Sáng ngời tư tưởng chính trị nhân ái của học thuyết các mác vĩ đại

Theo kết quả một cuộc thăm dò dư

luận tiến hành trên mạng Internet được

công bố vào đầu tháng 10 - 1999, khi nhân

loại chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới,

Các Mác, người sáng lập ra Chủ nghĩa xã

hội khoa học, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động trên toàn

thế giới, được bình chọn là nhà tư tưởng

của thiên niên kỷ. Cũng trong cuộc thăm dò

dư luận này, hai nhà khoa học An-be Anhxtanh và I-xắc Niu-tơn được xếp ngay sau

Các Mác. Dư luận cộng đồng quốc tế, sự

khẳng định của các đảng cộng sản trên thế

giới, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhấn

mạnh vai trò to lớn của Các Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lê-nin, những người sáng lập ra

Chủ nghĩa xã hội khoa học, con đường đi

tất yếu của xã hội loài người. Và cũng

chính giữa muôn trùng sự chống phá và

xuyên tạc của các thế lực thù địch, những

tư tưởng vĩ đại của các ông nói chung, tư

tưởng chính trị nhân ái nói riêng vẫn ngời

ngời tỏa sáng, đầy sức sống thanh xuân.

pdf 6 trang kimcuc 6680
Bạn đang xem tài liệu "Sáng ngời tư tưởng chính trị nhân ái của học thuyết các mác vĩ đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng ngời tư tưởng chính trị nhân ái của học thuyết các mác vĩ đại

