Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam

Doanh nghiệp xã hội (DNXH) là một mô

hình kinh doanh tuy đem lại nhiều lợi ích đóng

góp cho cộng đồng và xã hội nhưng còn khá

mới ở Việt nam, lần đầu tiên được quy định cụ

thể trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật

số 68/2014/QH13).

Theo báo cáo của Trung tâm hỗ trợ sáng

kiến vì cộng đồng (CSIP) số lượng doanh

nghiệp và doanh nhân xã hội do Trung tâm

hỗ trợ đã giúp tạo việc làm cho hơn 100.000

người và cải thiện sinh kế của hơn 600.000

người yếu thế như phụ nữ, trẻ em, đồng bào

dân tộc thiểu số, người khuyết tật, lao động

thu nhập thấp ở các lĩnh vực thiết yếu như

nông nghiệp, giáo dục, môi trường, sức khoẻ

và công nghệ [1]. Hệ thống văn bản pháp luật

hiện nay đề cập về doanh nghiệp xã hội gồm

Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị định 96/2015/

QUẢN LÝ - KINH TẾ

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ

HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Nguyễn Thị Ngọc Anh

Đại học Mỏ - Địa Chất

Email: ngocanh.nt159@gmail.com

TS Nguyễn Thị Hồng Loan

Đại học Mỏ - Địa Chất

Email: loanhumg@gmail.com

Tóm tắt: Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh còn khá mới tại Việt Nam

nhưng đóng góp của những doanh nghiệp này cho xã hội là rất to lớn hướng tới lợi ích

của cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp

xã hội còn chưa tạo được điều kiện cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Bài viết phân tích

về quyền và nghĩa vụ của DNXH, qua đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị để DNXH có thể

phát triển tốt hơn tại Việt Nam

Từ khoá: doanh nghiệp xã hội, quyền và nghĩa vụ, Pháp luật Việt Nam

NĐ – CP hướng dẫn thi hành với DNXH, với

hệ thống văn bản như vậy việc thúc đẩy, tạo

điều kiện cho DNXH phát triển gặp rất nhiều

khó khăn. Trong khuôn khổ bài báo, tác giả

đề cập tới quyền và nghĩa vụ của DNXH theo

luật, thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ

của DNXH tại Việt Nam trong tiếp cận nguồn

vốn, đăng ký Từ đó đưa ra những giải pháp

giúp DNXH thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình.

pdf 6 trang kimcuc 7500
Bạn đang xem tài liệu "Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam

Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam
50 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Doanh nghiệp xã hội (DNXH) là một mô 
hình kinh doanh tuy đem lại nhiều lợi ích đóng 
góp cho cộng đồng và xã hội nhưng còn khá 
mới ở Việt nam, lần đầu tiên được quy định cụ 
thể trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật 
số 68/2014/QH13).
Theo báo cáo của Trung tâm hỗ trợ sáng 
kiến vì cộng đồng (CSIP) số lượng doanh 
nghiệp và doanh nhân xã hội do Trung tâm 
hỗ trợ đã giúp tạo việc làm cho hơn 100.000 
người và cải thiện sinh kế của hơn 600.000 
người yếu thế như phụ nữ, trẻ em, đồng bào 
dân tộc thiểu số, người khuyết tật, lao động 
thu nhập thấp ở các lĩnh vực thiết yếu như 
nông nghiệp, giáo dục, môi trường, sức khoẻ 
và công nghệ [1]. Hệ thống văn bản pháp luật 
hiện nay đề cập về doanh nghiệp xã hội gồm 
Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị định 96/2015/
QUẢN LÝ - KINH TẾ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ 
HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Đại học Mỏ - Địa Chất
Email: ngocanh.nt159@gmail.com
TS Nguyễn Thị Hồng Loan
Đại học Mỏ - Địa Chất
Email: loanhumg@gmail.com
Tóm tắt: Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh còn khá mới tại Việt Nam 
nhưng đóng góp của những doanh nghiệp này cho xã hội là rất to lớn hướng tới lợi ích 
của cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp 
xã hội còn chưa tạo được điều kiện cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Bài viết phân tích 
về quyền và nghĩa vụ của DNXH, qua đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị để DNXH có thể 
phát triển tốt hơn tại Việt Nam
Từ khoá: doanh nghiệp xã hội, quyền và nghĩa vụ, Pháp luật Việt Nam
NĐ – CP hướng dẫn thi hành với DNXH, với 
hệ thống văn bản như vậy việc thúc đẩy, tạo 
điều kiện cho DNXH phát triển gặp rất nhiều 
khó khăn. Trong khuôn khổ bài báo, tác giả 
đề cập tới quyền và nghĩa vụ của DNXH theo 
luật, thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ 
của DNXH tại Việt Nam trong tiếp cận nguồn 
vốn, đăng ký Từ đó đưa ra những giải pháp 
giúp DNXH thực hiện quyền và nghĩa vụ của 
mình.
II. KHÁI QUÁT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ 
CHO DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 
2.1. Khái niệm và đặc điểm của DNXH
Theo điểm a khoản 1 điều 10 Luật Doanh 
nghiệp 2014: DNXH phải đáp ứng các tiêu chí 
sau: (1)Là doanh nghiệp được đăng ký thành 
lập theo quy định của Luật này; (2)Mục tiêu 
hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi 
trường vì lợi ích cộng đồng. (3) Sử dụng ít 
51TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh 
nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu 
xã hội, môi trường như đã đăng ký. Vậy theo 
những tiêu chí trên thì DNXH trước hết phải 
là doanh nghiệp có những đặc điểm, quyền 
và nghĩa vụ như các loại hình doanh nghiệp 
được quy đinh tại điều 7 và điều 8 của Luật 
Doanh Nghiệp năm 2014 nhưng có thêm một 
số đặc điểm đó là:
- Đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu ngay 
từ khi mới thành lập. Đây chính là một trong 
những yêu cầu cơ bản nhất để phân biệt giữa 
DNXH với các loại hình doanh nghiệp khác. 
Mục tiêu xã hội phải là mục tiêu chính trong 
suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Theo 
khoản 1 điều 5 Nghị định 96/2015/NĐ – CP 
cũng đã khẳng định lại mục tiêu của DNXH là 
phải thông báo những cam kết thực hiện mục 
tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký 
kinh doanh, công khai các mục tiêu xã hội trên 
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh 
nghiệp khi thành lập doanh nghiệp hoặc trong 
quá trình hoạt động.
