Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc

Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong lịch sử lập pháp của mọi

quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, việc ban hành Hiến pháp mới năm

2013 và tham gia Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc đã thể hiện rõ là một trong những

nước có trách nhiệm và luôn đề cao quyền con người. Đặc biệt, khi ban hành Bộ luật Hình sự năm

2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Việt Nam đã khẳng

định sự hướng đến tôn trọng và đề cao quyền con người, các quyền cơ bản của công dân vào các

quy định của pháp luật Việt Nam.

pdf 15 trang kimcuc 4380
Bạn đang xem tài liệu "Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc

Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về quyền con người theo công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc
 54 
Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về 
quyền con người theo Công ước chống Tra tấn 
của Liên Hợp Quốc 
Trương Đức Thuận1 
1
 Toà án quân sự Quân khu 1. 
Email: truongducthuan67@gmail.com 
Nhận ngày 15 tháng 1 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 3 năm 2019. 
Tóm tắt: Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong lịch sử lập pháp của mọi 
quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, việc ban hành Hiến pháp mới năm 
2013 và tham gia Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc đã thể hiện rõ là một trong những 
nước có trách nhiệm và luôn đề cao quyền con người. Đặc biệt, khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 
2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Việt Nam đã khẳng 
định sự hướng đến tôn trọng và đề cao quyền con người, các quyền cơ bản của công dân vào các 
quy định của pháp luật Việt Nam. 
Từ khóa: Quyền con người, Bộ luật Hình sự, Công ước chống Tra tấn, pháp luật. 
Phân loại ngành: Luật học 
Abstract: Ensuring human rights is a fundamental objective throughout the legislative history of all 
countries in general and of Vietnam in particular. In Vietnam, the enactment of a new Constitution in 
2013 and the country’s participation in the UN Convention against Torture has made clear that it is one 
of the countries taking responsibility for and always upholding human rights. In particular, when 
promulgating the 2015 Criminal Code, the 2015 Criminal Procedure Code and the 2017 Law on Mutual 
Legal Assistance, Vietnam concretised and affirmed its direction towards the respect for and upholding 
of human rights as well as basic civil rights in the provisions of the Vietnamese law. 
Keywords: Human rights, Criminal Code, Convention against Torture, law. 
Subject classification: Jurisprudence 
1. Đặt vấn đề 
Việt Nam tham gia Công ước chống Tra tấn 
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn 
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người 
ngày 07/11/2013 là sự kiện quan trọng, thể 
hiện quyết tâm chính trị của nước ta trong 
ghi nhận và bảo đảm thực thi nhân quyền 
Trương Đức Thuận 
55 
theo các khuôn khổ pháp lý quốc tế. Việc 
ký kết này càng có ý nghĩa chính trị pháp lý 
quan trọng khi 11 ngày sau đó, ngày 
28/11/2013 bản Hiến pháp mới, mà quyền 
con người được đề cao đã được ban hành. 
Tiếp theo đó là ban hành Bộ luật Hình sự và 
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với xu 
hướng tôn trọng và đề cao quyền con 
người, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng 
hình sự. Bài viết này giới thiệu một số quy 
định mới trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 
đảm bảo quyền con người và việc thực hiện 
nghĩa vụ quốc gia trong việc nội luật hóa 
các quy định của Công ước chống Tra tấn 
của Liên Hợp Quốc. 
2. Một số quy định mới trong Bộ luật Hình 
sự Việt Nam đảm bảo quyền con người 
2.1. Sự cần thiết, mục tiêu 
Bộ luật Hình sự (BLHS) số100/2015/QH13 
được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 
thông qua ngày 27/11/2015, được sửa đổi 
bổ sung ngày 20/6/2017 và có hiệu lực thi 
hành từ ngày 01/01/2018. Việc ban hành 
BLHS năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng 
nhằm thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp 
của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, 
đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ 
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền 
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ 
chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã 
hội; bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng 
mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, 
chống tội phạm và tăng cường hội nhập 
quốc tế. 
Xây dựng BLHS có tính minh bạch, tính 
khả thi và tính dự báo cao hơn nhằm phát 
huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách 
là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong 
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều 
kiện mới; góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ 
các quyền con người, quyền công dân, bảo 
vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển đúng 
hướng, đấu tranh chống tham nhũng có hiệu 
quả, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi 
trường xã hội và môi trường sinh thái an 
toàn, lành mạnh cho mọi người dân; đồng 
thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của 
nước ta. 