Sáng ngời tư tưởng chính trị nhân ái của học thuyết các mác vĩ đại
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Xuân Tế 
1 
SÁNG NGỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHÂN ÁI 
CỦA HỌC THUYẾT CÁC MÁC VĨ ĐẠI 
POLITICAL IDEALS OF GREAT MARXIAN THEORY TOWARDS HUMAN 
NGUYỄN XUÂN TẾ 
 PGS.TS. Tổng Biên tập, nguyenxuante@yahoo.com, Mã số: TCKH09-09-2018 
TÓM TẮT: Tư tưởng chính trị của Các Mác xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng 
là giải phóng con người, để con người trở thành tự do, phát triển toàn diện. Trong quá 
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng của Các Mác, phát huy 
nhân tố con người - yếu tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta. 
Từ khóa: Các Mác, tư tưởng chính trị, giải phóng con người, phát huy nhân tố con người. 
ABSTRACT: The political ideals of Marx were derived from human beings and the ultimate 
goal is to liberate human, for them to be free and develop fully. In the process of leading the 
Vietnamese revolution, our Paety applied the Marxist ideals, to promote human factor- the 
decisive factor contributed to the sucess of the revolution, promoted the industrialization, 
modernization and international intergration of our country. 
Key words: Karl Marx, political ideal, free human, human factor. 
1. TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LỚN 
NHẤT CỦA CÁC MÁC LÀ GIẢI 
PHÓNG CON NGƯỜI 
Theo kết quả một cuộc thăm dò dư 
luận tiến hành trên mạng Internet được 
công bố vào đầu tháng 10 - 1999, khi nhân 
loại chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới, 
Các Mác, người sáng lập ra Chủ nghĩa xã 
hội khoa học, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp 
công nhân và nhân dân lao động trên toàn 
thế giới, được bình chọn là nhà tư tưởng 
của thiên niên kỷ. Cũng trong cuộc thăm dò 
dư luận này, hai nhà khoa học An-be Anh-
xtanh và I-xắc Niu-tơn được xếp ngay sau 
Các Mác. Dư luận cộng đồng quốc tế, sự 
khẳng định của các đảng cộng sản trên thế 
giới, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm 
của Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhấn 
mạnh vai trò to lớn của Các Mác, Ph.Ăng-
ghen, V.I. Lê-nin, những người sáng lập ra 
Chủ nghĩa xã hội khoa học, con đường đi 
tất yếu của xã hội loài người. Và cũng 
chính giữa muôn trùng sự chống phá và 
xuyên tạc của các thế lực thù địch, những 
tư tưởng vĩ đại của các ông nói chung, tư 
tưởng chính trị nhân ái nói riêng vẫn ngời 
ngời tỏa sáng, đầy sức sống thanh xuân. 
Đối với Các Mác, tư tưởng chính trị 
lớn nhất là giải phóng con người. Điều đầu 
tiên mà Mác quan tâm là làm thế nào để 
giải phóng con người khỏi những “tình 
cảnh không thể chấp nhận được”. Điểm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
2 
xuất phát của Mác là con người, từ lòng 
nhân ái thương người. Điều này chưa phải 
là cái mới trong tư tưởng chính trị của Mác 
vì rằng những tư tưởng như để sống thế nào 
là tự do hạnh phúc, những khát vọng tự do, 
tư tưởng nhân văn đã có từ lâu. Cái mới của 
C.Mác là ở chỗ ông đã đi tìm câu trả lời 
cho những vấn đề đó trong đời sống hiện 
thực. Hê-ghen không tìm được lời giải cho 
câu hỏi lớn một cách khoa học, vì ông đã 
tìm câu trả lời những vấn đề đó trong tinh 
thần, trong tư duy, chứ không đi tìm trong 
hiện thực cuộc sống. 
Trước khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản ra đời, Các Mác và Ăng-ghen đã đề 
xuất nhiều tư tưởng và luận điểm đặc sắc 
về con người; về sự phân cách giữa con 
người cá thể (tức con người cụ thể trong xã 
hội tư sản); không thể cứ để con người tiếp 
tục mang mãi những xiềng xích được trang 
điểm bằng “những bông hoa” tôn giáo. Các 
ông cũng đã nhiều lần đề cập tới sự tha hóa 
của con người lao động trong xã hội tư bản 
chủ nghĩa; bản năng phản kháng của 
những con người lao động nghèo khổ trong 
xã hội tư bản chủ nghĩa; vai trò cách mạng 
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 
hiện đại, 
Mục đích của chủ nghĩa cộng sản là đạt 
đến cá nhân tự do, làm cho mọi người tự 
do, chừng nào còn một người không tự do 
thì xã hội đó không có tự do; tự do, theo 
C.Mác, phải đến với từng người. 
Từ việc phê phán quan điểm của những 
nhà tư tưởng duy tâm, C.Mác đã góp phần 
quan trọng vào việc làm cho con người 
thoát khỏi sự tha hóa về đạo đức, tôn giáo; 
đặt con người trong các mối quan hệ hiện 
thực cụ thể, đấu tranh cho bản thân mình và 
tự mình quyết định. C.Mác đã tìm ra chìa 
khóa để thực hiện việc giải phóng con 
người, làm cho con người thoát khỏi cái 
lôgic phi nhân của những sức mạnh mà con 
người đã tạo ra nhưng lại chi phối con 
người, cũng như thoát khỏi ảo tưởng đã cản 
trở con người đi đến sự giải phóng đích 
thực cho chính mình. Có thể nói, ở thời kỳ 
chín muồi tức là bắt đầu từ lúc C.Mác phát 
hiện ra bí mật sự bóc lột tư bản chủ nghĩa - 
C.Mác đã chỉ ra con đường giải phóng một 
