảng và mỗi đảng viên phải hiểu và 
nhận thức đầy đủ cội nguồn, bản chất, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
56 
tính khoa học và cách mạng của chủ 
nghĩa Mác - Lênin. 
Ngay từ khi ra đời, Hồ Chí Minh đã 
giáo dục rèn luyện và xây dựng Đảng ta 
thành một Đảng Mác - Lênin vững 
mạnh, không ngừng phát triển và ngày 
càng vĩ đại. 88 năm qua, dưới sự lãnh 
đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được 
nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Nhìn lại 
lịch sử, mới 15 tuổi, với vài nghìn đảng 
viên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng 
lên khởi nghĩa. Cuộc Cách mạng tháng 
Tám năm 1945 thực hiện xóa bỏ chế độ 
phong kiến, đập tan ách thống trị xâm 
lược của thực dân, đế quốc, khai sinh ra 
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà 
nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam 
Á được ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập 
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, 
nhân dân làm chủ đất nước; tiếp tục sau 
đó là thắng lợi trong các cuộc kháng 
chiến chống thực dân Pháp (1954), chiến 
thắng đế quốc Mỹ xâm lược vào mùa 
xuân 1975 và những kẻ thù xâm lược, 
đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã 
hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu 
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, 
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã 
hội. Đặc biệt, thắng lợi của 32 năm đổi 
mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to 
lớn, đưa đất nước vượt qua khủng 
hoảng, bước vào chặng đường phát triển 
mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, 
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, 
hợp tác quốc tế... Có được thắng lợi trên, 
yếu tố quan trọng, quyết định trước hết là 
Đảng đã kế thừa, phát triển, vận dụng 
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây 
dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị của 
Đảng, của đất nước, luôn luôn kết hợp 
chủ nghĩa Mác - Lênin với đặc điểm, điều 
kiện, hoàn cảnh đất nước, coi trọng phân 
tích đặc điểm, hoàn cảnh thực tiễn làm 
điểm xuất phát cho việc hoạch định 
đường lối, nhiệm vụ chính trị. Đảng ta và 
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn 
mạnh việc nắm vững bản chất cách mạng 
và khoa học, học tập phương pháp của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp 
khoa học và sáng tạo. 
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - 
Lênin về Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh 
cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là 
đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là 
đảng của dân tộc Việt Nam. Luận điểm 
trên đây của Hồ Chí Minh là sự phát 
triển và bổ sung cho lý luận Mác - 
Lênin về Đảng Cộng sản, định hướng 
cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt 
Nam thành một đảng có sự gắn kết chặt 
chẽ với giai cấp công nhân, với nhân 
dân lao động và cả dân tộc trong mọi 
thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Đảng 
có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với 
giai cấp công nhân, mà còn đối với 
nhân dân lao động và cả dân tộc. 
Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do 
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là 
một chính đảng cách mạng tiên phong, 
gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một 
lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ 
nhân dân; là lực lượng lãnh đạo duy nhất 
và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm 
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
57 
2.2. Sự sáng tạo trong đường lối 
đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt 
Nam thời kỳ đổi mới 
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng 
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo 
hơn 30 năm qua đã thu được những 
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây 
là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, 
trải nghiệm và liên tục đổi mới tư duy 
của Đảng trên mọi lĩnh vực, trong đó 
đổi mới tư duy trong lĩnh vực đối ngoại 
có vị trí rất quan trọng, đây được xem là 
bước đột phá trong toàn bộ hoạt động 
đối ngoại của Việt Nam. Những sáng 
tạo trong đường lối đối ngoại đổi mới 
của Đảng góp phần kết hợp một cách 
hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức 
mạnh thời đại, đưa nước ta ngày càng 
chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng 
với khu vực và thế giới vì mục tiêu hòa 
bình và phát triển. 
 Một trong những nét đặc trưng nổi 
bật nhất của quá trình đổi mới tư duy 
đối ngoại của Đảng là quán triệt sâu 
sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại 
giao Hồ Chí Minh. Xét trên nhiều góc 
độ, đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng 
là sự trở lại với tư duy biện chứng duy 
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, 
với nhãn quan chiến lược và sách lược 
đối ngoại đúng đắn của Hồ Chí Minh. 
Những tinh hoa trong tư tưởng ngoại 
giao nhân văn, hòa bình, rộng mở, linh 
hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc của Hồ 
Chí Minh trở thành nền tảng lý luận và 
ngọn cờ tư tưởng cho đối ngoại Việt 
Nam thời kỳ đổi mới. 
Có thể thấy, sự sáng tạo trong 
đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ 
đổi mới được thể hiện rõ nét trên nhiều 
mặt. Trước hết, Đảng ta chú trọng đổi 
mới việc nhận thức, đánh giá cục diện 
và xu thế phát triển của thế giới. 
