Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam

Bài viết phản ánh thực trạng quản trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt Nam, thông qua quy trình gồm: nhận diện, đo lường và kiểm soát rủi ro tài chính. Bên

cạnh đó, các khía cạnh về thông tin và truyền thông liên quan tới rủi ro, mức độ tham gia của hội đồng quản trị

và bộ phận kiểm soát nội bộ cũng được đề cập trong nghiên cứu. Nghiên cứu cho thấy, công tác quản trị rủi ro

tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên mới thể hiện ở bề rộng,

chưa đi vào chiều sâu. Công tác quản trị rủi ro tài chính ở các doanh nghiệp còn yếu ở khâu đo lường và đánh giá

tác động của rủi ro tài chính.

pdf 9 trang kimcuc 5640
Bạn đang xem tài liệu "Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam

Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
 51 
Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam 
Trịnh Thị Phan Lan* * 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Tóm tắt 
Bài viết phản ánh thực trạng quản trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam, thông qua quy trình gồm: nhận diện, đo lường và kiểm soát rủi ro tài chính. Bên 
cạnh đó, các khía cạnh về thông tin và truyền thông liên quan tới rủi ro, mức độ tham gia của hội đồng quản trị 
và bộ phận kiểm soát nội bộ cũng được đề cập trong nghiên cứu. Nghiên cứu cho thấy, công tác quản trị rủi ro 
tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên mới thể hiện ở bề rộng, 
chưa đi vào chiều sâu. Công tác quản trị rủi ro tài chính ở các doanh nghiệp còn yếu ở khâu đo lường và đánh giá 
tác động của rủi ro tài chính. 
Nhận ngày 3 tháng 3 năm 2016, Chỉnh sửa ngày 7 tháng 9 năm 2016, Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 9 năm 2016 
Từ khóa: Quản trị rủi ro tài chính, rủi ro tài chính, công cụ tài chính phái sinh. 
1. Đặt vấn đề * 
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 
là những diễn biến phức tạp khôn lường của 
môi trường kinh doanh. Trong bối cảnh đó, các 
doanh nghiệp Việt Nam phải thường xuyên đối 
diện với rủi ro tài chính ngày càng đa dạng về 
loại hình, tinh vi về mức độ. Rủi ro tài chính 
xảy ra đồng nghĩa với tổn thất hoặc mục tiêu tài 
chính của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Bởi vậy, 
quản trị rủi ro tài chính luôn được coi trọng, là 
mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp 
Việt Nam. Mặc dù vậy, quản trị rủi ro tài chính 
của các doanh nghiệp vẫn chưa được như mong 
đợi. Hệ lụy khó tránh khỏi là những tổn thất về 
kinh tế - xã hội, những sai lệch so với dự tính 
của doanh nghiệp. Vì mục tiêu bền vững trong 
phát triển, tối đa hóa giá trị tài sản của các chủ 
sở hữu, việc quản trị rủi ro tài chính theo hướng 
toàn diện hơn, chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn là đòi 
_______ 
* ĐT.: 84-916962299 
 Email: lanttp@vnu.edu.vn 
hỏi vô cùng cấp bách đối với các doanh nghiệp 
Việt Nam. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Để có được thông tin về thực trạng quản trị 
rủi ro tài chính tại các doanh nghiệp Việt Nam, 
tác giả đã tiến hành khảo sát thông qua bảng hỏi 
về công tác nhận diện, đo lường và kiểm soát 
rủi ro tài chính tại các doanh nghiệp niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đối 
tượng khảo sát là giám đốc tài chính, trưởng 
phòng tài chính, kế toán trưởng, trưởng phòng 
quản trị rủi ro của các doanh nghiệp phi tài 
chính niêm yết. Bảng hỏi tham khảo từ Báo cáo 
khảo sát về Quản trị rủi ro của Ernst & Young 
(E&Y) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước năm 
2012-2013 [1]; Khảo sát của Deloitte về Quản 
trị rủi ro toàn cầu lần thứ 8 (2013) [2]. 
Cách thức thực hiện: Các phiếu khảo sát 
được gửi đến 362 doanh nghiệp theo mẫu đã 
chọn (gồm 189 doanh nghiệp niêm yết trên 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
52 
HOSE và 173 doanh nghiệp niêm yết trên 
HNX) qua đường bưu điện, một số doanh 
nghiệp được gửi qua email. Kết quả thu về 100 
phiếu khảo sát. 
3. Kết quả khảo sát công tác quản trị rủi ro 
tài chính của các doanh nghiệp phi tài 
chính niêm yết trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam 
3.1. Công tác nhận diện rủi ro tài chính 
Trong phiếu khảo sát do tác giả thực hiện, 
nhận diện rủi ro tài chính được thể hiện ở các 
câu hỏi từ 20-25. Có 81% doanh nghiệp thường 
xuyên nhận diện các rủi ro tài chính mà họ gặp 
phải và 70% doanh nghiệp cho rằng họ nhận 
diện sớm được các rủi ro tiềm tàng. Số lượng 
các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn để 
nhận diện rủi ro khá khiêm tốn, chiếm 22%. 