cách khoa học. Ông đã tìm ra một khâu mà 
nếu không giải quyết thì vấn đề con người 
không thể giải quyết được. Đó là quyền lực 
chính trị. Muốn giải quyết vấn đề con 
người thì phải giải quyết vấn đề giai cấp, 
phải giành được quyền lực chính trị. Chủ 
nghĩa nhân đạo mác-xít là chủ nghĩa nhân 
đạo hiện thực, không phải chỉ dựa vào đạo 
đức và lòng thương người như chủ nghĩa 
nhân đạo trừu tượng. 
Như vậy, tư tưởng chính trị của C.Mác 
xuất phát từ con người và mục đích cuối 
cùng là con người, từ con người qua xử lý 
giai cấp quay trở lại con người. Đó cũng 
chính là sự phủ định của phủ định trong tư 
duy chính trị của C.Mác. 
C.Mác đã tiến thêm một bước nghiên 
cứu điều bí mật của sự bóc lột, áp bức trong 
xã hội tư bản và vạch ra nguyên nhân tại 
sao các quyền con người và quyền công 
dân ở đó lại bị vi phạm trong thực tế, mặc 
dù giai cấp tư sản vẫn tuyên bố rằng cái xã 
hội được gọi là xã hội tư bản chủ nghĩa là 
một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, bác 
ái. Từ chỗ xét lại một cách có phê phán 
triết học pháp quyền của Hê-ghen, C.Mác 
đã thu được kết quả là: những quan hệ luật 
pháp cũng như những hình thức nhà nước 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Xuân Tế 
3 
được hiểu không phải do bản thân chúng, 
cũng không phải do bản thân cái gọi là sự 
tiến triển chung của tinh thần nhân loại, mà 
ngược lại, chúng bắt rễ trong những điều 
kiện tồn tại vật chất, Như vậy, nhiệm vụ 
của khoa giải phẫu học xã hội công dân là 
phải tìm chìa khóa trong khoa kinh tế chính trị. 
Điều bí mật về hiện thực xã hội phi 
nhân tính nơi những quyền con người bị vi 
phạm thô bạo trong thực tế đã được C.Mác 
vạch trần bởi sự phân tích từ những mối 
quan hệ của con người, từ bản chất của 
người. Bản chất con người, theo C.Mác 
“không phải là một cái trừu tượng cố hữu 
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện 
thực của nó, bản chất con người là tổng 
hòa những quan hệ xã hội” [2, tr.11]. 
Đặc biệt, tư tưởng chính trị của C.Mác 
và Ph.Ăng-ghen thể hiện rất cô đọng và rõ 
nét trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản 
do hai ông cùng soạn thảo và hoàn thành 
vào đầu năm 1848. “Tuyên ngôn” vừa là 
tác phẩm chủ yếu về chủ nghĩa cộng sản 
khoa học, vừa là cương lĩnh chính trị đầu 
tiên của phong trào cộng sản và công dân 
quốc tế. 
“Phản ánh đúng quy luật phát triển 
của hiện thực, định hướng cho Đảng của 
giai cấp vô sản lãnh đạo đấu tranh theo 
quy luật đó để giải phóng con người, Tuyên 
ngôn của Đảng Cộng sản đã trở thành 
ngọn cờ tư tưởng, lý luận, soi đường, dẫn 
lối cho phong trào cách mạng của giai cấp 
công nhân, nhân dân lao động, và các dân 
tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế 
giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, 
dân chủ vì tiến bộ xã hội” [10]. 
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đi đến kết 
luận: “Trong mỗi thời đại lịch sử, phương 
thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao 
đổi cùng với cơ cấu xã hội do phương thức 
đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch 
sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự 
phát triển trí tuệ của thời đại, toàn bộ 
lịch sử của nhân loại (từ thời kỳ tan rã của 
công xã nguyên thủy với chế độ sở hữu 
công cộng ruộng đất của nó) là lịch sử đấu 
tranh giai cấp. Lịch sử của cuộc đấu tranh 
ấy hiện nay đã phát triển tới giai đoạn 
trong đó giai cấp bị bóc lột và bị áp bức 
tức là giai cấp vô sản, không còn có thể tự 
giải phóng mình khỏi ách của giai cấp bóc 
lột và áp bức mình tức là giai cấp tư sản, 
nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải 
phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột và áp 
bức, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu 
tranh giai cấp” [1, tr.517]. 
Cũng trong Tuyên ngôn của Đảng 
Cộng sản, hai ông cho rằng: Sự bóc lột và 
áp bức dân tộc chỉ là kết quả của sự bóc lột 
và áp bức giai cấp, xóa bỏ nạn người bóc 
lột người thì nạn dân tộc này bóc lột, áp 
bức dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Vì vậy, 
tự do của mỗi cá nhân không bó hẹp trong 
tự do chính trị (như bầu cử, ứng cử), tự do 
thân thể (có thể bán sức lao động của mình 
cho người này hay người khác mà không bị 
ràng buộc), tự do trao đổi hàng hóa, mà 
tự do của con người là hoàn toàn thoát khỏi 
mọi áp bức bóc lột, có đầy đủ các điều kiện 
để phát huy tài năng, cá tính, nhân cách của 
mình. Đó là tương lai xa xôi song không 
phải là không tưởng. Vì chính chủ nghĩa tư 
bản phát triển cao đã và đang tạo ra những 
tiền đề, những yếu tố cho xã hội tương lai 
đó. Lôgic phát triển của chủ nghĩa tư bản 
đang tạo ra những yếu tố phủ định nó, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
4 
những yếu tố (tính chất xã hội hóa của lực 
lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với sở 
