Quyền trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù của viện kiểm sát nhân dân

Trực tiếp kiểm sát là một trong những quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát

nhân dân (VKSND) nhằm phát hiện vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

thi hành án phạt tù. Quyền hạn này đã được quy định trong các Luật Tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân trước đây và được duy trì cho đến hiện nay nhưng đã xuất hiện

những hạn chế, bất cập. Bài viết phân tích lịch sử hình thành và phát triển quy

định của pháp luật Việt Nam về nội dung quyền này, đưa ra những bất cập trong

quy định pháp luật hiện nay và đề xuất hướng hoàn thiện.

pdf 5 trang kimcuc 7380
Bạn đang xem tài liệu "Quyền trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù của viện kiểm sát nhân dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù của viện kiểm sát nhân dân

Quyền trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù của viện kiểm sát nhân dân
33Khoa học Kiểm sát
ĐINH HOÀNG QUANG
Số 05 - 2019
Theo Từ điển Tiếng Việt, trực tiếp là “có quan hệ thẳng với đối tượng tiếp xúc, không qua khâu trung gian”1; 
còn kiểm sát là “kiểm tra và giám sát việc 
chấp hành pháp luật của Nhà nước”2. Như 
vậy, trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù 
có thể hiểu là việc VKSND cử Kiểm sát viên 
hoặc tổ công tác sang các cơ quan, tổ chức, 
đơn vị có trách nhiệm thi hành án phạt tù 
để trực tiếp kiểm tra, giám sát việc tuân theo 
pháp luật của họ3. Việc trực tiếp kiểm sát thi 
1 Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb 
Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà 
Nẵng, 2004, tr. 1055.
2 Hoàng Phê (chủ biên), sđd, tr. 532.
3 Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), 
Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những 
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 
tr 172 - 173.
hành án phạt tù có tác dụng giúp Viện kiểm 
sát nhanh chóng phát hiện được những vi 
phạm pháp luật trong thi hành án phạt tù 
để kịp thời áp dụng các biện pháp khắc 
phục, xử lý vi phạm4. 
Để có cái nhìn tổng quan quy định của 
pháp luật Việt Nam về quyền trực tiếp kiểm 
sát thi hành án phạt tù của VKSND, cần có 
những nghiên cứu về quá trình hình thành 
của quyền này trong lịch sử; qua đó, so 
sánh, đối chiếu với các quy định của hiện tại 
sẽ giúp đưa ra những định hướng cho việc 
hoàn thiện pháp luật trong tương lai. Việc 
4 Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình 
Công tác kiểm sát (Tập VII): Công tác kiểm sát việc 
giam giữ và cải tạo, Nxb CAND, Hà Nội, tr 54 - 55.
QUYỀN TRỰC TIẾP KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
ĐINH HOÀNG QUANG*
* Thạc sĩ, Phó Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Trực tiếp kiểm sát là một trong những quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát 
nhân dân (VKSND) nhằm phát hiện vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong 
thi hành án phạt tù. Quyền hạn này đã được quy định trong các Luật Tổ chức Viện 
kiểm sát nhân dân trước đây và được duy trì cho đến hiện nay nhưng đã xuất hiện 
những hạn chế, bất cập. Bài viết phân tích lịch sử hình thành và phát triển quy 
định của pháp luật Việt Nam về nội dung quyền này, đưa ra những bất cập trong 
quy định pháp luật hiện nay và đề xuất hướng hoàn thiện.
Từ khóa: Trực tiếp kiểm sát, thi hành án phạt tù. 
Ngày nhận bài: 03/01/2019; Biên tập xong: 15/01/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019.
Right to directly supervise is one of legal powers of the People’s Procuracies 
to detect violations belongs to agencies, organizations and individuals who 
execute imprisonment sentences. Prescribed in previous Laws on Organization 
of People’s Procuracies and have been remained up to present; however, this 
right indicates some limitations and inadequacies. The article analyzes 
Vietnamese’s legal regulations on this right in terms of its foundation and 
development history, as well as points out inadequacies of current laws and 
proposes perfection orientations.