Phần lớn các câu trả lời cho thấy doanh nghiệp 
nhận diện rủi ro thông qua phân tích các chỉ tiêu 
tài chính căn bản. Kết quả này cũng tương đồng 
với khảo sát của E&Y và Ủy ban Chứng khoán 
Nhà nước năm 20121. 
Điều đáng mừng là có 87% doanh nghiệp đã 
bắt đầu quan tâm đến rủi ro theo ngành và bắt đầu 
có chương trình chủ động đối phó với những thay 
đổi của môi trường kinh doanh. 
Về nhận diện rủi ro tài chính, có một tỷ lệ 
lớn các doanh nghiệp phân tích báo cáo tài 
chính, thể hiện có 74% doanh nghiệp lựa chọn. 
Có 60% doanh nghiệp cho rằng báo cáo tài 
chính giúp họ đánh giá kịp thời về rủi ro tài 
chính xảy ra (Bảng 2). 
Khảo sát báo cáo tài chính của các doanh 
nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp báo cáo 
tương đối đầy đủ về rủi ro tài chính gặp phải. 
Có một bộ phận doanh nghiệp nhận diện được 
rằng họ không chịu ảnh hưởng xấu bởi một loại 
rủi ro nào đó. Chẳng hạn: Công ty Cổ phần Địa 
ốc Chợ Lớn nhận thấy có gặp rủi ro tín dụng 
thương mại, thể hiện ở khoản phải thu tăng cao 
nhưng các rủi ro khác thì không đáng kể; trong 
khi đó, Công ty Cổ phần Sonadezi Long 
Thành - SZL ghi rõ trong thuyết minh báo cáo 
tài chính năm 2012 là không gặp rủi ro lãi suất. 
Bên cạnh đó, tỷ lệ doanh nghiệp báo cáo về 
quản trị rủi ro theo Thông tư 210/BTC-2009 đã 
tăng lên. Nếu như năm 2011, Thông tư 210 có 
hiệu lực, có rất nhiều doanh nghiệp ở cả hai sàn 
chưa báo cáo hoặc trong diện Ủy ban Chứng 
khoán Nhà nước buộc báo cáo bổ sung thì từ 
năm 2012 trở đi, hiện tượng này đã không còn. 
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp đã bắt đầu 
làm quen với việc công khai và minh bạch tình 
hình quản trị rủi ro tài chính. 
Bảng 1. Nhận diện rủi ro tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam 
(Ðơn vị: %) 
Chi tiết theo nhóm ngành 
Tiêu chí 
So với tổng 
Bất động 
sản 
Xây 
dựng 
Nông 
nghiệp 
Công 
nghiệp 
Vận 
tải 
Nhận diện rủi ro tài chính 81 72,7 83,3% 60 85,4 76,4 
Số doanh nghiệp sử dụng 
dịch vụ tý vấn 
22 27,7 33,3 0 25,4 5,8 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
Bảng 2. Tính hữu ích của báo cáo tài chính trong việc đo lường rủi ro tài chính 
 Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Hữu ích Rất hữu ích 
Mức độ phần trăm 0% 12% 22% 60% 6% 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả.1
_______ 
1 Theo khảo sát nãm 2012 của E&Y và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, có 44% ðối týợng tham gia khảo sát cho rằng các tiêu chí cảnh 
báo sớm nhằm nhận diện rủi ro chủ yếu tập trung ở mảng tài chính, kế toán và chủ yếu dựa trên các chỉ số tài chính. 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
53 
Tuy nhiên, việc nhận diện rủi ro vẫn mang 
tính chất hình thức. Theo Thông tư 
210/2009/TT-BTC thì các doanh nghiệp phải 
báo cáo các rủi ro thị trường (bao gồm rủi ro lãi 
suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro biến động giá), rủi ro 
tín dụng và rủi ro thanh khoản với yêu cầu mô 
tả bản chất rủi ro phát sinh và biện pháp phòng 
ngừa [3]. Trên thực tế, việc mô tả bản chất rủi 
ro phát sinh vẫn nặng về thủ tục hành chính và 
dựa trên lý thuyết chứ chưa xuất phát từ tình 
hình thực tế của doanh nghiệp. Qua khảo sát 
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm 
yết qua các năm, tác giả nhận thấy rằng: Mặc 
dù thuộc các nhóm ngành khác nhau, nhưng 
việc nhận diện các rủi ro phát sinh của các 
doanh nghiệp tương đối giống nhau giữa các 
năm và giữa các doanh nghiệp với nhau. Hơn 
nữa, việc chỉ có 22% doanh nghiệp sử dụng 
dịch vụ tư vấn để phân tích rủi ro hay phát hiện 
rủi ro thể hiện nhận thức và tính chuyên nghiệp 
của các doanh nghiệp Việt Nam trong quản trị 
rủi ro tài chính chưa cao. Bởi vì, các doanh 
nghiệp tư vấn với kinh nghiệm và đội ngũ 
chuyên nghiệp sẽ có sự phân tích kỹ lưỡng, cụ 
thể với từng thương vụ cho đến toàn bộ hoạt 
động kinh doanh tổng thể để có thể phát hiện 
sớm các rủi ro tiềm tàng của doanh nghiệp. 