2.2. Nội dung 
- Về tội phạm. 
a. Thay đổi quan điểm về chuẩn bị phạm tội 
(Điều 14 BLHS) 
 Khái niệm chuẩn bị phạm tội, không chỉ 
tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tạo 
ra điều kiện để thực hiện tội phạm; mà cả việc 
thành lập, tham gia nhóm tội phạm; 
 Chỉ chuẩn bị phạm những tội được quy 
định ở phần các tội phạm mới phải chịu trách 
nhiệm hình sự (4 nhóm tội là: tội xâm phạm 
an ninh quốc gia; tội xâm phạm tính mạng, 
sức khoẻ; tội xâm phạm sở hữu; tội xâm 
phạm an toàn công cộng); 
 Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ 
phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi 
chuẩn bị phạm tội xâm phạm tính mạng, sức 
khoẻ của người khác và sở hữu; 
 Hình phạt được quyết định trong phạm vi 
khung hình phạt được quy định trong các 
điều luật cụ thể. 
b. Đã bổ sung một chương riêng (chương 
IV) với 07 điều quy định về những trường 
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, 
tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp 
như: sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, 
tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng 
lực trách nhiệm hình sự. Đồng thời, bổ sung 
thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
56 
sự là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người 
phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử 
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật 
và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người 
chỉ huy hoặc của cấp trên (các Điều 24, 25, 
26 BLHS) nhằm tạo hành lanh pháp lý an 
toàn để khuyến khích người dân an tâm, tích 
cực tham gia phòng chống tội phạm; tham gia 
các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học 
có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung. 
c. Đã bổ sung và cụ thể hóa các trường 
hợp được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29 
BLHS). Quy định của BLHS được bổ sung, 
cụ thể hóa các trường hợp miễn trách nhiệm 
hình sự theo hướng sau đây: 
Một là, phân biệt rõ trường hợp đương 
nhiên hoặc có thể được miễn trách nhiệm 
hình sự. Những trường hợp đương nhiên 
được miễn trách nhiệm hình sự là khi chính 
sách, pháp luật thay đổi làm cho hành vi 
không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc khi có 
quyết định đại xá. Những trường hợp có thể 
được miễn trách nhiệm hình sự nếu do 
chuyển biến tình hình mà người phạm tội 
không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc người 
phạm tội mang bệnh hiểm nghèo không còn 
khả năng gây nguy hiểm cho xã hội hoặc tự 
thú, khai rõ sự việc, hạn chế hậu quả và lập 
công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được 
Nhà nước và xã hội thừa nhận (quy định ở 
Khoản 1 và Khoản 2, Điều 29 BLHS). 
Hai là, cụ thể hóa và bổ sung một số 
trường hợp có thể được miễn trách nhiệm 
hình sự. Cụ thể: người thực hiện tội phạm ít 
nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng 
do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức 
khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của 
người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi 
thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và 
được người bị hại hoặc người đại diện của 
người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị 
miễn trách nhiệm hình sự (quy định ở 
Khoản 3, Điều 29 BLHS). 
Về hình phạt, BLHS tiếp tục thể chế hóa 
chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử 
hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng 
hình phạt không tước tự do đối với người 
phạm tội. Cụ thể như sau: 
Một là, hình phạt tiền được mở rộng khả 
năng áp dụng là hình phạt chính không chỉ 
đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (như 
quy định của BLHS năm 1999) mà còn được 
áp dụng ngay cả đối với người phạm các tội 
nghiêm trọng. Riêng đối với nhóm các tội 
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường 
thì hình phạt phạt tiền còn có thể áp dụng 
đối với một số tội rất nghiêm trọng. 
Hai là, sửa đổi hình phạt cải tạo không 
giam giữ theo hướng tăng cường tính cưỡng 
chế, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của 
loại hình phạt này. Theo quy định tại Điều 
36 BLHS, trong trường hợp người bị phạt 
cải tạo không giam giữ không có việc làm 
hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp 
hành hình phạt này thì phải thực hiện một số 
công việc lao động phục vụ cộng đồng trong 
thời gian cải tạo không giam giữ, với thời 
gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 
04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày 
trong một tuần, trừ đối tượng phạm tội là 
người già yếu, phụ nữ có thai. 