- Sử dụng hoạt động kinh doanh, cạnh 
tranh bình đẳng như một phương tiện để đạt 
được mục tiêu xã hội. 
- Tái phân bổ phần lớn lợi nhuận từ hoạt 
động kinh doanh trở lại cho tổ chức, cộng đồng 
và mục tiêu xã hội. Điều này được quy định 
rất rõ tại điều 10 Luật Doanh nghiệp 2104: sử 
dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm để 
tái đầu tư cho mục tiêu xã hội, môi trường.
2.2. Quy định pháp lý về quyền và nghĩa 
vụ của DNXH
DNXH cũng được lựa chọn các loại hình 
doanh nghiệp như Công ty cổ phần, công ty 
TNHH, DNTN, công ty hợp danh, được thành 
lập theo quy định tại Luật Doanh Nghiệp 2014. 
Vì vậy, DNXH cũng có đầy đủ các loại quyền 
và nghĩa vụ theo điều 7 và điều 8. Ngoài ra 
vì những đặc điểm khác biệt nên DNXH còn 
có thêm những quyền và nghĩa vụ khác được 
quy định tại khoản 2 điều 10 Luật Doanh 
nghiệp 2014.
a. Quy định về nghĩa vụ của DNXH
 Một là, duy trì mục tiêu hoạt động nhằm 
giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích 
cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi 
nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu 
tư nhằm thực hiện mục tiêu như đã đăng ký 
trong suốt quá trình hoạt động, trường hợp 
doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển 
thành DNXH hoặc DNXH muốn từ bỏ mục 
tiêu xã hội môi trường, không muốn sử dụng 
lợi nhuận để tái đầu tư thì phải thông báo với 
cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ 
tục theo quy định của pháp luật. Theo quy 
định tại điều 5 Nghị định 96/2015/NĐ – CP, 
DNXH phải thông báo cam kết thực hiện mục 
tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng kí 
kinh doanh để công khai trên Cổng thông tin 
Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi thành 
lập hoặc trong quá trình hoạt động. Trong quá 
trình hoạt động, nếu DNXH muốn thay đổi 
hoặc chấm dứt nội dung Cam kết thực hiện 
mục tiêu xã hội, môi trường thì DN phải thông 
báo với Phòng đăng ký kinh doanh về nội 
dung thay đổi hoặc chấm dứt Cam kết trong 
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết 
định thay đổi hoặc chấm dứt để công khai trên 
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh 
nghiệp. Phòng đăng ký kinh doanh thực hiện 
cập nhật thông tin vào hồ sơ doanh nghiệp 
và công khai trên Cổng thông tin quốc gia về 
đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 03 ngày 
kể từ ngày nhận được thông báo.
Hai là, không được sử dụng các khoản tài 
trợ huy động được cho mục đích khác ngoài 
bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để 
giải quyết các vấn đề môi trường, xã hội mà 
doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp DNXH 
vi phạm nghĩa vụ này thì sẽ bị xử phạt hành 
chính theo Nghị định số 50/2016/NĐ – CP 
ngày 01/06/2016 của Chính phủ quy định về 
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế 
52 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
hoạch và đầu tư.
Ba là, trường hợp nhận các ưu đãi, DNXH 
phải định kỳ hàng năm báo cáo cơ quan có 
thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh 
nghiệp. Các báo cáo đánh giá tác động xã hội 
đối với các hoạt động của doanh nghiệp định 
kỳ phải được gửi tới Sở Kế hoạch và Đầu tư 
hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc 
UBND cấp tỉnh nơi DNXH đặt trụ sở chính 
trong thời hạn chậm nhất là 90 ngày kể từ 
ngày kết thúc năm tài chính. 
b. Quy định về quyền của DNXH
Một là, chủ sở hữu doanh nghiệp, người 
quản lý DNXH được xem xét, tạo điều kiện 
thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, 
chứng chỉ và các giấy chứng nhận có liên 
quan theo quy định của pháp luật. Điều này 
được khẳng định lại trong điều 2 NĐ 96 về 