3.2. Công tác đo lường rủi ro tài chính 
Kết quả khảo sát cho thấy: Có 25% doanh 
nghiệp cho rằng công nghệ, kỹ thuật đo lường 
rủi ro tài chính đang áp dụng tại doanh nghiệp 
không đo lường kịp thời rủi ro tài chính của 
doanh nghiệp. 85% cho rằng chỉ đo lường ở 
mức độ bình thường. Chỉ có 23% doanh nghiệp 
sử dụng dịch vụ thuê ngoài. Tuy nhiên, qua 
thông tin thu thập từ khảo sát và báo cáo tài 
chính của các doanh nghiệp thì một số dịch vụ 
thuê ngoài chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm, 
thông qua việc mua bảo hiểm; do đó, trên thực 
tế, có rất ít các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ 
thuê ngoài để phân tích, đo lường rủi ro. Ngoài 
ra, các doanh nghiệp có khuynh hướng thuê tư 
vấn quản trị rủi ro phục vụ một giai đoạn 
chuyển đổi hay tái cơ cấu chỉ khi cổ đông chiến 
lược yêu cầu. 
Đối với câu hỏi “Doanh nghiệp của ông/bà 
có sử dụng các phương pháp định lượng để đo 
lường rủi ro tài chính không?” thì có 67% câu 
trả lời là “Chưa bao giờ”, chỉ có rất ít câu trả 
lời là “Thỉnh thoảng” (31,54%), không có câu 
trả lời nào cho hai mục “Thường xuyên” và 
“Rất thường xuyên”. 
Khảo sát thuyết minh tài chính của các 
doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp chủ 
yếu đo lường hai rủi ro là rủi ro lãi suất và rủi 
ro tỷ giá. Cách thức thực hiện chủ yếu là xem 
xét và dự đoán mức độ tổn thất xảy ra nếu lãi 
suất hoặc tỷ giá tăng lên/giảm xuống một mức 
độ phần trăm nhất định nào đó [4]. Điều đáng 
bàn ở đây là tại sao lại chọn tỷ lệ phần trăm 
biến động như vậy thì các doanh nghiệp không 
giải thích và cũng không có căn cứ xác đáng 
cho lựa chọn này. Hiện tượng này không xảy ra 
tập trung vào một ngành nào mà phổ biến ở tất 
cả các ngành được khảo sát cho thấy các doanh 
nghiệp Việt Nam chưa chú trọng đến đo lường 
rủi ro. Hơn nữa, có một hiện tượng là tỷ lệ 
doanh nghiệp có hoạt động xử lý rủi ro cao hơn 
tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động phân tích và 
đánh giá rủi ro. Một số doanh nghiệp cho biết 
công tác phân tích rủi ro vẫn còn lúng túng và 
chưa thật sự dựa trên cơ sở khoa học. Như vậy, 
các doanh nghiệp đang đặt trọng tâm vào việc 
giải quyết/xử lý rủi ro khi nó đã thật sự xảy ra 
chứ không chú trọng đến kiểm soát trước khi 
rủi ro xảy ra2. 
Trả lời câu hỏi “Doanh nghiệp của ông/bà 
có thường xuyên sử dụng các mô hình đo lường 
rủi ro tài chính (ví dụ: Zscore hay VaR) hay 
không?”, chỉ có 15 doanh nghiệp chọn câu trả 
lời “Thỉnh thoảng”. Như vậy, các doanh nghiệp 
chưa chú trọng đến các phương pháp đo lường 
định lượng hiện đại khác, chủ yếu sử dụng 
phương pháp phổ biến là đo lường độ nhạy 
nhưng chưa chỉ rõ căn cứ tính tỷ lệ phần trăm 
thay đổi. 
Trong khi đó, các chuyên gia đều cho rằng, 
đo lường rủi ro tài chính là việc rất quan trọng. 
Vì từ đó, doanh nghiệp mới xác định được 
những rủi ro nào gây ra tổn thất lớn trong doanh 
_______ 
2 Khảo sát E&Y, 2013. 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
54 
nghiệp và việc xếp hạng rủi ro theo mức độ ưu 
tiên cần đối phó. Để quản trị rủi ro tài chính, 
thông thường các doanh nghiệp sẽ tập trung vào 
20% rủi ro tài chính sẽ gây ra 80% tổn thất cho 
doanh nghiệp. Tuy nhiên, không đo lường kịp 
thời mức độ tổn thất thì doanh nghiệp không thể 
ra quyết định về kiểm soát rủi ro. 