Ba là, BLHS khẳng định nguyên tắc 
không áp dụng hình phạt tù đối với người 
lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý 
(Khoản 2, Điều 38 BLHS); tại Phần các tội 
phạm, số lượng các khoản không quy định 
hình phạt tù tăng từ 06 khoản lên 31 khoản 
so với quy định của BLHS năm 1999. 
Bốn là, BLHS tiếp tục thể chế hóa chủ 
trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình 
được khẳng định tại các Nghị quyết của Đảng 
về cải cách tư pháp. Theo đó; Điều 40 của 
BLHS đã khoanh phạm vi áp dụng loại hình 
phạt này chỉ đối với người phạm tội đặc biệt 
nghiêm trọng và thuộc một trong nhóm các 
tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm 
Trương Đức Thuận 
57 
tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, 
tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt 
nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định. 
BLHS đã bổ sung thêm các trường hợp 
không áp dụng hình phạt tử hình và không thi 
hành án tử hình. Theo đó, Tòa án không áp 
dụng hình phạt tử hình đối với người đủ 75 
tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; hình 
phạt tử hình không thi hành đối với người bị 
kết án tử hình nhưng đến thời điểm thi hành 
án người bị kết án đủ 75 tuổi trở lên hoặc 
người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, 
tội nhận hối lộ nhưng đã chủ động nộp lại ít 
nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và 
hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong 
việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc 
lập công lớn thì không thi hành án tử hình đối 
với họ. Quy định này nhằm góp phần hạn chế 
tử hình trên thực tế. 
BLHS bỏ hình phạt tử hình ở 08 tội danh 
gồm: tội cướp tài sản; tội sản xuất, buôn bán 
hàng cấm là lương thực, thực phẩm; tội tàng 
trữ trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất 
ma túy; tội phá hủy công trình, cơ sở, phương 
tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tội chống 
mệnh lệnh; tội đầu hàng địch; tội hoạt động 
phỉ (do BLHS đã bỏ tội danh này). Như vậy, 
cho đến thời điểm này, chúng ta còn duy trì 
hình phạt tử hình đối với 18 tội danh trong số 
314 tội danh được quy định trong BLHS. 
 Năm là, quyết định hình phạt dưới mức 
thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 
BLHS): Đối với người lần đầu phạm tội với 
vai trò giúp sức trong vụ án đồng phạm có 
vai trò không đáng kể và quyết định hình 
phạt không cần thiết bắt buộc trong khung 
hình phạt liền kề. 
Sáu là, án treo (Điều 65 BLHS). Bên 
cạnh việc quy định rõ, chi tiết về án treo đòi 
hỏi cần hiểu chính xác 3 điều kiện cho 
hưởng án treo, Toà án tuyên thực hiện 
nghĩa vụ của người bị kết án được hưởng án 
treo và ngoài phạm tội mới, người được 
hưởng án treo buộc chấp hành hình phạt tù 
trong trường hợp cố ý vi phạm nghĩa vụ án 
treo theo quy định của Luật Thi hành án 
hình sự (Khoản 5 Điều 65 BLHS). Do có 
những quy định mới về án treo nên ngày 
15/5/2018 Hội đồng Thẩm phán Tòa án 
nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 
02/2018/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng 
Điều 65 của BLHS về án treo thay thế Nghị 
quyết 01/2013/NQ-HĐTP và những quy 
định trước đây về án treo. 
Bảy là, BLHS đã bổ sung chế định tha tù 
trước hạn có điều kiện (Điều 66 BLHS) với 
những quy định hết sức chặt chẽ nhằm tạo cơ 
hội cho những phạm nhân tích cực cải tạo tốt 
trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam 
giữ được sớm trở về với gia đình và xã hội, 
đồng thời tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình 
trong môi trường xã hội bình thường, có sự 
giám sát của chính quyền địa phương và của 
gia đình. Nếu trong thời gian thử thách mà 
người được tha tù trước hạn cố ý vi phạm 
nghĩa vụ hoặc phạm tội mới thì phải trở lại cơ 
sở giam giữ để chấp hành tiếp phần hình 
phạt tù còn lại chưa chấp hành. 