Keywords: Directly supervise, execute imprisonment sentences. 
34
QUYỀN TRỰC TIẾP KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ CỦA...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
nghiên cứu khái quát về lịch sử quyền trực 
tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù được giới 
hạn từ năm 1945 đến nay.
1. Lịch sử quy định quyền trực tiếp 
kiểm sát thi hành án phạt tù của VKSND
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 
2003 và năm 2015 có quy định Kiểm sát viên 
được phân công thực hành quyền công tố 
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố 
tụng hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm 
sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa 
án5, tuy nhiên lại không quy định cụ thể về 
trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù. Quy 
định trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù 
(gồm thường kỳ kiểm sát và bất thường 
kiểm sát) chỉ được quy định trong các Luật 
Tổ chức VKSND, các văn bản hướng dẫn 
và được quy định ngay từ giai đoạn trước 
khi có thành lập VKSND. Ngày 12/6/1951, 
Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp ban hành Nghị định 
liên bộ số 152-NV/6 và ban hành quy tắc trại 
giam để cụ thể hóa Sắc lệnh số 150. Theo đó, 
các Công tố ủy viên phải thường kỳ đi kiểm 
tra trại giam mỗi tháng một lần hoặc kiểm 
tra bất thường để phát hiện, xử lý những 
vi phạm của ban giám thị trại giam trong 
việc giam giữ và cải tạo6. Ngày 23/8/1956, Bộ 
Công an, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 
1500-HCTP về việc giam giữ và kiểm tra trại 
tạm giam và trại cải tạo; trong đó quy định 
“Các ông Công tố ủy viên các Tòa án nhân dân 
tỉnh và Tòa án nhân dân khu phải thu xếp để có 
thể đi kiểm tra các trại tạm giam hoặc trại cải 
tạo mỗi tháng một lần. Kết quả của việc kiểm tra 
phải báo cáo lên cấp trên đồng thời gửi một bản 
sao cho Công an cấp tương đương”. Kế thừa 
quy định trên, Luật tổ chức VKSND qua các 
5 Điểm g Khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2003; 
Điểm n khoản 1 Điều 42 BLTTHS năm 2015
6 Chuyên đề nghiệp vụ: Tổng kết 50 năm thành 
lập và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 1960 
– 2010, VKSND tối cao, Hà Nội – năm 2010, tr 17.
thời kỳ đều quy định trực tiếp kiểm sát nơi 
giam giữ và những quy định về quyền năng 
pháp lý này của VKSND ngày càng được 
hoàn thiện hơn.
Trong Luật Tổ chức VKSND năm 1960, 
trực tiếp kiểm sát việc giam giữ còn được 
quy định khá chung chung; trong đó chỉ 
quy định VKSND tối cao và VKSND địa 
phương có quyền kiểm sát việc chấp hành 
các bản án và các quyết định của TAND; có 
quyền xem xét các sổ sách, tài liệu về việc 
giam giữ và trực tiếp hỏi người bị giam giữ 
(Điều 21) nhưng không đề cập đến quyền 
kiểm tra trực tiếp cơ sở giam giữ.
Đến các Luật Tổ chức VKSND năm 
1981, năm 1992, năm 2002, trực tiếp kiểm sát 
thi hành án phạt tù được quy định cụ thể 
hơn; theo đó, khi thực hiện công tác kiểm 
sát thi hành án, kiểm sát việc quản lý và giáo 
dục người chấp hành án phạt tù, VKSND có 
quyền: “Kiểm sát tại chỗ việc tuân theo pháp 
luật của các cơ quan, đơn vị và người hữu quan 
trong việc chấp hành các bản án và quyết định 
của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật”7; 
“Thường kỳ và bất thường kiểm sát tại chỗ các 
nơi giam, giữ và cải tạo”8. Như vậy, Viện kiểm 
sát có quyền trực tiếp kiểm tra nơi giam, 
giữ và cải tạo (nhà tạm giữ, trại tạm giam, 
trại giam). Và khi tiến hành trực tiếp kiểm 
sát, Viện kiểm sát có quyền xem xét các sổ 
sách, tài liệu; cụ thể như: có quyền yêu cầu 
cơ quan chấp hành án và đơn vị hữu quan 
cung cấp những tài liệu, văn bản hoặc xuất 
trình các hồ sơ, sổ sách, giấy tờ có liên quan 
đến việc chấp hành án/thi hành án9; xem xét 
7 Khoản 2 Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 1981; 
Khoản 2 Điều 20 Luật Tổ chức VKSND năm 1992; 
Khoản 2 Điều 24 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
8 Khoản 1 Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 1981; 