3.3. Công tác kiểm soát rủi ro tài chính tại các 
doanh nghiệp Việt Nam 
Với câu hỏi “Doanh nghiệp sử dụng các 
biện pháp kiểm soát rủi ro tài chính nào sau 
đây: Tránh rủi ro, hạn chế rủi ro, chuyển giao 
rủi ro?” Câu trả lời của 27 doanh nghiệp là “Né 
tránh rủi ro”, còn lại là hạn chế và chuyển giao 
rủi ro. Đây là một điều đáng mừng vì đa số các 
doanh nghiệp đã có ý thức về các biện pháp để 
kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, né tránh rủi ro chỉ 
nên coi là một hoạt động trong quản trị rủi ro. 
Nếu doanh nghiệp né tránh tất cả các loại rủi ro 
thì doanh nghiệp cũng mất đi cơ hội kinh doanh 
của mình. Vấn đề là doanh nghiệp cần xác định 
đâu là một rủi ro không thể chấp nhận, cần phải 
né tránh và nên kết hợp với hoạt động khác 
hoặc chỉ thực hiện trong một số trường hợp 
nhất định. 
Sử dụng công cụ phái sinh để kiểm soát rủi 
ro tài chính 
Bảng 3 và 4 cho biết mức độ am hiểu về 
công cụ phái sính và tình hình sử dụng công cụ 
phái sinh của các doanh nghiệp. 
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam quen 
thuộc hơn với hợp đồng kỳ hạn. Các doanh 
nghiệp sử dụng công cụ phái sinh nhiều nhất là 
nhóm ngành công nghiệp. Công ty Cổ phần 
Quốc tế Sơn Hà (SHI), Công ty Cổ phần Nhựa 
thiếu niên Tiền Phong (NTP), Công ty Cổ phần 
Cát Lợi (CLC), Công ty Cổ phần Đường Biên 
Hòa (BHS) sử dụng công cụ tài chính phái 
sinh để phòng ngừa, hạn chế rủi ro tài chính do 
biến động tỷ giá. Công ty Cổ phần Dầu thực vật 
Tường An (TAC) sử dụng hợp đồng quyền mua 
ngoại tệ. Công ty Cổ phần Tập đoàn Ma San 
(MNS) sử dụng hợp đồng kỳ hạn. Công ty Cổ 
phần Cà phê An Giang (AGC) và các doanh 
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất cà phê 
có trụ sở chủ yếu ở Đồng Nai, Đắk Lắk, Gia Lai 
tham gia kinh doanh tại Trung tâm Giao dịch Cà 
phê Buôn Ma Thuột (BCEC) [5]. Giải pháp này 
giúp các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro do biến 
động giá cà phê khi tham gia vào thị trường giao 
ngay có hàng thực và giao sau theo từng kỳ hạn. 
Bảng 3. Mức độ am hiểu về công cụ tài chính 
Mức độ sử dụng (%) Hợp đồng 
kỳ hạn 
Hợp đồng 
tương lai 
Hợp đồng 
quyền chọn 
Hợp đồng 
hoán đổi 
Hoàn toàn không am hiểu 8 17 15 10 
Ít am hiểu 29 51 49 58 
Bình thường 41 20 21 18 
Rất am hiểu 22 12 15 14 
Cực kỳ am hiểu 0 0 0 0 
Tổng cộng 100 100 100 100 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
Bảng 4. Tình hình sử dụng công cụ tài chính để kiểm soát rủi ro tỷ giá 
Mức độ sử dụng (%) Hợp đồng 
kỳ hạn 
Hợp đồng 
tương lai 
Hợp đồng 
quyền chọn 
Hợp đồng 
hoán đổi 
Hoàn toàn không sử dụng 22 24 30 21 
Ít sử dụng 48 51 42 63 
Bình thường 21 15 23 9 
Thường xuyên sử dụng 9 10 5 7 
Rất thường xuyên 0 0 0 0 
Tổng cộng 100 100 100 100 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
55 
Nguyên nhân lớn nhất cản trở việc sử dụng 
công cụ phái sinh được các doanh nghiệp thừa 
nhận, theo kết quả của cuộc khảo sát, là do chưa 
am hiểu và nhận thức đầy đủ về sản phẩm phái 
sinh. Bên cạnh đó, tâm lý ngại trách nhiệm càng 
làm cho các doanh nghiệp thiếu kiên quyết 
trong việc sử dụng công cụ ngừa rủi ro. 