Tám là, án tích và xoá án tích có những 
điểm mới như sau: người bị kết án về tội ít 
nghiêm trọng, tội nghiêm trọng do vô ý, 
người được miễn hình phạt không bị coi là có 
án tích. Nhìn chung, người bị kết án đương 
nhiên được xoá án tích. Toà án chỉ quyết định 
xóa án tích đối với người bị kết án về tội xâm 
phạm an ninh quốc gia (Chương XIII) và tội 
chống loài người, tội phạm chiến tranh 
(Chương XXVI). Thời hạn xoá án tích được 
rút ngắn và thời hạn đó được tính kể từ khi 
chấp hành xong hình phạt chính. 
Toà án không có trách nhiệm cấp giấy 
chứng nhận xoá án tích. Việc xoá án tích sẽ 
được tự động cập nhật ở trung tâm lý lịch tư 
pháp và thông qua lý lịch tư pháp. 
- Quy định trách nhiệm hình sự của pháp 
nhân thương mại. Lần đầu tiên trong lịch sử 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
58 
lập pháp hình sự nước ta, BLHS đã quy 
định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, 
được thể hiện tập trung tại Chương XI của 
BLHS, gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 
89) và trong một số điều, khoản cụ thể khác 
của BLHS (các Điều 2, 3, 8, 33, 46). Đây là 
điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá 
trong chính sách hình sự và tư duy lập pháp 
hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức 
truyền thống về vấn đề tội phạm và hình 
phạt được quy định trong BLHS. 
Sau 20 năm (từ 1999 đến nay) kiên trì, 
bền bỉ nghiên cứu, Chính phủ đề xuất và đã 
được Quốc hội chấp thuận bổ sung vấn đề 
này vào trong BLHS, góp phần khắc phục 
những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các 
vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời 
gian qua, nhất là những vi phạm trong các 
lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời 
tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của 
người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp 
nhân gây ra. 
Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, do vậy, để 
bảo đảm sự thận trọng trong việc quy định 
chính sách mới, trên cơ sở tham khảo kinh 
nghiệm của một số nước, BLHS đã xác 
định rõ giới hạn áp dụng chế định trách 
nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng 
hẹp cả về chủ thể lẫn về loại tội mà pháp 
nhân phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể: 
Về chủ thể, BLHS quy định chỉ áp 
dụng đối với pháp nhân thương mại. Theo 
quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 
2015, đây là pháp nhân có mục tiêu chính 
là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được 
chia cho các thành viên. Pháp nhân 
thương mại bao gồm doanh nghiệp và các 
tổ chức kinh tế khác. 
Về loại tội, Bộ luật quy định pháp nhân 
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 31 
tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của 
BLHS. Đây là các tội danh mang tính chất 
thuần túy về kinh tế và môi trường, tội rửa 
tiền và tài trợ khủng bố. 
Về điều kiện pháp nhân thương mại phải 
chịu trách nhiệm hình sự, Điều 75 BLHS 
quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân 
thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, 
bao gồm: Hành vi phạm tội được thực hiện 
nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội 
được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành 
hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi 
phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp 
nhân; chưa hết thời hiệu truy cứu trách 
nhiệm hình sự. 
Về các chế tài áp dụng đối với pháp 
nhân phạm tội (Điều 33 và Điều 46 của 
BLHS), bao gồm 03 hình phạt chính (phạt 
tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình 
chỉ ... iệc đề 
cử những người đồng thời là thành viên của 
Ủy ban Nhân quyền được thành lập theo 
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và 
chính trị và có nguyện vọng làm việc trong 
Ủy ban chống tra tấn. 
Thứ ba, việc bầu chọn thành viên của Ủy 
ban được tiến hành tại hội nghị thường kỳ 2 
năm một lần của các quốc gia thành viên do 
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập. Hội 
nghị chỉ được tiến hành nếu có hai phần ba 
số quốc gia thành viên tham dự, những 
người được bầu vào Ủy ban là những người 
đạt số phiếu cao nhất và đạt đa số tuyệt đối 
số phiếu bầu của đại diện các quốc gia 
thành viên có mặt và bỏ phiếu. 
Thứ tư, lần bầu chọn đầu tiên sẽ được tổ 
chức trong vòng 6 tháng sau ngày Công 
ước này có hiệu lực. Tối thiểu 4 tháng trước 
ngày bầu chọn, Tổng thư ký Liên Hợp 
Quốc sẽ gửi thư đề nghị các quốc gia thành 
viên gửi các đề cử của mình trong thời hạn 
3 tháng. Tổng thư ký sẽ lập danh sách tất cả 
những người được đề cử theo thứ tự bảng 
chữ cái, có ghi rõ quốc gia thành viên đã đề 
cử và gửi danh sách đó cho các quốc gia 
thành viên. 