Bước ngoặt mang tính đột phá sáng 
tạo đối với sự phát triển tư duy đối 
ngoại, cũng như nhận thức cục diện thế 
giới và xu thế thời đại, được mở ra từ 
Nghị quyết số 13/NQ-TW của Bộ 
Chính trị (5-1988) “Về nhiệm vụ và 
chính sách đối ngoại trong tình hình 
mới”. Nghị quyết đã thể hiện tư duy 
mới và cách nhìn mới về thế giới, đánh 
giá đúng bạn và thù, chuyển hướng chỉ 
đạo chiến lược đối ngoại nhằm giữ 
vững hòa bình, tranh thủ điều kiện quốc 
tế thuận lợi mới để phá thế bao vây, 
cấm vận, tăng cường hợp tác quốc tế. 
 Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính 
trị là Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI 
(3-1989) đã nâng tư duy đối ngoại của 
Đảng lên một tầm cao mới. Từ đây, 
Đảng xác định ưu tiên đối ngoại hàng 
đầu là giữ vững hòa bình và phát triển 
kinh tế, nhấn mạnh chính sách “thêm 
bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ 
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc 
lập chủ quyền cùng có lợi, kiên quyết 
và chủ động chuyển sang đấu tranh và 
hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. 
Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI còn 
vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt 
động ngoại giao từ quan hệ chính trị là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
58 
chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, 
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phục 
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc. Bước đột phá về tư duy đối ngoại 
nêu trên đã định hình những quan điểm 
cơ bản trong đường lối đối ngoại độc 
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa 
phương hóa của Đảng ta. 
Trong đổi mới tư duy về quan hệ 
quốc tế, điểm mấu chốt nhất là Đảng ta 
ngày càng nhận thức rõ sự chuyển dịch 
lớn trong quan hệ quốc tế, nhất là quan 
hệ giữa các nước lớn, từ tình trạng đối 
đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu 
biệt về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa 
hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. Do 
đó, Đảng có nhận thức ngày càng đúng 
đắn hơn, phù hợp hơn về vấn đề tập hợp 
lực lượng, về xử lý các vấn đề quốc tế 
liên quan trực tiếp đến nước ta. 
Bước sang năm 1991, trong bối 
cảnh tình hình khu vực và thế giới có 
nhiều biến động. Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ VII (6/1991) đã tiếp tục 
thể hiện tư duy đổi mới trong lĩnh vực 
đối ngoại bằng khẳng định: “Chúng ta 
chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng 
có lợi với tất cả các nước, không phân 
biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau 
trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại 
hòa bình” [1, tr. 88]. Điều này cho thấy 
sự thay đổi về chất trong tư duy về đối 
ngoại đa phương của Đảng. Đó là chủ 
trương: vượt lên trên tư duy về “bạn”, 
“thù”, “đa phương hóa, đa dạng hóa, 
quan hệ quốc tế”. Tới Đại hội lần thứ 
IX (4/2001), lần đầu tiên, Đảng ta đưa 
ra khái niệm đối tác, đối tượng thay cho 
bạn và thù; đồng thời, xác định trong 
đối tác có đối tượng và trong đối tượng 
có đối tác. Do đó, chính sách đối ngoại 
chung của Việt Nam cần tránh cả hai 
khuynh hướng mất cảnh giác, tuyệt đối 
hóa đối tác hoặc đối tượng trong việc 
xử lý quan hệ cụ thể. Đại hội đã khẳng 
định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối 
tác tin cậy của các nước trong cộng 
đồng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động tại 
các diễn đàn đa phương” [2, tr. 119]. 
Đây là bước chuyển biến quan trọng, là 
nội dung cốt lõi trong tư duy đối ngoại 
đa phương của Đảng ta và là cơ sở then 
chốt để Việt Nam triển khai đối ngoại 
đa phương trên thực tế. 
Tiếp tục phát triển và làm sâu sắc 
thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại được 
nêu ra trong các nhiệm kỳ đại hội trước 
đó, Đại hội X khẳng định các quan điểm: 
“Thực hiện nhất quán đường lối đối 
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác 
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng 
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các 
quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực 
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở 
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực 
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy 
của các nước trong cộng đồng quốc tế, 
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác 
quốc tế và khu vực” [3, tr. 38]. Quan 
điểm của Đại hội X được Đại hội XI kế 
thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn 
khi xác định: “Thực hiện nhất quán 
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa 
bình, hợp tác và phát triển; đa phương 
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và 
tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
59 
thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân 
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy 
và thành viên có trách nhiệm trong cộng 
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp 
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và 
tiến bộ xã hội trên thế giới” [4, tr. 83]. 