Bảng 5. Nguyên nhân cản trở các doanh nghiệp Việt 
Nam sử dụng công cụ phái sinh 
Nguyên nhân Tỷ lệ (%) 
Doanh nghiệp chưa am hiểu và 
nhận thức đầy đủ về công cụ 
phái sinh 
35 
Tâm lý ngại trách nhiệm 29 
Công cụ phái sinh ở Việt nam 
hiện nay không đáp ứng được 
nhu cầu doanh nghiệp 
24 
Pháp lý chưa rõ ràng 7 
Thiệt hại do rủi ro không lớn 5 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
Sử dụng công cụ tài chính khác để kiểm 
soát rủi ro tài chính 
Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn các 
doanh nghiệp “theo dõi chặt chẽ khoản vay về 
thời gian, quy mô và lãi suất” và “xác định cơ 
cấu vốn mục tiêu”. Mức điểm trên 4 cho thấy 
theo dõi chặt chẽ khoản vay là phương án được 
nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhất. “Xác định 
cơ cấu vốn mục tiêu” cũng có điểm số cao, trên 
3 điểm. Biện pháp “Thực hiện nghiêm túc quy 
định về thời hạn trong kinh doanh và đầu tư” 
được các doanh nghiệp xây dựng đánh giá cao. 
Điều này có ảnh hưởng rất lớn vì các doanh 
nghiệp xây dựng thường có quy mô vốn lớn, 
nếu chậm trễ tiến độ sẽ làm tăng khoản lãi phải 
trả. Tuy nhiên, trong bối cảnh bất động sản 
xuống giá như thời gian vừa qua, chỉ có các 
doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh, đồng 
thời công tác marketing bán hàng tốt thì mới 
đảm bảo tiến độ công trình. 
Với câu hỏi “Khi cân nhắc huy động thêm 
vốn, ông/bà căn cứ vào đâu để huy động vốn 
cho doanh nghiệp”, có 45% doanh nghiệp ưu 
tiên sử dụng vốn chủ sở hữu, 32% doanh 
nghiệp sử dụng vốn vay, 8% doanh nghiệp 
không có kế hoạch về ưu tiên sử dụng nguồn 
vốn nào và 12% doanh nghiệp dựa vào số liệu 
trong quá khứ. Điều này phù hợp với những gì 
đã xảy ra trên thị trường. Sau một thời gian dài 
dựa vào lợi thế của đòn bẩy tài chính thì rất 
nhiều doanh nghiệp đã chú trọng xây dựng cấu 
trúc vốn nghiêng về vốn chủ sở hữu. Nhiều 
nhóm ngành như xây dựng - bất động sản từng 
vay vốn rất nhiều vào các năm trước để lợi 
dụng đòn bẩy tài chính thì nay bắt đầu chuyển 
sang sử dụng vốn chủ sở hữu nhiều hơn. 
Về kiểm soát rủi ro tín dụng thương mại, 
“Lập bảng theo dõi về khách hàng” và “Xây 
dựng chính sách bán chịu” là cách thức kiểm 
soát rủi ro tín dụng thương mại phổ biến nhất, 
do đó mức điểm cao hơn. Các doanh nghiệp 
còn yếu trong việc đánh giá hệ số tín nhiệm 
khách hàng, chưa xây dựng được hệ số chỉ tiêu 
để đánh giá hệ số tín nhiệm khách hàng trong 
dài hạn. Bao thanh toán chưa được sử dụng 
nhiều ở các doanh nghiệp Việt Nam. Ngành sử 
dụng bao thanh toán nhiều nhất là công nghiệp 
với 3,3 điểm. 
Bảng 6. Kiểm soát rủi ro đòn bẩy tài chính và rủi ro lãi suất 
bằng các công cụ tài chính khác 
Ðiểm trung bình phân theo nhóm ngành 
Diễn giải Bất động 
sản 
Xây 
dựng 
Nông 
nghiệp 
Công 
nghiệp 
Vận 
 tải 
Xác định cơ cấu nguồn vốn mục tiêu 3,7 3,3 3,6 3,2 3,3 
Theo dõi chặt chẽ khoản vay về thời gian, quy 
mô và lãi suất 
4,2 4,5 4,3 4,2 4,1 
Cân đối dòng tiền vào/ra trong doanh nghiệp 2,8 2,9 3,1 3,2 3,0 
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án 4,1 4,3 3,5 2,9 3,2 
Thực hiện nghiêm túc các quy định về thời hạn 
trong kinh doanh và đầu tư 
3,9 4,1 4,0 3,9 3,8 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
56 
Bảng 7. Kiểm soát rủi ro tín dụng thương mại bằng các công cụ tài chính khác 
Ðiểm trung bình phân theo nhóm ngành 
Diễn giải Bất động 
sản 
Xây 
dựng 
Nông 
nghiệp 
Công 
nghiệp 
Vận 
tải 
Lập bảng theo dõi về khách hàng 4,8 4,6 4,6 4,5 4,4 
Xây dựng chính sách tín dụng thương mại 4,1 3,8 4,0 4,1 3,9 
Xây dựng hệ số tín nhiệm về khách hàng 2,7 3,2 3,1 2,5 2,8 
Sử dụng dịch vụ bao thanh toán 2,1 2,4 3,3 2,1 2,5 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
Bảng 8. Kiểm soát rủi ro biến động giá bằng các công cụ tài chính khác 
Ðiểm trung bình phân theo nhóm ngành 
Diễn giải Bất động 
sản 
Xây 
dựng 
Nông 
nghiệp 
Công 
nghiệp 
Vận 
tải 
Mua vật liệu/hàng hóa dự trữ 3,5 3,8 4,3 3,7 4,0 
Ða dạng nguồn cung cấp 3,3 3,8 3,7 3,4 3,1 
Bán “non” sản phẩm 1,0 1,2 1,0 1,0 1,0 
Thiết lập chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà cung 
cấp - doanh nghiệp - nhà phân phối 
3,3 3,2 3,2 3,1 2,8 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. 