Khoản 1 Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 1992; 
Khoản 1 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
9 Khoản 1 Điều 16 Luật Tổ chức VKSND năm 1981; 
35Khoa học Kiểm sát
ĐINH HOÀNG QUANG
Số 05 - 2019
các sổ sách, hồ sơ, tài liệu của cơ quan cùng 
cấp và cấp dưới về việc giam, giữ và cải tạo/
quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt 
tù10. Tuy nhiên, trong Luật Tổ chức VKSND 
năm 1981 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) 
không quy định việc Viện kiểm sát gặp hỏi 
người chấp hành án trong thi hành án phạt 
tù. Quyền gặp, hỏi người chấp hành án phạt 
tù chỉ được tiếp tục quy định ở Luật Tổ chức 
VKSND năm 1992 và năm 200211. 
Một trong những văn bản là căn cứ 
pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát thực 
hiện quyền kiểm sát trực tiếp cơ sở giam giữ 
trong giai đoạn này là Thông tư liên ngành 
số 02/TTLN ngày 06/09/1989 của Bộ Nội vụ, 
VKSND tối cao về công tác giam giữ, cải tạo 
và kiểm sát giam giữ, cải tạo. Thông tư này 
hướng dẫn việc thường kỳ trực tiếp kiểm 
sát tại Nhà tạm giữ của cấp quận, huyện và 
tương đương được tiến hành mỗi tuần một 
lần; Trại tạm giam mỗi tháng 01 lần, Trại cải 
tạo 03 tháng 01 lần và bất thường trực tiếp 
kiểm sát khi xảy ra những vụ việc đột xuất 
ở nơi giam, giữ và cải tạo như: can phạm 
chết; có dịch bệnh phát sinh; chống phá trại 
giam; có những khó khăn trở ngại đặc biệt 
trong việc thực hiện các chế độ tạm giữ, tạm 
giam và cải tạo; can phạm tạm giam, tạm 
giữ mà thời hạn đã hết Ngoài ra, Thông 
tư còn quy định khi Viện kiểm sát tiến hành 
kiểm sát nơi tạm giữ, tạm giam và cải tạo, 
Ban giám thị, cán bộ phụ trách có nhiệm vụ 
báo cáo tình hình và việc chấp hành pháp 
luật, chính sách trong công tác giam, giữ, cải 
tạo, tạo điều kiện để Viện kiểm sát thực hiện 
được những việc: Xem xét hồ sơ, sổ sách, tài 
Khoản 1 Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 1992; 
Khoản 1 Điều 24 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
10 Khoản 2 Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 1981; 
Khoản 2 Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 1992; 
Khoản 2 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
11 Khoản 2 Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 1992; 
Khoản 2 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
liệu về thủ tục, chế độ giam, giữ và cải tạo; 
Xem xét những nơi giam, giữ, cải tạo; nơi ăn, 
ở, chữa bệnh, nơi vui chơi giải trí; nơi học 
tập, lao động cải tạo và dạy nghề; nơi kiên 
giam và buồng kỷ luật...; Tiến hành kiểm 
danh, kiểm diện người đang bị tạm giữ, 
tạm giam và cải tạo; Gặp hỏi người đang bị 
giam, giữ, cải tạo về việc giam, giữ, cải tạo. 
Hiện nay, kiểm sát trực tiếp cơ sở giam 
giữ được quy định trong Luật thi hành án 
hình sự (THAHS) năm 2010 và Luật Tổ chức 
VKSND năm 2014; theo đó, khi kiểm sát thi 
hành án phạt tù, Viện kiểm sát có nhiệm 
vụ, quyền hạn: Định kỳ và đột xuất kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi 
hành án của cơ quan THAHS cùng cấp và 
cấp dưới, cơ quan, tổ chức được giao một số 
nhiệm vụ THAHS; kiểm sát hồ sơ THAHS 
của cơ quan THAHS cùng cấp và cấp dưới, 
cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ 
THAHS. VKSND cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật, kháng nghị, kiến 
nghị, yêu cầu đối với trại giam đóng tại địa 
phương đó trong việc thi hành án phạt tù12. 
Trong đó, Cơ quan THAHS bao gồm: trại 
giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ 
Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu; cơ 
quan THAHS Công an tỉnh, thành phố trực 
thuộc trung ương; cơ quan THAHS Công 
an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc 
tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự quân khu 
và tương đương. Còn cơ quan được giao 
một số nhiệm vụ THAHS bao gồm: trại tạm 
giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc 
Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công 
an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; Ủy 
ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Đơn vị 
quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
Như vậy, phạm vi áp dụng quyền trực 
tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù được mở 
12 Khoản 4 Điều 141 Luật THAHS năm 2010; điểm 
b khoản 2 Điều 25 Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
36
QUYỀN TRỰC TIẾP KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ CỦA...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
rộng hơn so với trước đây. Nếu như trước 
đây, việc trực tiếp kiểm sát chủ yếu thực 
hiện đối với cơ sở giam giữ (kiểm sát việc 
quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm 
nhân) còn theo Luật THAHS năm 2010 và 
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì trực tiếp 
kiểm sát còn được thực hiện đối với các cơ 
quan THAHS trong việc thi hành các quyết 
định trong thi hành án phạt tù (thi hành 
quyết định thi hành án phạt tù, quyết định 
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; 
tha tù trước thời hạn có điều kiện; miễn 
chấp hành án phạt tù); trực tiếp kiểm sát 
đối với cơ quan được giao một số nhiệm vụ 
THAHS trong việc quản lý, giám sát người 
được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt 
tù, người được tha tù trước thời hạn có điều 
kiện13.
Một trong những ưu điểm của Luật 
THAHS năm 2010 và Luật Tổ chức VKSND 
năm 2014 là việc quy định VKSND cấp tỉnh 
trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
đối với trại giam đóng tại địa phương trong 
việc thi hành án phạt tù. Điều này tạo ra 
những điều kiện thuận lợi; bởi lẽ, khi tiến 
hành kiểm sát trực tiếp trại giam đóng trên 
địa bàn tỉnh, VKSND cấp tỉnh có điều kiện 
nắm tình hình thông tin thường xuyên, sát 
hơn, đỡ tốn chi phí đi lại hơn là do VKSND 
tối cao tiến hành kiểm sát. Đồng thời việc 
trực tiếp kiểm sát sẽ bổ sung các thông tin 
phục vụ cho việc VKSND cấp tỉnh kiểm sát 
việc xét giảm án, tạm đình chỉ thi hành án, 
xét đặc xá thuận lợi, chính xác hơn14,15. 
13 Xem: Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm 
giam, THAHS (ban hành kèm theo Quyết định số 
501/QĐ-VKSTC ngày 12/12/2017 của Viện trưởng 
VKSND tối cao)
14 VKSND tối cao (2010), Tổng kết 50 năm thực hiện 
công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý 
và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Hà Nội, 
2010, tr 53.
15 Xem thêm: Bùi Đức Long, Bàn về vị trí, nhiệm vụ, 
Bên cạnh đó, hiện nay Luật THAHS 
năm 2019 được Quốc hội nước Cộng hòa xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp 
thứ 7 thông qua ngày 14/6/2019 (có hiệu 
lực thi hành từ ngày 01/01/2020) thay thế 
Luật THAHS năm 2010. Tuy nhiên, những 
quy định về trực tiếp kiểm sát thi hành án 
phạt tù trong Luật THAHS năm 2019 được 
kế thừa và giữ nguyên so với Luật THAHS 
năm 2010.
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, 
Luật THAHS năm 2010 và 2019; Luật Tổ 
chức VKSND năm 2014 không quy định 
việc VKSND trực tiếp kiểm tra nơi giam giữ; 
gặp, hỏi người chấp hành về việc giam giữ; 
không quy định quyền trực tiếp kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong 
thi hành án phạt tù.
2. Những hạn chế quy định về quyền 
trực tiếp kiểm sát thi hành án phạt tù và đề 
xuất giải pháp hoàn thiện
Luật THAHS năm 2010, Luật THAHS 
năm 2019 và Luật tổ chức VKSND năm 2014 
không quy định việc VKSND trực tiếp kiểm 
tra nơi giam giữ; gặp, hỏi người chấp hành 
về việc giam giữ nhưng nội dung quyền này 
lại được hướng dẫn thực hiện theo Quy chế 
của ngành Kiểm sát nhân dân. Theo Quy chế 
công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, 
THAHS (ban hành kèm theo Quyết định số 501/
QĐ-VKSTC ngày 12/12/2017 của Viện trưởng 
VKSND tối cao) thì khi tiến hành kiểm sát 
việc tạm giữ, tạm giam, THAHS (trong đó 
có kiểm sát thi hành án phạt tù), Kiểm sát 
viên, Kiểm tra viên có thể trực tiếp gặp, hỏi 
người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người 
chấp hành án và người thi hành biện pháp 
tư pháp; trường hợp cần thiết thì có thể lập 
biên bản, lấy lời khai của họ (khoản 1 Điều 
40). Tuy nhiên, việc không quy định nội 