Với thế và lực mới của đất nước, tư 
tưởng chỉ đạo của Đảng nhấn mạnh 
không chỉ tính chủ động và tích cực 
trong quá trình hội nhập quốc tế, mà còn 
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của 
nước ta trong việc tham gia giải quyết 
các vấn đề khu vực và thế giới, đóng góp 
cho hòa bình, hợp tác và phát triển. 
Phù hợp với mục tiêu của đường lối 
đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp 
tác và phát triển của chính sách đối 
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng 
hóa, Đảng cũng luôn xác định một cách 
nhất quán nhiệm vụ đối ngoại cơ bản 
trong suốt thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ 
đó được tiếp tục khẳng định và phát 
triển tại Đại hội XII. Đó là: “Thực hiện 
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, 
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; 
đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan 
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội 
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy 
và thành viên có trách nhiệm trong cộng 
đồng quốc tế” [5, tr. 154]. 
Sự sáng tạo trong đường lối đối 
ngoại đổi mới của Đảng còn được thể 
hiện qua việc nêu ra và thực hiện tốt 
phương châm xử lý các vấn đề quốc tế. 
Đó là: Đảo đảm lợi ích dân tộc cao nhất 
là xây dựng thành công và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kết hợp 
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ 
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. 
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh 
trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy mặt hợp 
tác, đấu tranh để hợp tác, tránh trực diện 
đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập. Giữ 
vững độc lập tự chủ, đẩy mạnh đa dạng 
hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. 
Chú trọng hợp tác khu vực, đồng thời 
mở rộng quan hệ với tất cả các nước, 
trong đó đặt cao quan hệ với các nước 
lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa 
phương trong khu vực và toàn cầu. 
Một điểm mới nữa trong tư duy đối 
ngoại đa phương của Đảng ta trong 
giai đoạn này là kết hợp chặt chẽ quá 
trình hội nhập quốc tế và đối ngoại đa 
phương với yêu cầu giữ vững an ninh 
quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền 
và an ninh đất nước. Triển khai đường 
lối đối ngoại đổi mới sáng tạo và đúng 
đắn, nước ta đã đạt được những thành 
tựu rất quan trọng, giữ vững môi 
trường hòa bình, quan hệ đối ngoại 
không ngừng được mở rộng, vị thế đất 
nước ngày càng được nâng cao trên 
trường quốc tế, đóng góp xứng đáng 
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc. Nước ta ngày càng chủ động và 
tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh 
vực, góp phần thúc đẩy, củng cố xu thế 
hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực 
và trên thế giới. 
Sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu 
quả giữa đối ngoại Đảng và đối ngoại 
nhân dân với ngoại giao nhà nước tạo 
nên diện mạo đa dạng với nội dung và 
hình thức phong phú của đối ngoại Việt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
60 
Nam trong quá trình hội nhập. Đảng ta 
cũng chủ động mở rộng quan hệ với các 
đảng cầm quyền, nhất là với đảng cầm 
quyền ở các nước láng giềng và khu 
vực, góp phần tăng cường quan hệ 
ngoại giao nhà nước. Đối ngoại nhân 
dân tiếp tục đổi mới toàn diện với lực 
lượng tham gia ngày càng đông đảo, địa 
bàn hoạt động và đối tác ngày càng mở 
rộng. Công tác với các tổ chức phi 
chính phủ nước ngoài đã thu hút được 
các nguồn tài trợ, đóng góp thiết thực 
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của 
đất nước. Công tác vận động dư luận 
quốc tế và thông tin tuyên truyền đối 
ngoại ngày càng đổi mới cả về nội dung 
và hình thức. Việt Nam tranh thủ được 
sự ủng hộ của nhiều nước và nhiều tổ 
chức phi chính phủ trong đấu tranh dư 
luận xung quanh các vấn đề chính trị 
nhạy cảm, cũng như những áp đặt bất 
hợp lý đối với các doanh nghiệp Việt 
Nam trong quan hệ kinh tế - thương mại 
quốc tế thời gian qua. 