Thứ năm, những thành viên của Ủy ban 
sẽ được bầu chọn trong một nhiệm kỳ 4 
năm. Họ có thể được bầu lại nếu như được 
tái đề cử. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 5 thành 
viên được bầu chọn trong lần bầu chọn đầu 
tiên sẽ kết thúc vào cuối năm thứ hai; ngay 
sau lần bầu chọn đầu tiên, tên của 5 thành 
viên này sẽ được chọn bằng cách rút thăm 
Trương Đức Thuận 
65 
bởi Chủ tịch của hội nghị theo quy định tại 
khoản 3 Điều này. 
Thứ sáu, nếu một thành viên của Ủy ban 
bị chết hoặc từ chức hoặc do một nguyên 
nhân khác không thể tiếp tục thực hiện 
nhiệm vụ trong Ủy ban thì quốc gia thành 
viên đã đề cử người đó phải cử một chuyên 
gia khác là công dân của mình để tiếp tục 
công việc trong thời gian còn lại của nhiệm 
kỳ của thành viên đó và người này phải 
được sự chấp thuận của đa số các quốc gia 
thành viên. Việc đề cử sẽ được coi là được 
thông qua nếu trong vòng sáu tuần sau khi 
được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thông 
báo về việc đề cử, một nửa hoặc hơn một 
nửa số quốc gia thành viên không phản đối. 
Thứ bảy, quốc gia thành viên phải chịu 
chi phí cho hoạt động của các thành viên 
của Ủy ban trong khi thực hiện nhiệm vụ 
của Ủy ban. Khoản 3 Điều 20 Công ước 
chống Tra tấn quy định cho quan chức của 
Uỷ ban chống tra tấn “có thể chỉ định một 
hay nhiều thành viên của Ủy ban tiến hành 
điều tra bí mật và khẩn trương báo cáo cho 
Ủy ban”. 
3.3. Nội luật hóa các quy định của Công 
ước chống Tra tấn trong lĩnh vực tố tụng 
hình sự 
Công ước chống Tra tấn đã quy định toàn 
diện, đầy đủ về trách nhiệm của quốc gia 
thành viên liên quan đến tố tụng hình sự; 
trong đó có các nội dung quan trọng như 
trách nhiệm về xác lập quyền tài phán, về 
biện pháp ngăn chặn, về thủ tục tố tụng và 
chứng minh và về hợp tác quốc tế trong tố 
tụng hình sự liên quan đến xử lý các tội 
phạm tra tấn. Từ góc độ tố tụng hình sự, 
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là 
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban 
hành đã cơ bản nội luật hóa các Điều ước 
quốc tế, các quy định của Công ước chống 
Tra tấn đề cao và đảm bảo quyền con 
người; các điều luật cơ bản phù hợp với 
Công ước, bao gồm việc xác định quyền tài 
phán, áp dụng biện pháp ngăn chặn, các thủ 
tục tố tụng và hợp tác quốc tế. 
- Quy định thẩm quyền tài phán. Theo 
quy định của Điều 2, Điều 170, Điều 171, 
Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự, mọi hoạt 
động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được 
tiến hành theo quy định của Bộ luật. Mọi 
tội phạm liên quan đến tra tấn theo pháp 
luật hình sự Việt Nam do bất kỳ ai thực 
hiện trên lãnh thổ Việt Nam hoặc do người 
Việt Nam thực hiện ở nước ngoài đều thuộc 
thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam. 
Các quy định này hoàn toàn phù hợp với 
Công ước. 
Về quyền tài phán, pháp luật Việt Nam 
chưa có quy định quyền tài phán đối với 
những hành vi phạm tội được thực hiện bất 
kỳ ở đâu, nhưng người bị tình nghi đang có 
mặt trên lãnh thổ Việt Nam và không dẫn độ 
người đó đến quốc gia có thẩm quyền. Tuy 
nhiên, Điều 28, Điều 30 Luật Tương trợ tư 
pháp, Việt Nam và quốc gia có hiệp định 
tương trợ tư pháp song phương có quyền đề 
nghị quốc gia đối tác truy cứu trách nhiệm 
hình sự nếu không dẫn độ người phạm tội 
cho quốc qua có quyền tài phán. 