những chính sách phát triển đối với DNXH. 
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho 
các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có mục 
tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã 
hội, môi trường vì lợi ích công đồng. DNXH 
được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo 
quy định của pháp luật.
Hai là, được huy động và nhận tài trợ 
dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, 
doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các 
tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để 
bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động 
của doanh nghiệp. DNXH được tiệp nhận tài 
trợ bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật 
từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước 
và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động 
tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết 
vấn đề xã hội, môi trường. Việc tiếp nhận các 
khoản tài trợ phải được lập thành văn bản và 
thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc 
cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Uỷ ban 
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương nơi DN đặt trụ sở chính về việc tiếp 
nhận tài trợ.
2.3. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa 
vụ của DNXH tại Việt Nam
Theo báo cáo Thống kê của Viện nghiên 
cứu kinh tế Trung ương CIEM, CSIP & BC 
năm 2012, tính đến năm 2012, Việt Nam có 
khoảng 300 DNXH và hơn 165.000 tổ chức, 
đơn vị hoạt động dưới hình thức từ thiện phi 
lợi nhuận. Đa số các DNXH tập trung tại Hà 
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 70% 
DNXH đã và đang hỗ trợ vào việc xoá đói giảm 
nghèo, ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập, 
đào tạo nghề và tạo cơ hội công ăn việc làm. 
Có khoảng 48% DNXH theo đuổi mục tiêu vì 
môi trường như cung cấp các dịch vụ thân 
thiện với môi trường, nâng cao nhận thức 
của cộng đồng xã hội về vấn đề môi trường 
Những đóng góp to lớn cho xã hội như vậy 
nhưng số lượng DNXH còn quá nhỏ bé về 
quy mô, mỏng về nguồn lực, các DNXH luôn 
gặp khó khăn do những quy định chồng chéo, 
chưa rõ ràng trong các văn bản pháp luật.
2.3.1. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của 
DNXH
Thứ nhất, DNXH được tiếp nhận các 
khoản tài trợ từ các tổ chức và cá nhân trong 
và ngoài nước để tiến hành các hoạt động 
xã hội. Theo Nghị định số 93/2009/NĐ – CP 
ngày 22/10/2009 của Chính phủ Ban hành 
Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính 
phủ nước ngoài và Thông tư số 07/2010/TT 
– BKH ngày 30/03/2010 của Bộ Kế hoạch và 
Đầu tư hướng dẫn thi hành nghị định số 93 
thì đối với mỗi khoản tài trợ phi Chính phủ, 
DNXH phải thành lập một ban quản lý dự án 
để quản lý nguồn tài trợ. Yêu cầu đối với ban 
quản lý dự án thường gồm các bộ phận như 
bộ phận hành chính, tổ chức hỗ trợ, bộ phận 
chức năng như kế hoạch, đấu thầu, và bộ 
phận kỹ thuật, chuyên môn. Các quy định về 
tổ chức thực hiện của ban quản lý dự án rất 
cụ thể và chi tiết. Điều này tạo thuận lợi cho 
các nhà quản lý có thể dễ dàng theo dõi cũng 
như minh bạch trong việc tiếp nhận nguồn tài 
53TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
trợ từ tổ chức phi Chính phủ. Nhưng khi áp 
dụng với DNXH sẽ khiến cho bộ máy quản 
lý của doanh nghiệp trở lên cồng kềnh, phức 
tạp đặc biệt là những DN có nhiều nguồn viện 
trợ khác nhau. Thêm vào đó việc tự chủ trong 
quản lý nguồn vốn của chủ DNXH bị giảm đi 
và phụ thuộc vào ý chí của nhà tài trợ.
Thứ hai, các DNXH gặp rất nhiều khó 
khăn, lúng túng trong việc vận hành mô hình 
kết hợp giữa mục tiêu xã hội và hoạt động 
kinh doanh trong môi trường pháp lý chưa 