Hầu hết các doanh nghiệp đều đối phó với 
rủi ro biến động giá bằng cách mua vật liệu dự 
trữ, đồng thời mua hoặc bán hàng với nhiều đối 
tác. Tuy nhiên, việc thiết lập kênh phân phối 
theo chuỗi giá trị giữa nhà cung cấp - doanh 
nghiệp và nhà phân phối còn yếu. 
Bán “non” sản phẩm là biện pháp thông 
thường sử dụng cho ngành nông nghiệp, ít xuất 
hiện ở ngành khác, Tuy nhiên, trong khảo sát, 
biện pháp này không được doanh nghiệp nông 
nghiệp nào lựa chọn bởi đây là biện pháp tình 
thế, chỉ sử dụng khi rơi vào tình trạng rất khó. 
Tuy nhiên, có hai doanh nghiệp xây dựng đã 
“bán non” dự án. Điều này khá phổ biến trong 
giai đoạn 2011-2012 ở các doanh nghiệp xây 
dựng bất động sản. Tuy nhiên, thời gian gần 
đây, tình hình kinh doanh của hai ngành này đã 
có dấu hiệu đi lên (Bảng 9). 
Nhóm ngành công nghiệp là nhóm ngành áp 
dụng biện pháp xuất nhập khẩu song hành nhiều 
nhất. Trên thực tế, việc sử dụng hợp đồng xuất 
nhập khẩu song hành hơi khó khăn vì trong thời 
gian ngắn, rất khó để tìm kiếm hợp đồng 
xuất/nhập tương tự. Tuy nhiên, các doanh nghiệp 
có giá trị nhập khẩu nhiều thường gia tăng xuất 
khẩu để bù trừ. Chẳng hạn, trong năm 2014, Công 
ty Thép Hòa Phát (HPG) đã đẩy mạnh xuất khẩu 
phôi ra nước ngoài với thị trường chính là các 
nước ở khu vực ASEAN (chủ yếu là Philippines) 
với sản lượng phôi xuất khẩu bình quân khoảng 
20.000 tấn/tháng, giá bán khoảng 11 triệu 
đồng/tấn (giá thời điểm năm 2014)3. 
Phương án vay mượn bằng ngoại tệ được 
nhiều doanh nghiệp lựa chọn với điểm số khá 
cao (trừ nhóm ngành bất động sản). Trong bối 
cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn do nhu 
cầu nội địa thấp, tín dụng ngoại tệ gắn liền với 
tăng trưởng xuất nhập khẩu là một điểm sáng 
trong việc hỗ trợ nền kinh tế. Việc các doanh 
nghiệp cân nhắc hơn thiệt về chi phí vay vốn và 
rủi ro trong việc vay ngoại tệ với tiền đồng là lẽ 
đương nhiên. Trong năm 2014, nhiều doanh 
nghiệp được hưởng lợi từ vay vốn bằng đôla vì 
lãi suất vay rẻ, doanh nghiệp tránh được rủi ro 
lãi suất nhưng sang năm 2015, khi tỷ giá tăng 
cao, lãi về chi phí vay không cân đối được lỗ do 
tỷ giá tăng. 
Khảo sát các báo cáo tài chính, biện pháp sử 
dụng đồng tiền thứ ba ít biến động trong thanh 
toán cũng khá thấp, chủ yếu các doanh nghiệp 
giao dịch bằng đôla và Euro, chỉ một số ít 
doanh nghiệp sử dụng đồng tiền khác là nước 
có hoạt động kinh doanh trực tiếp, ví dụ đồng 
LAK của Lào Do đó, điểm cho biện pháp này 
ở mức dưới 3. 