Hoạt động ngoại giao đa phương 
của nước ta có bước trưởng thành và 
phát triển nổi bật. Đây là bước chuyển 
lớn trong tư duy đối ngoại đa phương 
của Việt Nam ở tầm cao nhất, tiếp tục 
thể hiện tính tiếp nối, sẵn sàng và có 
trách nhiệm của Việt Nam tham gia vào 
sân chơi toàn cầu hóa. Có thể nói, chưa 
bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt 
Nam lại rộng mở và phát triển như hiện 
nay. So với thời kỳ trước đổi mới, Việt 
Nam đã có những đột phá trong tư duy 
đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn” 
đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối 
tác tin cậy”, là “thành viên có trách 
nhiệm” là kết quả của sự sáng tạo đột 
phá trong tư duy đối ngoại của Việt 
Nam. Sự đột phá này không chỉ dẫn đến 
những thành tựu to lớn trong hoạt động 
đối ngoại của Việt Nam mà còn thể hiện 
một diện mạo mới của một quốc gia 
năng động, cởi mở như Việt Nam. Tất 
cả điều ấy đã góp phần vào việc giữ 
vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt 
nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát 
triển đất nước; đồng thời, vững tin vươn 
lên trưởng thành vượt bậc, tận dụng thời 
cơ, vượt qua thách thức, góp phần nâng 
tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. 
Những thành tựu đó là biểu hiện sinh 
động nhất về tính sáng tạo, đúng đắn 
trong đường lối đối ngoại đổi mới của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
3. Kết luận 
Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện 
nào, nếu chúng ta kiên định và vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin 
một cách phù hợp chính là điều kiện 
bảo đảm chắc chắn nhất để cách mạng 
giành thắng lợi; trái lại, nếu chúng ta xa 
rời lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, xem nhẹ hoặc giáo điều, rập 
khuôn, máy móc sách vở thì nhất định 
cách mạng sẽ mắc sai lầm và không thể 
tránh khỏi những tổn thất nặng nề, thậm 
chí phải trả giá đắt. Một trong những 
bài học lớn về sự thành công của Đảng 
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí 
Minh trong lãnh đạo cách mạng Việt 
Nam là bài học luôn kiên định lập 
trường, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin phù hợp với yêu cầu của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
61 
nước ta. Gần 90 năm qua, Đảng ta đã 
xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao 
vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của 
mình, đề ra đường lối đúng đắn mang 
lại lợi ích cho nhân dân, cho dân tộc, 
giành được nhiều thắng lợi cơ bản, 
được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Vận 
dụng và phát triển lý luận về Đảng 
Cộng sản, sáng lập Đảng Cộng sản Việt 
Nam - nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng 
lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và 
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự 
sáng tạo trong đường lối đối ngoại của 
Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi 
mới, đây là hai luận điểm trong nhiều 
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng 
mà tác giả muốn tập trung phân tích. 
Ngày nay, cách mạng Việt Nam đã 
chuyển sang một giai đoạn mới. Những 
mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt 
Nam do Đảng xác định từ những năm 
30 của thế kỷ XX đến nay đang được 
thực hiện từng bước. Đất nước đã được 
độc lập, nhân dân đã được tự do. Tuy 
nhiên, đời sống của nhân dân lao động 
vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất 
nước vẫn chưa phát triển mạnh, các nguy 
cơ đe dọa đất nước, chế độ vẫn còn rình 
rập. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam 
vẫn cần kiên định sứ mệnh lịch sử của 
mình, lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực 
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh 
quốc tế, khu vực có nhiều biến động 
phức tạp, đưa nước ta trở thành một 
nước giàu mạnh của khu vực và thế giới. 
Chỉ có như vậy, nền độc lập dân tộc, chủ 
quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa 
ở Việt Nam mới vững bền, sự nghiệp 
cách mạng của Đảng mới thành công 
trọn vẹn. 
Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng 
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam đã mang lại thắng lợi cho 
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp; có sứ mệnh và khả năng 
lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng 
thành công chế độ xã hội mới. Điều 4 
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng 
Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của 
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu 
trung thành quyền lợi của giai cấp công 
nhân, nhân dân lao động và của cả dân 
tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh 
đạo Nhà nước và xã hội”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
62 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
THE CREATIONS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM IN 
THE PROCESS OF APPLYING MARXISM LENINISM TO THE 
PRACTICAL REVOLUTION IN VIETNAM 
ABSTRACT 
 The Communist Party of Vietnam was established in 1930. Up to now, the 
Communist Party of Vietnam has proven that the Party has been the most righteous 
revolutionary party seizing the largest convergence power of the Vietnamese. The 
Communist Party of Vietnam is an organizer as well as a leader of all glorious 
victories of both the national democratic revolution and the socialist revolution. In 
the process of leading the revolution, the Party has proven its bravery and 
intelligence for the application and development of principles of Marxism- Leninism 
to the specific conditions of Vietnam and they have brought successive victories to 
our country. 
Keywords: The Communist Party of Vietnam, creation 
(Received: 4/12/2018, Revised: 16/2/2019, Accepted for publication: 7/5/2019) 

File đính kèm:

  • pdfsang_tao_cua_dang_cong_san_viet_nam_trong_qua_trinh_van_dung.pdf