Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực
Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường gặp
và đa dạng, trong thực hành lâm sàng hiện nay còn chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 34 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ 9/2017 tới 8/2018
với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn
cảm xúc lưỡng cực. Kết quả thu được: tỷ lệ rối loạn khả năng tư duy trừu tượng (79,4%), sự lưu loát lời nói và chậm
chạp tâm thần vận động (70,6%), khả năng lên kế hoạch (52,9%) và giải quyết vấn đề (47,1%). Suy giảm chức
năng điều hành gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ, thời gian bị bệnh
từ dưới 36 tháng. Các triệu chứng rối loạn chức năng điều hành đa dạng, phong phú và thường gặp với tỷ lệ cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 88 TCNCYH 119 (3) - 2019 RỐI LOẠN CHỨC NĂNG ĐIỀU HÀNH TRONG GIAI ĐOẠN TRẦM CẢM Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC LƯỠNG CỰC Nguyễn Viết Chung, Nguyễn Văn Tuấn Trường Đại học Y Hà Nội Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường gặp và đa dạng, trong thực hành lâm sàng hiện nay còn chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 34 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ 9/2017 tới 8/2018 với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Kết quả thu được: tỷ lệ rối loạn khả năng tư duy trừu tượng (79,4%), sự lưu loát lời nói và chậm chạp tâm thần vận động (70,6%), khả năng lên kế hoạch (52,9%) và giải quyết vấn đề (47,1%). Suy giảm chức năng điều hành gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ, thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng. Các triệu chứng rối loạn chức năng điều hành đa dạng, phong phú và thường gặp với tỷ lệ cao. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: rối loạn chức năng điều hành , rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm lưỡng cực Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai đoạn trầm cảm là một chẩn đoán thường gặp trong thực hành lâm sàng. Rối loạn đặc trưng bằng quá trình ức chế toàn bộ tâm thần, biểu hiện bằng hội chứng trầm cảm, giai đoạn này kéo dài ít nhất 2 tuần và trước đó phải có ít nhất một giai đoạn mà khí sắc biểu hiện bằng hội chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ. Theo Grande và cộng sự (2016), rối loạn cảm xúc lưỡng cực gặp ở hơn 1% dân số thế giới nói chung, trong đó có 31% tới 52% đáp ứng với các tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm cảm, cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm lưỡng cực cao và là một vấn đề sức khoẻ luôn được quan tâm của ngành y tế nói chung và của ngành tâm thần học nói riêng [1]. Rối loạn trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường khởi phát sớm trong độ tuổi từ 18 đến 22 nên ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập, sự phát triển trong nghề nghiệp, các chức năng gia đình và xã hội,... từ đó mang lại gánh nặng, tổn thất lớn về cả tinh thần và vật chất cho gia đình và xã hội. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng này được cho là do chức năng nhận thức bị suy giảm đặc biệt là các chức năng điều hành như lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, tư duy trừu tượng, [2 - 3]. Các triệu chứng này đều có thể được nhận biết bởi các bác sĩ điều trị, nhằm có biện pháp can thiệp và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị. Trong những năm gần đây có một số lượng lớn các nghiên cứu trên thế giới đều chỉ ra rằng rối loạn nhận thức trong trầm cảm có thể nhận thấy trong các chức năng trí nhớ làm việc và các khía cạnh của chức năng điều hành [4 - 5]. Natalia và cộng sự nhận thấy các bệnh nhân rối loạn các chức năng điều hành càng nặng khi mức độ trầm cảm càng nặng [6]. Bệnh nhân suy giảm trong việc lập các kế hoạch, giải quyết vấn đề đến với mình, sử dụng ngôn ngữ, sắp xếp công việc, từ đó ảnh hưởng rất Tác giả liên hệ: Nguyễn Viết Chung, Trường Đại học