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành 
án hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 23 (tháng 12/2010).
37Khoa học Kiểm sát
ĐINH HOÀNG QUANG
Số 05 - 2019
dung quyền này trong Luật THAHS năm 
2010, Luật THAHS năm 2019, Luật Tổ chức 
VKSND năm 2014 cũng là thiếu căn cứ pháp 
lý để VKSND tiến hành hoạt động trên khi 
trực tiếp kiểm sát.
Bên cạnh đó, việc không quy định 
quyền trực tiếp kiểm sát việc tuân theo 
pháp luật của Tòa án trong thi hành án phạt 
tù cũng tạo nên sự hạn chế khi tiến hành 
kiểm sát thi hành án phạt tù. Do không trực 
tiếp kiểm sát nên để phát hiện vi phạm của 
Tòa án trong thi hành án phạt tù, Viện kiểm 
sát phải thực hiện các phương thức như: 
yêu cầu Tòa án tự kiểm tra việc thi hành án 
phạt tù và thông báo kết quả kiểm tra cho 
Viện kiểm sát; yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài 
liệu có liên quan đến việc thi hành án phạt 
tù16. Các phương thức này chỉ giúp cho Viện 
kiểm sát thu thập được thông tin, nắm tình 
hình về thi hành án phạt tù để làm cơ sở 
áp dụng các biện pháp xử lý các vi phạm 
pháp luật17; khó có thể nhanh chóng phát 
hiện ra vi phạm để để kịp thời áp dụng các 
biện pháp khắc phục, xử lý vi phạm. Do đó, 
chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: 
để tăng cường hiệu quả và chất lượng của 
hoạt động THAHS nói chung và thi hành án 
phạt tù nói riêng của Tòa án, cần tăng cường 
hơn nữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm 
sát đối với hoạt động này, trong đó có việc 
mở rộng phạm vi đối tượng tác động của 
quyền “trực tiếp kiểm sát”18,19.
16 Khoản 2 Điều 141 Luật THAHS năm 2010; Điểm 
a Khoản 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014
17 Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo 
trình Công tác kiểm sát (Tập VII): Công tác kiểm sát 
việc giam giữ và cải tạo, Nxb CAND, Hà Nội, tr. 65.
18 Đinh Hoàng Quang, Một số vấn đề lý luận và 
thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm 
sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, 
Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học 
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội – 2014, tr. 95.
19 VKSND tối cao (2007), Nhiệm vụ, quyền hạn 
Trên cơ sở đánh giá những hạn chế của 
pháp luật Việt Nam về kiểm sát thi hành án 
phạt tù nêu trên, chúng tôi kiến nghị:
- Sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 25 và 
khoản 1, 3 Điều 26 Luật Tổ chức VKSND 
năm 2014 như sau:
“ Điều 25. Nhiệm vụ, quyền hạn...
2. Khi kiểm sát thi hành án hình sự...
b) Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo 
pháp luật Tòa án trong thi hành án hình sự; 
Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm 
sát hồ sơ thi hành án hình sự; trực tiếp kiểm 
tra nơi giam giữ; gặp, hỏi người bị tạm giữ, 
người bị tạm giam, người chấp hành án và 
người thi hành biện pháp tư pháp về việc 
giam giữ...”.
- Sửa đổi khoản 2 Điều 167 Luật THAHS 
năm 2019 như sau:
“Điều 167. Nhiệm vụ, quyền hạn...
2. Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình 
sự của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự 
cùng cấp và cấp dưới, cơ quan được giao một 
số nhiệm vụ thi hành án hình sự; kiểm sát hồ 
sơ thi hành án hình sự của cơ quan thi hành 
án hình sự cùng cấp và cấp dưới, cơ quan được 
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự; trực 
tiếp kiểm tra nơi giam giữ; gặp, hỏi người 
chấp hành án và người thi hành biện pháp 
tư pháp về việc giam giữ. Viện Kiểm sát nhân 
dân cấp tỉnh, Viện Kiểm sát quân sự cấp quân 
khu trực tiếp Kiểm sát việc thi hành án phạt 
tù của trại giam đóng tại địa phương, địa bàn; 
kiểm sát việc thi hành án đối với pháp nhân 
thương mại”./.
của Viện kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, 
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù 
theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Vụ kiểm 
sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người 
chấp hành án phạt tù, Kỷ yếu đề tài khoa học, 
Hà Nội, tr. 183.

File đính kèm:

  • pdfquyen_truc_tiep_kiem_sat_thi_hanh_an_phat_tu_cua_vien_kiem_s.pdf