_______ 
3 
ro-ty-gia-cao/c/14207590.epi 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
57 
Bảng 9. Kiểm soát rủi ro tỷ giá bằng các công cụ tài chính khác 
Ðiểm trung bình phân theo nhóm ngành 
Diễn giải Bất động 
sản 
Xây 
dựng 
Nông 
nghiệp 
Công 
nghiệp 
Vận 
tải 
Dự trữ ngoại tệ 2,4 3,3 3,6 3,1 3,0 
Mua bán ngoại tệ và VNÐ trên thị trường tiền tệ 1,8 3,8 3,4 2,7 2,4 
Vay mượn bằng ngoại tệ (thay cho VNÐ) 2,0 3,5 3,3 2,2 3,2 
Sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu song hành 
(Nếu có hợp đồng xuất hoặc nhập khẩu thì sẽ 
tạo ra hợp đồng nhập hoặc xuất bằng chính 
ngoại tệ đó để triệt tiêu rủi ro) 
1,0 2,3 3,1 2,4 1,0 
Sử dụng đồng tiền thứ ba ít biến động trong 
thanh toán 
2,3 2,6 2,8 2,2 2,4 
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả.
3.4. Thông tin và truyền thông 
Theo kết quả khảo sát, có 70% doanh 
nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất khi thực 
hiện quản trị rủi ro tài chính là “thiếu thông tin 
về rủi ro có thể phát sinh”. 
Kết quả khảo sát phù hợp với kết quả 
nghiên cứu của E&Y nãm 2013. Theo nghiên 
cứu này, hoạt động theo dõi, kiểm soát và báo 
cáo rủi ro tại các doanh nghiệp vẫn chưa được 
thực hiện phổ biến, nhất là đối với công tác 
báo cáo, truyền thông về rủi ro khi chỉ có 56% 
doanh nghiệp xác nhận có hoạt động này. 
Ngoài ra, số liệu khảo sát về công tác truyền 
thông rủi ro cũng cho thấy chỉ có 43% doanh 
nghiệp phản hồi cho rằng thông tin về rủi ro 
trong tổ chức của họ được báo cáo và truyền 
thông rộng khắp các bộ phận chức năng, vấn 
đề báo cáo rủi ro từ cấp độ nhân viên đến ban 
quản lý cấp cao hơn vẫn chưa được đầy đủ và 
kịp thời. 
3.5. Tổ chức thực hiện quản trị rủi ro tài chính 
tại doanh nghiệp 
Mức độ tham gia vào công tác quản trị rủi 
ro của hội đồng quản trị 
Có 66% doanh nghiệp được khảo sát cho 
biết hội đồng quản trị chỉ tham gia một cách 
tương đối hoặc không đáng kể vào công tác 
quản trị rủi ro trong tổ chức. Kết quả khảo sát 
câu 14 cho thấy doanh nghiệp cho rằng vai trò 
của hội đồng quản trị xếp sau ban giám đốc và 
bộ phận quản trị rủi ro của doanh nghiệp. 
Hơn nữa, theo kết quả khảo sát, không có 
lãnh đạo nào có bằng cấp hoặc chứng chỉ FRM 
về quản trị rủi ro tài chính. Tỷ lệ thành viên trong 
ban giám đốc có bằng cấp về tài chính kế toán 
chỉ chiếm 67%. Báo cáo của E&Y (2013) cho 
rằng chỉ có 16% thành viên hội đồng quản trị và 
quản lý cấp cao được đào tạo một cách bài bản 
và định kỳ về lĩnh vực quản trị rủi ro. Còn lại, 
phần lớn chỉ được đào tạo một cách đột xuất 
(54%) hoặc không nhận được bất kỳ hoạt động 
đào tạo nào liên quan tới rủi ro (30%). 
Kết quả trên cho thấy cho dù hội đồng 
quản trị tham gia tích cực vào công tác quản trị 
rủi ro, nhưng với thực tiễn còn nhiều khiếm 
khuyết trong công tác đào tạo, khả năng nắm 
bắt nhanh và giải quyết những rủi ro trọng 
yếu còn hạn chế. 
Chức năng kiểm soát nội bộ 
Với 24/63 doanh nghiệp trả lời bộ phận 
kiểm soát nội bộ chiụ trách nhiệm về quản trị 
rủi ro tài chính trong doanh nghiệp cho thấy, 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
58 
các doanh nghiệp đánh giá cao khả năng của 
hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp4. 
Theo kết quả khảo sát của tác giả, các 
doanh nghiệp đánh giá hệ thống kiểm soát nội 
bộ tốt nhất ở khía cạnh “giảm khả năng gian 
lận và công bố thông tin”, tiếp đó lần lượt là 
“công cụ phát hiện yếu kém trong quản lý” và 
“công cụ quản lý rủi ro liên quan hoạt động 
của doanh nghiệp” (57%). 