- Quy định biện pháp ngăn chặn. Các quy 
định về biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật 
Tố tụng hình sự Việt Nam đã tương thích 
với quy định của Công ước về việc bắt, giam 
giữ người bị nghi phạm tội để truy cứu trách 
nhiệm hình sự hoặc để dẫn độ. 
- Quy định về chứng minh và thủ tục tố 
tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự Việt 
Nam đã quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, 
thủ tục tố tụng để truy cứu một cách chính 
xác, khách quan các hành vi phạm tội liên 
quan đến tra tấn ở Việt Nam từ góc độ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
66 
chứng cứ, chứng minh cũng như các trình 
tự, thủ tục tố tụng khác. 
Chương III Luật Tương trợ tư pháp của 
Việt Nam quy định tương đối đầy đủ về 
tương trợ, ủy thác tư pháp về hình sự giữa 
Việt Nam với các quốc gia khác với phạm 
vi rất rộng. 
- Quy định về hợp tác quốc tế trong tố 
tụng hình sự. Phần thứ tám của Bộ luật Tố 
tụng hình sự đã quy định cụ thể, chi tiết về 
hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng 
hình sự của Việt Nam với cơ quan có thẩm 
quyền của nước ngoài như nguyên tắc hợp 
tác quốc tế, thực hiện tương trợ tư pháp và 
dẫn độ, chuyển giao. Các quy định của Bộ 
luật Tố tụng hình sự được cụ thể hóa chi 
tiết trong Luật Tương trợ tư pháp về tương 
trợ, ủy thác tư pháp hình sự, về dẫn độ, 
chuyển giao. Các quy định của Bộ luật Tố 
tụng hình sự, của Luật Tương trợ tư pháp 
đã cơ bản thể hiện đầy đủ nội dung Công 
ước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hợp tác quốc 
tế có hai vấn đề chưa có sự giống nhau 
hoàn toàn trong pháp luật Việt Nam và 
Công ước là: (1) về việc từ chối dẫn độ theo 
điểm d Khoản 1 Điều 344 Bộ luật Tố tụng 
hình sự và điểm d Khoản 1 Điều 35 Luật 
Tương trợ tư pháp thì “Người bị yêu cầu 
dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì 
lý do có khả năng bị truy bức ở nước yêu 
cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, 
tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành 
phần xã hội hoặc quan điểm chính trị”. 
Trong khi đó, Điều 3 Công ước lại quy định 
Quốc gia thành viên không được trục xuất, 
trả về hoặc dẫn độ một người cho một quốc 
gia khác, nếu có lý do thực tế để tin rằng 
người đó có nguy cơ bị tra tấn mà không 
gắn điều kiện chính trị vào quy định này; 
(2) theo Công ước thì quốc gia thành viên 
có thể coi Công ước này là cơ sở pháp lý 
cho việc dẫn độ đối với những hành vi 
phạm tội này nếu pháp luật quốc gia chưa 
có quy định (áp dụng trực tiếp Công ước). 
Còn theo Khoản 2, Điều 344 Bộ luật Tố 
tụng hình sự thì Việt Nam có thể từ chối 
dẫn độ nếu theo pháp luật hình sự Việt Nam 
hành vi đó không phải là tội phạm. 
3.4. Triển khai thực hành Công ước trong 
Quân đội nhân dân Việt Nam 
Thực hiện Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 
17/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc 
phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện 
Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc, 
Bộ Quốc phòng đã ban hành Đề án “Tuyên 
truyền, phổ biến nội dung Công ước của Liên 
Hợp Quốc về chống Tra tấn và các hình thức 
đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo 
hoặc hạ nhục con người; quy định của pháp 
luật Việt Nam về chống tra tấn trong Quân 
đội giai đoạn 2016 - 2020” (Ban hành kèm 
theo Quyết định số 1291/QĐ-BQP ngày 
05/4/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). 
- Mục tiêu. 
a) Mục tiêu chung. 