hoàn thiện, đặc biệt là những vấn đề liên quan 
nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Do đặc 
thù của DNXH là kết hợp giữa các hoạt động 
xã hội và kinh doanh tạo nguồn thu nên có 
rất nhiều khoản chi phí doanh nghiệp không 
được coi là khoản chi phí hợp lý được khấu 
trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. 
Với mục tiêu giải quyết các vấn đề về nhu 
cầu an sinh xã hội trong cộng đồng, DNXH 
đáng lẽ phải được hưởng các ưu đãi đặc biệt 
về thuế để tạo điều kiện phát triển. Tuy nhiên, 
Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp 2008 đã 
đưa ra nhiều chính sách giảm thuế đối với cơ 
sở thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực 
như: giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn 
hoá, thể thao và môi trường. Điều 19, 20 của 
Thông tư số 78/2014/TT – BTC ban hành 
ngày 18/6/2014 có nêu rõ các doanh nghiệp 
hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục 
– đào tạo, dạy nghề, môi trường được hưởng 
thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt 
động. Miễn thuế đối với phần thu nhập không 
chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh 
vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội 
hoá khác để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó 
theo quy định của luật chuyên ngành; phần 
thu nhập hình thành tài sản không chia của 
hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo 
quy định của Luật Hợp tác xã. Hiện nay vẫn 
chưa có những quy định về việc xác định thu 
nhập không chia hay tính thuế đối với phần 
thu nhập không chia của DNXH. Điều này 
cũng là một trong những nguyên nhân cản trở 
sự phát triển của DNXH
2.3.2. Thực trạng thực hiện quyền của 
DNXH
Thứ nhất, khó tiếp cận được các nguồn 
hỗ trợ, theo các khảo sát của Viện Nghiên 
cứu và quản lý Kinh Tế Trung Ương (CIEM), 
hầu hết các DNXH tại Việt Nam được thành 
lập từ những ý tưởng mang tính cá nhân, nên 
vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự đóng 
góp của các thành viên với quy mô nhỏ. 
Các DNXH gặp nhiều khó khăn trong việc 
tiếp cận, huy động vốn vay của các ngân hàng 
thương mại vì một số lý do như không có tài 
sản thế chấp đặc biệt với các DNXH mới 
thành lập, quy mô nhỏ, lãi suất cho vay của 
ngân hàng cao hơn so với khả năng sinh lời 
của DNXH, thời gian hoàn vốn kéo dài hơn so 
với các dự án thông thường.
Kết quả điều tra cấu trúc tài sản của CIEM 
cho thấy “Phần lớn nguồn vốn của DNXH là 
vốn tự có (chiếm 20,3%) và vốn tích luỹ từ 
các hoạt động sản xuất kinh doanh (45,5%), 
một phần nhỏ từ các nhà tài trợ (5,3%). Vốn 
vay thương mại chỉ là một phần trong số các 
nguồn vốn khác (vốn vay ngân hàng, vốn vay 
gia đình) với tổng số chiếm 28,8%. Trong khi 
đối với các doanh nghiệp thương mại, vốn 
vay thương mại là nguồn vốn lưu động quan 
trọng thúc đẩy phát triển kinh doanh thì đối 
với DNXH nguồn tài chính này không chiếm tỉ 
trọng chi phối”[2].
Mặc dù đã có những văn bản hướng dẫn, 
tạo điều kiện cho các DNXH nhưng chưa có 
một quỹ đầu tư xã hội chuyên nghiệp để hỗ 
trợ và đầu tư cho DNXH. Điều này dẫn tới 
việc các DNXH gặp rất nhiều khó khăn trong 
tiếp cận vốn để thực hiện kinh doanh, đạt mục 
tiêu duy trì phát triển DN bền vững và vì mục 
tiêu cộng đồng mà DN đặt ra.
Thứ hai, không có các chính sách hỗ trợ 
về nhân lực. Mặc dù có những chính sách tạo 
54 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
điều kiện thuận lợi về vốn, cơ chế tiếp cận 
vốn, ưu đãi cho các DNXH đạt được các 
mục tiêu xã hội nhưng Nhà nước lại chưa có 
các chính sách cụ thể và hiệu quả để khuyến 
khích sử dụng lao động là người khuyết tật. Ví 
dụ các DNXH trong lĩnh vực đào tạo nghề gặp 