Y Hà Nội Email: nvchunghmu@gmail.com Ngày nhận: 08/03/2019 Ngày được chấp nhận: 18/04/2019 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 89TCNCYH 119 (3) - 2019 lớn đến các hoạt động hàng ngày, các chức năng nghề nghiệp, gia đình, xã hội, khả năng thích ứng với môi trường xung quanh,... dẫn đến bệnh nhân càng có nhiều trải nghiệm khó khăn và căng thẳng, áp lực trong cuộc sống, kém tuân thủ điều trị và là nguy cơ cao dẫn đến tái phát của một giai đoạn bệnh tiếp theo [4]. Hiện tại ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về chủ đề này, vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực điều trị nội trú. II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 34 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai đoạn trầm cảm theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10 điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần trong thời gian từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2018. Loại trừ những bệnh nhân có tiền sử sa sút trí tuệ, bệnh nhân có tiền sử chậm phát triển tâm thần, bệnh nhân có tổn thương não được nhân thấy qua thăm khám trên lâm sàng, bệnh nhân hoặc người nhà không đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 2. Phương pháp Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Bệnh nhân nhập viện tại Viện Sức khỏe Tâm thần được bác sĩ bệnh phòng chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm sẽ được nghiên cứu viên đánh giá lại chẩn đoán bệnh theo tiêu chuẩn ICD - 10. Các bệnh nhân có chẩn đoán không phù hợp hoặc nghi ngờ chẩn đoán sẽ bị loại. Các đối tượng còn lại sẽ được đưa vào nghiên cứu khi họ được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu, đồng thời có sự chấp thuận của bệnh nhân và gia đình. Bệnh nhân được đánh giá về các yếu tố nhân khẩu - xã hội học, đánh giá các chức năng điều hành trên lâm sàng ở thời điểm vào viện. Số liệu được phân tích, xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Với các thuật toán tỷ lệ, giá trị trung bình. 3. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phục vụ khoa học, nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh; Loại hình nghiên cứu mô tả nên không ảnh hưởng hay can thiệp gì đến quá trình điều trị khách quan của bênh nhân; Nghiên cứu được hội đồng đề cương luận văn thạc sĩ Trường Đại học Y Hà Nội thông qua. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) Giới Nam 8 23,5 Nữ 26 76,5 Tuổi Tuổi trung bình 42,85 ± 15,70 Nơi sống Thành thị 20 58,8 Nông thôn 14 41,2 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 90 TCNCYH 119 (3) - 2019 Đặc điểm Số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) Trình độ học vấn THCS 9 26,5 THPT 7 20,6 Cao đẳng / đại học 18 52,9 Tình trạng hôn nhân Chưa kết hôn 7 20,6 Đang kết hôn 24 70,6 Ly dị/goá 3 8,8 Hoàn cảnh sống Sống một mình 1 2,9 Sống với gia đình 33 97,1 Chẩn đoán bệnh F31.3 12 35,3 F31.4 10 29,4 F31.5 12 35,3 Số bệnh nhân nam chiếm 23,5%. Tổng số bệnh nhân nữ cao hơn gấp 3,26 lần so với tổng số bệnh nhân nam. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 42,85 ± 15,7. Số bệnh nhân sống ở thành thị chiếm tỷ lệ cao nhất (58,8%). Hơn một nửa số bệnh nhân có trình độ học vấn là học cao đẳng/đại học (52,9%). Số bệnh nhân đang kết hôn chiếm tỉ lệ cao nhất 70,6%; 1 trường hợp ly dị và 2 trường hợp góa. Hầu hết bệnh nhân sống với gia đình (97,1%). Tỷ lệ bệnh mức độ nặng chiếm 64,7%. 2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành Biểu đồ 1. Tỷ lệ rối loạn chức năng điều hành TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 91TCNCYH 119 (3) - 2019 Sự suy giảm khả năng tư duy trừu tượng chiếm tỷ lệ cao nhất 79,4% Sự suy giảm sự lưu loát, chậm chạp tâm thần vận động, kiến tạo thị giác gần bằng nhau, với tỉ lệ tương đối, lần lượt là 70,6%; 70,63%; 67,6% Sự suy giảm khả năng lên kế hoạch và giải quyết vấn đề chiếm tỉ lệ 52,9% và 47,1%. Sự suy giảm khả năng tính toán chiếm tỉ lệ 41,2% và thấp nhất là khả năng sắp xếp với 20,6% 3. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành trên các nhóm bệnh nhân Bảng 2. Tỷ lệ rối loạn chức năng điều hành trên các nhóm bệnh nhân Rối loạn chức năng điều hành Chậm chạp âm thần vận động (%) Tư duy trừu tượng (%) Lưu loát lời nói (%) Tính toán (%) Lên kế hoạch (%) Mức độ trầm cảm Mức độ vừa 66,7 58,3 41,7 66,7 58,3 Mức độ nặng 86,4 77,3 40,9 45,5 63,6 Số giai đoạn trầm cảm trong quá khứ 1 - 2 giai đoạn 76,9 38,5 38,5 46,2 57,7 > 2 giai đoạn 87,5 75 50 75 75 Số đợt tái phát bệnh < 4 đợt 73,9 78,3 43,5 47,8 52,2 ≥ 4 đợt 90,9 54,5 36,4 63,6 81,8 Thời gian bị bệnh ≤ 36 tháng 80 80 50 60 65 > 36 tháng 78,6 57,1 28,6 42,9 57,1 Trên nhóm bệnh nhân trầm cảm nặng có tỷ lệ rối loạn cao hơn: sự chậm chạp tâm thần vận động (86,4%), tư duy trừu tượng (77,3%), lên kế hoạch (63,6%) Trên nhóm bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ có tỷ lệ rối loạn các chức năng nhận thức cao hơn nhóm có 1 - 2 giai đoạn Nhóm bệnh nhân có từ trên 4 đợt tái phát bệnh có tỷ lệ rối loạn các chức năng nhận thức cao hơn: sự chậm chạp tâm thần vận động (90,9%), Tính toán (63,6%), lên kế hoạch (81,8%). Nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng có tỷ lệ rối loạn cao hơn ở tất cả các khía cạnh của chức năng điều hành. IV. BÀN LUẬN 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ gấp khoảng 3,26 lần so với nam. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu tổng quan của Arianna Diflorio và Ian Jones năm 2010, nữ giới có tỷ lệ cao hơn bị mắc RLCXLC II [7]. Độ tuổi trung bình của nhóm là 42,85 ± 15,7, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Thị Thu Hà là 42,34 tuổi [8]. Mặt khác đây là độ tuổi trưởng thành với kết quả tỷ lệ đang kết hôn chiếm tỷ lệ cao nhất 70,6% và hầu hết bệnh nhân sống cùng gia đình 97,1%. Tỷ lệ bệnh nhân có trình độ học vấn Cao đẳng/đại học chiếm tỷ lệ cao nhất 52,9%, đây là nguồn nhân lực cho các vùng thành thị, phù hợp với tỷ lệ bệnh nhân sống ở thành thị chiếm tới 58,8%. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 92 TCNCYH 119 (3) - 2019 Đáng chú ý là bệnh nhân nặng chiếm 64,7% ( 29,4% không có loạn thần, 35,3% có loạn thần). Có thể thấy, nhóm bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm điều trị nội trú thường ở mức độ nặng. 2. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực Suy giảm trong khả năng tư duy trừu tượng thường gặp nhất với tỷ lệ 79,4%, bệnh nhân khó khăn trong việc liên tưởng, hiểu ý nghĩa của các từ, sự giống và khác nhau giữa các khái niệm. Điều này ảnh hưởng tới việc bệnh nhân hiểu các câu chuyện, các giao tiếp hàng ngày và trong công việc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi hỏi các bệnh nhân sự giống nhau giữa các khái niệm: “ quả cam” với “ quả chuối”, “ tàu hoả” với “xe đạp”; Bệnh nhân thường gặp khó khăn để liên tưởng và tìm ra các điểm chung giữa các khái niệm này. Thường người bệnh chỉ có khả năng nói rằng đều có màu vàng thay vì đều là hoa quả hay đều có bánh thay vì đều là phương tiện đi lại. Chậm chạp tâm thần vận động gặp ở 70,6% bệnh nhân, kết quả này cao hơn so với Gallagher và cộng sự (2014) là 34% [5]. Sở dĩ có sự khác biệt này là do nghiên cứu của Gallagher thực hiện trên đối tượng bệnh nhân có mức độ bệnh nhẹ hơn, Hamilton D trung bình 20 điểm và bệnh nhân không có triệu chứng loạn thần trong đợt bệnh này. Sự khác biệt về mức độ nặng bệnh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới mức độ suy giảm nhận thức. Suy giảm trong sự lưu loát lời nói gặp ở 70,6% bệnh nhân, sự suy giảm này khiến bệnh nhân khó khăn trong giao tiếp hàng ngày, khó lựa chọn từ ngữ, khó diễn đạt ý định của mình. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Basso và cộng sự (2002) [9], trong nghiên cứu này ông cũng thấy sự suy giảm về sự lưu loát lời nói ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm so với nhóm chứng khoẻ mạnh. Những rối loạn sự lưu loát về lời nói có nhiều dạng khác nhau, bao gồm sự bảo tồn, sự lặp lại những từ hoặc sự hình thành những từ ngữ không thuộc bảng cho sẵn. Sự suy giảm trong các bài kiểm tra sự lưu loát bằng lời nói nhìn chung là một chỉ điểm chẩn đoán tốt của rối loạn chức năng thùy trán, đặc biệt là bán cầu não trái. Tuy nhiên, một bài kiểm tra sự lưu loát về lời nói có thể cho thấy sự thay đổi hoặc những rối loạn chức năng của vỏ não thái dương trái hoặc vùng não trước trán trái. Herrmann và các đồng nghiệp cho thấy sự suy giảm sự lưu loát bằng lời nói ở những bệnh nhân bị trầm cảm có thể là do giảm oxyhemoglobin xung quanh thùy trán so với người khỏe mạnh. Tương tự như vậy, giảm lưu lượng máu và hoạt động trao đổi chất có thể có mối liên hệ giữa sự thay đổi nhận thức và trầm cảm, đặc biệt là ở người cao tuổi. Những liên kết các công việc khác làm giảm sự lưu loát lời nói đến các hoạt động thần kinh gần tối ưu xung quanh nhân đuôi và phần trán của các nếp cuộn thể trai ở bán cầu trái [10]. Khả năng kiến tạo thị giác bị rối loạn ở 67,6% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi; bệnh nhân biểu hiện qua việc không thể vẽ lại được hình khối lập phương hay vẽ đồng hồ trong test MoCA. Rối loạn các chức năng nhận thức cao cấp khác như: Khả năng tính toán (41,2%), Lập kế hoạch (52,9%), giải quyết vấn đề (47,1%) và sắp xếp công việc (20,6%). Suy giảm ở những khía cạnh này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng làm việc của bệnh nhân về sự chính xác và hiệu quả trong công việc. Khả năng giải quyết vấn đề đang bị cản trở bởi những khó khăn trong việc tạo ra hệ thống các giải pháp có thể, do suy giảm trong việc lên kế hoạch, cũng như việc ra quyết định, kiểm nghiệm một điều gì đó. Điều này được cho là dựa trên nền TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 93TCNCYH 119 (3) - 2019 tảng hoạt động gần tối ưu của vỏ não trước trán bên đã bị suy giảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm [11]. 3. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành ở các nhóm bệnh nhân Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng tỷ lệ rối loạn các chức năng điều hành hầu hết gặp nhiều hơn trong nhóm bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng so với nhóm mức độ vừa. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Natalia và cộng sự (2016) khi đánh giá trên 100 bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm, ông nhận thấy rằng các chức năng điều hành gặp nhiều hơn và nặng nề hơn trên nhóm bệnh nhân có mức độ trầm cảm nặng hơn. Trong nghiên cứu này ông cũng đưa ra kết luận rằng chính sự rối loạn nhận thức nặng hơn này dẫn đến chức năng chung về gia đình, xã hội và công việc của bệnh nhân bị suy giảm [6]. Tuy nhiên trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng tỷ lệ rối loạn khả năng tính toán lại gặp cao hơn trên nhóm bệnh nhân trầm cảm mức độ vừa so với nhóm trầm cảm mức độ nặng. Sự khác biệt này có thể gợi ý một cơ chế rối loạn khả năng tính toán độc lập với mức độ trầm cảm và các chức năng điều hành khác. Chúng ta cần thêm những nghiên cứu để tìm hiểu thêm về khía cạnh này. Khả năng tính toán được đánh giá qua test 100 - 7, có thể khả năng tính toán này là khả năng đã được bệnh nhân rèn luyện qua nhiều năm học tập và làm việc và trở nên bền vững, nên nó khác biệt so với các chức năng điều hành khác và ít bị dao động hơn trong giai đoạn trầm cảm hiện tại của bệnh nhân. Trong khi đó, rối loạn các chức năng điều hành gặp tỷ lệ cao hơn trong nhóm bệnh nhân có nhiều hơn các giai đoạn trầm cảm trong quá khứ, có nhiều đợt tái phát bệnh hơn và có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng. Lý do các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng có tỷ lệ rối loạn các chức năng điều hành nhiều hơn là do nhóm bệnh nhân này trong nghiên cứu của chúng tôi gặp nhiều hơn các bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng và có nhiều đợt tái phát bệnh hơn so với nhóm có thời gian bị bệnh trên 36 tháng. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đặc điểm rối loạn chức năng điều hành của 34 bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm điều trị nội trú; Rối loạn các chức năng điều hành thường gặp, đa dạng; Chức năng điều hành bị suy giảm nhiều hơn ở các bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ. Tạo nên vòng xoắn bệnh lý giữa sự suy giảm chức năng điều hành và sự tái phát các giai đoạn trầm cảm. Lời cảm ơn Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội, Viện Sức khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai đã cho phép và giúp đỡ chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu. Chúng tôi xin cam đoan nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố tại Việt Nam. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan, đã được sự xác nhận và chấp nhận của cơ sở nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Grande I, Berk M, Birmaher B et al (2016). Bipolar disorder. The Lancet, 387(10027), 1561 – 1572. 2. Hilty D.M, Leamon M.H, Lim R.F et al (2006). A Review of Bipolar Disorder in Adults. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 94 TCNCYH 119 (3) - 2019 Psychiatry (Edgmont), 3(9), 43 – 55. 3. Merikangas KR, Jin R, He J et al (2011). Prevalence and correlates of bipolar spectrum disorder in the world mental health survey initiative. Archives of General Psychiatry, 68(3), 241 – 251. 4. Julita Ś và Alina B (2014). Cognitive functioning in a depressive period of bipolar disorder. Archives of Psychiatry and Psychotherapy, 16(4), 27 – 37. 5. Gallagher P, Gray J.M, Watson S et al (2014). Neurocognitive functioning in bipolar depression: a component structure analysis. Psychological Medicine, 44(5), 961 – 974. 6. Natalia S.K, Joana C.N, Pedro V.M et al (2016). Cognition and functioning in bipolar depression. Revista Brasileira de Psiquiatria, 38(3), 201 – 206. 7. Diflorio A và Jones I (2010). Is sex important? Gender differences in bipolar disorder. International Review of Psychiatry, 22(5), 437 – 452. 8. Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Kim Việt, Trần Hữu Bình và cộng sự (2018). Nhận xét một số đặc điểm thực trạng điều trị trầm cảm ở người bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Y Học Việt Nam, 463(1), 165 – 169. 9. Michael R. Basso et al (2002). Neuropsychological Impairment among manic, depressed, and mixed-episode inpatients with bipolar disorder. Neuropsychology, 16, 84 – 91. 10. Okada G, Okamoto Y, Morinobu S et al (2003). Attenuated Left Prefrontal Activation during a Verbal Fluency Task in Patients with Depression. Neuropsychobiology, 47(1), 21 – 26. 11. David B D., Russell A.B, Juliana E.P et al (2005). Dissociable Controlled Retrieval and Generalized Selection Mechanisms in Ventrolateral Prefrontal Cortex. Neuron, 47(6), 907 – 918. Summary EXECUTIVE DYSFUNCTION IN A DEPRESSIVE PERIOD OF BIPOLAR DISORDER Executive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder is common and expressed as a variety of symproms. However, it has yet to receive much attention in research circles nor is it commonly assessed in clinical practice. A cross-sectional study was performed by recruiting 34 in-patients at National Institute of Mental Health during 9/2017 – 8/2018 to describe clinical features of executive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder. We obtained the following results: The rate of executive dysfunction: Abstraction (79.4%), verbal fluency and psychomotor retardation (70.6%), planning (52.9%), problem solve (47.1%). Executive dysfunction is more common in the group of patients who have had more than 2 depressive episodes in the past or the duration of disease is lower than 36 months. This study confirmed that clinical features of cognitive dysfunction among bipolar depressive patients were diverse and common. Key words: executive dysfunction, bipolar disorder, bipolar depressive
File đính kèm:
- roi_loan_chuc_nang_dieu_hanh_trong_giai_doan_tram_cam_o_benh.pdf