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản 
xuất, phong trào đấu tranh đòi nhân quyền 
của đa số ngày càng gay gắt chống sự vi 
phạm nhân quyền của thiểu số,) cứ lớn 
dần lên. Tạo ra một xã hội cao hơn xã hội 
tư bản, một xã hội phát huy tối đa sự phát 
triển của lực lượng sản xuất và thực thi 
được nhân quyền trong thực tế một xã hội 
như C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã ghi rõ trong 
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Sự phát 
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho 
sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 
[3, tr.628]. 
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản làm 
sáng tỏ địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh 
lịch sử của giai cấp vô sản - người thủ tiêu 
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã 
hội và chủ nghĩa cộng sản - khẳng định 
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu 
dẫn đến sự thành lập Đảng Cộng sản, cuộc 
đấu tranh ấy sẽ phát triển thành một cuộc 
cách mạng xã hội công khai, rộng lớn, sâu 
sắc, sẽ dẫn đến kết quả là giai cấp vô sản 
dùng bạo lực chính trị đánh đổ giai cấp tư 
sản, giành lấy chính quyền, giành lấy dân 
chủ, tự tổ chức thành nhà nước, và dùng 
quyền lực chính trị của mình để cải tạo tư 
sản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa 
bằng các biện pháp, hình thức hợp lý. 
2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VẤN 
ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI 
Đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng 
chính trị vĩ đại của C.Mác, được kết tinh 
ngời sáng trong Tuyên ngôn của Đảng 
Cộng sản có ý nghĩa hết sức đặc biệt. “88 
năm qua, được soi sáng bởi tư tưởng Tuyên 
ngôn của Đảng Cộng sản, của chủ nghĩa 
Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, 
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân 
dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó 
khăn, thử thách, huy động được mọi nguồn 
lực của đất nước, kết hợp sức mạnh của dân 
tộc với sức mạnh thời đại để giành những 
thắng lợi vẻ vang và đang vững bước đi lên 
chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh 
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản 
Việt Nam luôn xác định chủ nghĩa Mác-Lê 
nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư 
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của 
mình. Mục đích cao cả của Đảng Cộng sản 
Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tư tưởng 
cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn: “đó là 
giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách áp bức, 
bóc lột, thực hiện dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng không 
có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ 
quốc, phục vụ nhân dân” [10, tr.3]. 
Những tư tưởng chính trị của C.Mác, 
đặc biệt là những quan điểm cơ bản về con 
người của C.Mác đã được Đảng ta quán 
triệt, vận dụng sáng tạo trong suốt quá trình 
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta. 
Trong tiến trình cách mạng ấy, Đảng Cộng 
sản Việt Nam đã luôn chú ý phát huy nhân 
tố con người trong điều kiện so sánh lực 
lượng không tương xứng giữa ta và địch về 
điều kiện vật chất, văn hóa, vũ khí, để 
tạo ra sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi 
trong chiến tranh giải phóng dân tộc, chống 
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đại hội VI 
của Đảng (năm 1986) là mốc quan trọng 
đánh dấu công cuộc đổi mới của đất nước. 
Đảng đã có những nhận thức mới, sâu sắc 
hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, 
trong đó đã chú trọng thực hiện các chính 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Xuân Tế 
5 
sách kinh tế, xã hội hướng vào mục tiêu 
phát triển con người, 
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua 
tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần 
thứ VII, khẳng định: “Phát huy nhân tố con 
người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình 
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; 
kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ 
xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống 
tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước 
mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá 
nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” [4, 
tr.13]. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt 
Nam lần thứ VIII, vấn đề phát triển nguồn 
nhân lực được Đảng ta chú trọng. Muốn 
phát triển đất nước bền vững, yếu tố cực kỳ 
quan trọng là phải chăm lo phát triển con 
người. Đảng đã xác định: “Nâng cao dân 
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn 
của con người Việt Nam là nhân tố quyết 
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa” [5, tr.114-115]. Thực 
hiện đường lối Đại hội lần thứ VIII, Đảng 