Nâng cao nhận thức, hiểu biết về Công ước 
chống Tra tấn, quy định của pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn; nghĩa vụ của Việt Nam 
trong việc thực hiện Công ước chống Tra tấn, 
từ đó giáo dục ý thức tôn trọng và trách nhiệm 
của cán bộ, chiến sĩ trong chấp hành Công ước 
chống Tra tấn, chấp hành pháp luật Việt Nam 
về chống tra tấn; bảo đảm thực hiện có hiệu 
quả quyền con người theo tinh thần của Hiến 
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam; hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của 
Quân đội trong thời kỳ mới. 
b) Mục tiêu cụ thể. 
Đến năm 2020, có 90% quân nhân, công 
nhân và viên chức quốc phòng nói chung và 
100% người trực tiếp làm công tác điều tra, 
được giao tiến hành một số hoạt động điều 
tra, người làm công tác kiểm sát, xét xử, tạm 
giữ, tạm giam, thi hành án và thực hiện hoạt 
Trương Đức Thuận 
67 
động xử lý vi phạm hành chính được phổ 
biến, nâng cao nhận thức về nội dung cơ bản 
của Công ước chống Tra tấn, pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn để tham mưu, triển 
khai thực hiện các nhiệm vụ được giao bảo 
đảm thực hiện đúng trong thực thi công vụ, 
không để xảy ra sai sót, vi phạm. 
Đến năm 2020, có 100% cán bộ làm công 
tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thông 
tin, bồi dưỡng, cung cấp tài liệu để tự bồi 
dưỡng nội dung cơ bản của Công ước chống 
Tra tấn, pháp luật Việt Nam về chống tra tấn, 
bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt động phổ 
biến, giáo dục pháp luật về chống tra tấn đến 
cán bộ, chiến sĩ. 
 Đến năm 2020, có 100% các đối tượng 
trong Quân đội và có liên quan đến hoạt 
động quân sự, quốc phòng được tuyên 
truyền, phổ biến những nội dung cơ bản của 
Công ước chống Tra tấn, pháp luật Việt Nam 
về chống tra tấn; những quy định của Bộ 
Quốc phòng về chống hành vi quân phiệt, từ 
đó có hiểu biết đầy đủ và triển khai thực hiện 
tốt các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, 
phát hiện, giúp cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành 
vi vi phạm pháp luật. 
Thường xuyên nêu cao nhận thức, trách 
nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong chấp 
hành các quy định của Bộ Quốc phòng và 
các cơ quan chức năng về phòng, chống hành 
vi quân phiệt; phấn đấu đến hết năm 2020 
không còn tình trạng quân phiệt trong quản 
lý bộ đội, nhất là số cán bộ chỉ huy, quản lý ở 
đơn vị cơ sở. 
- Đối tượng tuyên truyền, phổ biến. Cán 
bộ, chiến sỹ trong toàn quân, nhất là những 
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử, 
tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và 
hoạt động trong xử lý vi phạm hành chính; 
đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến giáo 
dục pháp luật; các lực lượng tham gia hoạt 
động quân sự, quốc phòng; nhân dân địa 
phương nơi các đơn vị đóng quân, chú trọng 
có nguy cơ bị xâm phạm quyền không bị tra 
tấn, đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo 
hoặc bị hạ nhục (người có hành vi vi phạm 
pháp luật; người bị phạt tù được hưởng án 
treo; người bị tạm giam, tạm giữ; người đang 
chấp hành hình phạt tù; người đang bị áp 
dụng biện pháp xử lý hành chính). 
- Nội dung phổ biến. Nội dung cơ bản và 
những quy định quan trọng của Công ước 
chống Tra tấn; quy định của pháp luật Việt 
Nam về chống tra tấn và các quy phạm pháp 
luật liên quan. Nội dung các quyền và quy 
định bảo đảm các quyền tố tụng của bị can, 
bị cáo, các quyền bồi thường của nạn nhân bị 
tra tấn, quyền được bảo vệ của nhân chứng 
và nạn nhân bị tra tấn. Các quy định, chính 
sách sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế; tình hình 
triển khai thực hiện Công ước chống Tra tấn, 
quy định của Bộ Quốc phòng về chống các 
hành vi quân phiệt. Những thành tựu đạt 
được của cả nước nói chung và trong Quân 
đội nói riêng về đảm bảo quyền không bị tra 
tấn, đối xử, trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo 
hoặc bị hạ nhục. 
- Hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ 
biến. Thực hiện tuyên truyền, phổ biến trên 
các phương tiện thông tin đại chúng; biên 
soạn, phát hành các tài liệu để tuyên truyền, 
phổ biến; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng 
chuyên sâu đối với những người trực tiếp 
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, 
thực thi pháp luật; bổ sung vào chương trình 
đào tạo trong các học viện, nhà trường trong 
Quân đội. 