rất nhiều khó khăn trong việc thu hút các học 
viên đầu vào do học viên gặp những trở ngại 
về việc giáo viên dạy là người khuyết tật hoặc 
các học viên khi ra trường gặp nhiều khó khăn 
do bằng cấp, chứng chỉ không được đánh 
giá cao so với các trường đào tạo nghề, các 
doanh nghiệp đào tạo nghề thông thường. 
Ngoài ra rất nhiều DNXH gặp khó khăn trong 
việc tìm giáo viên dạy trẻ em có hoàn cảnh 
đặc biệt, trẻ tự kỷ hoặc người khuyết tật.
III. KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
DNXH là một mô hình khá mới tại Việt 
Nam nên các DN này phải đối mặt với nhiều 
khó khăn, thách thức để tồn tại và phát triển, 
thực hiện những mục tiêu xã hội môi trường 
như đã cam kết. Những khó khăn đó xuất phát 
từ nhận thức còn hạn chế của các nhà đầu tư 
về mô hình mới này, khuôn khổ pháp lý cho 
DNXH còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống tiêu 
chí, quy chuẩn linh hoạt. Vì vậy, tác giả đưa ra 
một số khuyến nghị để góp phần hoàn thiện 
hơn địa vị pháp lý của DNXH 
3.1. Quy định chi tiết về chính sách hỗ trợ 
và ưu đãi phát triển của Nhà nước với DNXH 
Đây được coi là một trong những giải 
pháp quan trọng để khuyến khích, thúc đẩy 
các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp với 
mục tiêu xã hội đồng thời giúp các DNXH hiện 
nay vượt qua được khó khăn trong quá trình 
hoạt động kinh doanh. 
Nghị định số 96/2015/NĐ – CP của Chính 
phủ đã quy định về chính sách phát triển đối 
với DNXH, theo đó Nhà nước tạo điều kiện 
cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có 
mục tiêu, hoạt động nhằm giải quyết các vấn 
đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. 
DNXH được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu 
tư theo quy định, được tiếp nhận viện trợ phi 
chính phủ nước ngoài, tiếp nhận tài trợ của 
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước 
để thực hiện mục tiêu xã hội. Tuy nhiên theo 
quan điểm của tác giả, những quy định đó 
còn mang tính chung chung, chưa đầy đủ, 
các DNXH vẫn còn gặp khó khăn về thủ tục 
khi tiếp nhận viện trợ, hỗ trợ. Các quy định 
này phải được bao quát trong các lĩnh vực 
như thuế, đấu thầu, đầu tư, hải quanVí dụ 
như quy định miễn thuế đối với phần thu nhập 
không chia của DNXH đồng thời bổ sung quy 
định rõ nội dung hướng dẫn việc xác định thu 
nhập không chia của DNXH. Nhà nước có 
thể ban hành các chính sách quy định các cơ 
quan nhà nước, tổ chức thuộc khu vực công 
phải ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ của DNXH 
khi thực hiện mua sắm công hoặc thuê ngoài. 
3.2. Thành lập các cơ quan/bộ phận nhằm 
thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động của DNXH
Hoạt động của các DNXH ở nước ta còn 
gặp rất nhiều khó khăn vì thế bên cạnh việc 
đưa các chính sách ưu đãi thì Nhà nước cần 
thành lập một bộ phận hoặc cơ quan thực hiện 
quản lý nhà nước để thúc đẩy, hỗ trợ DNXH. 
Theo Nghị định số 96/2015/NĐ – CP, DNXH 
thực hiện đăng ký kinh doanh theo đúng trình 
tự, thủ tục và hồ sơ tương ứng với loại hình 
doanh nghiệp quy định tại Luật Doanh nghiệp 
2014 nhưng bên cạnh đó DNXH còn phải 
thông báo cam kết thực hiện các mục tiêu 
xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký kinh 
doanh để công khai trên cổng thông tin quốc 
gia về đăng ký doanh nghiệp. Khi có nhu cầu 
thay đổi về thay đổi hoặc chấm dứt nội dung 
cam kết hay các thủ tục chia, tách, hợp nhất 
hoặc sáp nhập thì DNXH đều phải thông báo 
với cơ quan đăng ký kinh doanh theo đúng thủ 
tục quy định như đối với doanh nghiệp thông 
thường. Tuy nhiên với những đặc thù riêng 
biệt của DNXH thì các cơ quan quản lý thông 
thường chưa phù hợp. Vì vậy cần phải có một 
bộ phận quản lý riêng biệt trong cơ quan đăng 
55TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
ký kinh doanh, theo dõi hoạt động kinh doanh 
của DNXH nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho 
các doanh nghiệp này khi làm thủ tục thành 
lập doanh nghiệp, thay đổi hay chấm dứt các 
mục tiêu xã hội đã cam kết.
Ngoài việc có một cơ quan chuyên trách 
trong việc đăng ký thành lập, quản lý đối với 
DNXH thì cần có những hiệp hội để hỗ trợ cho 
DNXH . Hiệp hội này có vai trò phát triển mạng 
lưới, tạo điều kiện kết nối các DNXH, tổ chức 
trung gia, nhà đầu tư trong và ngoài nước, 
giúp DNXH giao lưu học hỏi và tiếp cận nguồn 
vốn thuận lợi, nguồn nhân lực và cách thức 
quản lý nhằm giúp các DNXH có hành lang 
kinh tế, môi trường hoạt động có tính tổ chức 
tạo điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh 
như những doanh nghiệp thông thường
3.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến ý 
nghĩa của DNXH
Cần nâng cao nhận thức của người dân, 
các nhà đầu tư về những đóng góp to lớn của 
các DNXH hiện nay trong việc phát triển xã 
hội, giải quyết các nhu cầu xã hội cấp bách 
mà đôi khi các doanh nghiệp thông thường 
cố tình bỏ quên do không mang lại lợi nhuận. 
Các phương thức để tuyên truyền phổ biến về 
DNXH có thể kể tới như:
- Các phương tiện truyền thông đại chúng 
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và 
quảng bá về DNXH. Điều đó sẽ dễ dàng thu 
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và 
ngoài nước. 
- Tổ chức các buổi truyền thông, hội thảo 
về DNXH, các mô hình hoạt động của nó 
đang tồn tại và phát triển tại thị trường, tuyên 
dương ghi nhận các doanh nhân xã hội xuất 
sắc nổi bật.Điều đó góp phần nâng cao nhận 
thức của người dân về sự đóng góp của các 
DNXH trong việc bảo vệ môi trường, lợi ích xã 
hội, phát triển xã hội cũng như vận động các 
nhà chính sách thấy được vai trò của DNXH 
trong nền kinh tế.
- Phát triển các chương trình đào tạo về 
DNXH ở các cấp đại học nhằm phổ biến kiến 
thức về DNXH trong sinh viên để họ có những 
kiến thức, hiểu biết khởi nghiệp bằng DNXH 
trong tương lai. 
IV. KẾT LUẬN
DNXH đã tồn tại và phát triển tại Việt Nam, 
được coi là một mô hình kinh doanh mới, sử 
dụng hoạt động kinh doanh để đạt được các 
mục tiêu xã hội. Các DN này hoạt động không 
vì mục đích lợi nhuận mà được coi là những 
tác nhân tích cực trong việc đáp ứng những 
vấn đề xã hội, môi trường nảy sinh trong quá 
trình phát triển của nền kinh tế, hướng tới tạo 
công ăn việc làm của nhóm đối tượng thường 
bị bỏ quên, xa lánh trong xã hội. Mặc dù đóng 
góp của DNXH là rất lớn nhưng hiện nay chưa 
có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để điều 
chỉnh. Do vậy các DNXH vẫn tồn tại dưới hình 
thức các doanh nghiệp thông thường, các tổ 
chức, hiệp hội, trung tâm, hợp tác xã điều 
này làm giảm mất một phần bản chất hướng 
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
xã hội. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị 
định 96/2015/NĐ – CP là hành lang pháp lý 
đầu tiên và cơ bản nhất đề cập tới DNXH. Tuy 
nhiên cần hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng 
như những chính sách của Nhà nước để thúc 
đẩy các DNXH trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. www. 
[2]. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, 
Phạm Kiều Oanh, Trần thị Hồng Gấm – Viện 
Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương, Doanh 
nghiệp xã hội tại Việt Nam - Khái niệm, bối 
cảnh và chính sách, 2012.(trang 65)
[3]. Luật số 68/2014/QH13.
[4]. Nghị định 96/2015/NĐ – CP.
[5]. Thông tư số 78/2014/TT – BTC

File đính kèm:

  • pdfquyen_va_nghia_vu_cua_doanh_nghiep_xa_hoi_theo_phap_luat_vie.pdf