ta đã có nhiều nghị quyết liên quan trực 
tiếp đến việc chăm lo, bồi dưỡng và phát 
huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung 
ương 2 (khóa VIII) tháng 12-1996 nêu rõ: 
“Phát triển nguồn nhân lực phải là trách 
nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, 
được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong 
đó giáo dục và đào tạo là then chốt, là quốc 
sách hàng đầu. Chú trọng phát triển nguồn 
lực con người một cách toàn diện về cả trí 
tuệ, sức khỏe, đạo đức,” [6, tr.85]. Đại 
hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) nhấn 
mạnh: Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ 
bản, toàn diện về phát triển giáo dục và 
đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp 
lý vì nguồn nhân lực là nhân tố then chốt 
quyết định sự phát triển của đất nước thời 
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội 
lần thứ X của Đảng (năm 2006), ở nhiệm 
vụ phát triển nguồn nhân lực, đã chỉ ra 
nhiệm vụ căn bản phải tập trung đổi mới 
toàn diện giáo dục - đào tạo, chấn hưng 
giáo dục để phát triển nguồn nhân lực chất 
lượng cao. Đại hội lần thứ XI của Đảng 
(năm 2011) đã xác định ba khâu đột phá 
chiến lược, trong đó có vấn đề đào tạo và 
phát triển nguồn nhân lực thời kỳ đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Đảng cũng đã nêu rõ 4 định hướng chiến 
lược về phát triển nhân lực thời kỳ hội nhập 
quốc tế. Trong đó, vấn đề mấu chốt là đổi 
mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ 
trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, 
trong nguồn lực của sự phát triển tính cả 
đến nguồn lực người Việt Nam ở nước 
ngoài. Quan điểm về phát triển toàn diện 
con người Việt Nam nêu trên được Đảng 
đặc biệt nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội 
lần thứ XII của Đảng (năm 2016): “Xây 
dựng con người Việt Nam phát triển toàn 
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến 
lược phát triển” [7, tr.126]. 
Con người trở thành “nguồn tài nguyên 
quý nhất, tiềm năng to lớn, vô tận nhất, yếu 
tố chủ yếu quyết định nhất đối với sự phát 
triển nhanh và bền vững ở nước ta hiện 
nay” [8, tr.2-5]. 
3. MẤY LỜI KẾT LUẬN 
Đối với Các Mác, con người không 
phải là con người trừu tượng, phi lịch sử 
mà là con người hiện thực, con người thực 
tiễn. Vì thế, muốn giải phóng con người 
khỏi áp bức, bóc lột, vươn tới tự do, bảo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
6 
đảm các quyền của mình thì phải tìm 
đường giải phóng trong đời sống hiện thực, 
trong quy luật tất yếu của xã hội chứ không 
phải tìm nó trong niềm tin tôn giáo hay 
trong đạo đức trừu tượng. 
Muốn giải quyết vấn đề con người thì 
phải giải quyết vấn đề giai cấp, Mác đã tìm 
ra một khâu trong việc giải phóng con 
người là phải có quyền lực chính trị. Mọi 
vấn đề tự do, bình đẳng đều phải thông qua 
quyền lực chính trị mới có thể giải quyết được. 
Rõ ràng chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa 
nhân đạo hiện thực chứ không phải chủ 
nghĩa nhân đạo trừu tượng của các nhà duy 
tâm, không tưởng, lý luận chính trị của 
Mác hoàn toàn duy vật khoa học và khả thi. 
Nó hoàn toàn không dựa vào một lực lượng 
tinh thần nào, một “lý tưởng vĩnh cửu” nào 
tồn tại bên ngoài xã hội, mà là phát hiện ra 
một lực lượng xã hội có khả năng thực hiện 
sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ 
nghĩa cộng sản. Nó xác định quá trình 
chuyển biến phải bằng con đường đấu tranh 
cách mạng của giai cấp vô sản và đông đảo 
quần chúng nhân dân lao động bị áp bức và 
bóc lột theo những cương lĩnh hành động 
phù hợp với quy luật phát triển khách quan 
của lịch sử. 
Thấm nhuần học thuyết chính trị của 
Các Mác vĩ đại, Tư tưởng Hồ Chí Minh, 
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản 
Việt Nam, chúng ta sẽ không ngừng hoàn 
thiện xã hội công dân và phát triển toàn vẹn 
quyền con người. Đó cũng chính là “động 
lực chiến lược đổi mới chính trị Việt Nam 
hiện nay” [9, tr.65]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[2] C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[3] C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VIII, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung 
ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn 
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 
[8] Đinh Ngọc Giang, Vũ Khánh Hoàn (05/2016), Từ quan điểm của C.Mác và vấn đề con 
người, Tạp chí Xây dựng Đảng. 
[9] Nhị Lê (2016), Không ngừng đổi mới chính trị, vì sự phát triển toàn diện, đồng bộ và 
tiếp tục thành công của sự nghiệp đổi mới, Tạp chí Cộng sản số 884. 
[10] Võ Văn Thưởng (2018), Sức sống bền vững của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Báo 
Nhân dân số 22786. 
Ngày nhận bài: 10-4-2018. Ngày biên tập xong: 16-4-2018. Duyệt đăng: 19-5-2018. 

File đính kèm:

  • pdfsang_ngoi_tu_tuong_chinh_tri_nhan_ai_cua_hoc_thuyet_cac_mac.pdf