4. Kết luận và giải pháp 
Công tác quản trị rủi ro của doanh nghiệp 
Việt Nam tuy có chuyển biến tích cực trong 
thời gian qua nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn 
chế. Cụ thể, việc nhận diện rủi ro vẫn mang 
tính hình thức, số lượng doanh nghiệp sử dụng 
dịch vụ tư vấn còn ít. Số lượng các doanh 
nghiệp sử dụng các phương pháp định lượng 
để đo lường rủi ro chiếm tỷ lệ nhỏ. Các giải 
pháp mà doanh nghiệp đưa ra mang tính chất 
xử lý rủi ro nhiều hơn là phòng ngừa và kiểm 
soát rủi ro. Đặc biệt, với tỷ lệ doanh nghiệp sử 
dụng công cụ phái sinh như đã đề cập ở trên 
thì quản trị rủi ro tài chính ở Việt Nam trong 
giai đoạn hiện nay cần tập trung nhiều hơn 
vào các biện pháp khác hơn là sử dụng công 
cụ tài chính. 
Năng lực quản trị rủi ro tài chính của các 
doanh nghiệp còn yếu do nhiều nguyên nhân, 
trong đó nổi cộm là ý thức về rủi ro còn thấp, 
chưa xây dựng được văn hóa quản trị rủi ro 
trên phạm vi toàn doanh nghiệp; ngân sách 
dành cho lĩnh vực quản trị rủi ro còn khiêm tốn 
trong khi hội đồng quản trị chỉ tham gia một 
cách tương đối vào quá trình này. 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu ở trên, bốn 
nhóm giải pháp được đưa ra nhằm tăng cường 
công tác quản trị rủi ro tài chính trong doanh 
nghiệp, bao gồm: 
Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về rủi 
ro và rủi ro tài chính: Nhóm giải pháp này cần 
tập trung phổ biến, tuyên truyền chính sách 
_______ 
4 Trong khảo sát của E&Y trong 2 năm 2012, 2013, con 
số này ở mức khoảng 50%. 
quản trị rủi ro tới tất cả các thành viên trong 
doanh nghiệp; đồng thời nâng cao nhận thức 
của ban quản trị cấp cao và vai trò của hội 
đồng quản trị. 
Nhóm giải pháp nâng cao năng lực quản 
trị rủi ro và quản trị rủi ro tài chính: Trước 
hết, doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản 
trị doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, cần 
phân định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng 
giữa CFO (giám đốc tài chính) và CRO (giám 
đốc quản trị rủi ro); tăng cường hơn nữa hệ 
thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp; 
thiết lập ba tuyến phòng thủ như các ngân hàng 
bao gồm: tuyến 1 là hội đồng quản trị, tuyến 2 
là phòng quản trị rủi ro hoặc bộ phận chịu 
trách nhiệm về quản trị rủi ro và tuyến 3 là hệ 
thống kiểm soát nội bộ. 
Nhóm giải pháp phát triển hoạt động quản 
trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp: Doanh 
nghiệp cần thiết lập bộ phận chuyên trách về 
quản trị rủi ro để tránh đổ lỗi cho nhau khi rủi 
ro xảy ra; xây dựng quy trình rủi ro thống nhất 
toàn doanh nghiệp và dành phần kinh phí hợp 
lý cho hoạt động quản trị rủi ro. 
Nhóm giải pháp kiểm soát các rủi ro tài 
chính cụ thể đối với doanh nghiệp Việt nam: 
Doanh nghiệp cần cần sử dụng linh hoạt các 
công cụ phái sinh và các công cụ tài chính, 
kết hợp với sử dụng dịch vụ tư vấn của 
chuyên gia. 
Tài liệu tham khảo 
[1] E&Y và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Báo 
cáo khảo sát về tình hình thực tiễn hoạt động 
quản trị rủi ro ở các doanh nghiệp Việt Nam 
(2012, 2013), Hà Nội. 
[2] Deloitte, Global Risk Management Survey, 
8th, 2013. 
[3] Bộ Tài chính, Thông tư số 210/TT-2009/BTC 
Hướng dẫn áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc 
tế về trình bày báo cáo tài chính và thuyết 
minh thông tin đối với công cụ tài chính, ban 
hành ngày 6/11/2009. 
[4] Báo cáo tài chính các daonh nghiệp được đăng 
tải trên  
[5] Vũ Thị Hậu, “Rủi ro tài chính các doanh 
nghiệp công nghiệp”, Luận án Tiến sĩ, 2014. 
T.T.P. Lan / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 3 (2016) 51-59 
59 
Financial Risk Management 
in Vietnamese Non-financial Companies 
Trinh Thi Phan Lan 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: The paper describes the situation of financial risk management in non-financial 
companies listed on the Vietnamese stock market by: identifying, measuring and controlling financial 
risks. In addition, information and communication related to risks, level of participation of a board of 
directors, and an internal control department are also discussed in the study. Though, the financial risk 
management in Vietnamese companies has undergone positive changes, it is in width only. The 
management is weak at the measurement and assessment of impacts of financial risks. 
Keywords: Financial risk management, financial risk, derivatives. 

File đính kèm:

  • pdfquan_tri_rui_ro_tai_chinh_trong_cac_doanh_nghiep_viet_nam.pdf