- Tổ chức triển khai. Cục Tuyên huấn - 
Tổng cục Chính trị là cơ quan thường trực 
của Đề án có trách nhiệm chủ trì phối hợp 
với các cơ quan liên quan (Vụ Pháp chế Bộ 
Quốc phòng, cơ quan báo chí trong Quân 
đội, Cục Tài chính, Cục Nhà trường, Cục 
Điều tra hình sự, Tòa án quân sự Trung 
ương, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
68 
Ban Thanh niên, Ban Phụ nữ Quân đội, Ban 
Công đoàn Quốc phòng, các cơ quan có chức 
năng xử lý vi phạm hành chính trong Quân 
đội và các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ 
Quốc phòng) tổ chức thực hiện Đề án. 
- Trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, cơ 
quan đoàn thể, đơn vị và trách nhiệm của 
quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng. 
Căn cứ vào nội dung Đề án, các cơ quan, đơn 
vị có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, hướng 
dẫn, tổ chức thực hiện nội dung của Đề án 
trong cơ quan, đơn vị mình; chú trọng quán 
triệt, phổ biến pháp luật về chống tra tấn, quy 
định của Bộ Quốc phòng về phòng, chống 
các hành vi quân phiệt, nhục hình cho những 
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử, 
thi hành án, xử lý vi phạm hành chính và cán 
bộ quản lý, chỉ huy ở đơn vị cơ sở; phối hợp 
với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi đóng 
quân, nhất là các đơn vị đóng quân ở vùng 
sâu, vùng xa, biên giới hải đảo làm tốt công 
tác tuyên truyền, phổ biến Công ước chống 
Tra tấn, pháp luật Việt Nam về chống tra tấn 
trong Nhân dân; tổ chức sơ kết, báo cáo theo 
quy định. 
4. Kết luận 
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhất là 
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Luật 
Tương trợ tư pháp cơ bản đã phù hợp với 
các nội dung của Công ước, với quy định 
của Hiến pháp mới. Tuy nhiên, trong thực 
tiễn phong phú sẽ không tránh khỏi vẫn còn 
một số quy định chưa phù hợp hoặc thiếu 
một số quy định để nội luật hóa các quy 
định của Công ước. Do đó, việc hoàn thiện 
pháp luật tố tụng hình sự, mà chủ yếu là Bộ 
luật Tố tụng hình sự và Luật Tương trợ tư 
pháp cần được thực hiện thường xuyên, liên 
tục và kịp thời (xác định chủ yếu là các nội 
dung về quyền tài phán đối với tội tra tấn, 
quy định về biện pháp ngăn chặn, quy định 
về thủ tục tố tụng và chứng minh, quy định 
về dẫn độ), được đặt trong bối cảnh về 
chính trị, kinh tế, an ninh, xã hội đặc thù 
của Việt Nam. 
Việc tham gia Công ước chống Tra tấn 
là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động 
và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, 
khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực 
và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, 
nâng cao đáng kể uy tín quốc tế của Việt 
Nam trên lĩnh vực nhân quyền và tạo ra 
những động lực, cơ sở mới để thúc đẩy hoạt 
động phòng, chống tra tấn ở nước ta hiện 
nay. Sự kiện Việt Nam tham gia Công ước 
chống Tra tấn và nội dung cơ bản của Công 
ước đã được phổ biến trên các phương tiện 
thông tin đại chúng. Tuy nhiên, để nội dung 
Công ước được phổ biến hơn và đi vào 
cuộc sống, thì mọi người, mọi cơ quan, tổ 
chức nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và 
các đơn vị trong Quân đội cần thực hiện có 
hiệu quả hơn nữa công tác tuyên truyền 
pháp luật. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Liên Hợp Quốc (1987), Công ước chống Tra 
tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô 
nhân đạo làm mất phẩm giá khác, New York 
(Bản dịch tiếng Việt). 
[2] Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội. 
[3] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội. 
[4] Quốc hội (2007), Luật Tương trợ tư pháp, Hà Nội. 
[5] Quốc hội (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số 
điều của Bộ luật Hình sự số100/2015/QH2013, 
Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfquy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su_viet_nam_ve_quyen_con_nguoi_the.pdf