Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Việt Nam - có bờ biển dài 3.260 km và
đặc khu kinh tế biển rộng gần 1,5 triệu km2, là
một quốc gia có lãnh hải lớn trong khu vực Đông
Nam Á. Cũng như các nước khác trong khu vực,
Việt Nam giàu về nguồn lợi biển và ven biển,
trong đó có cá, tôm, rừng ngập mặn, dầu khí và
tài nguyên khoáng sản. Biển là hệ sinh thái chịu
ảnh hưởng không những từ các hoạt động kinh
tế, xã hội địa phương mà còn chịu sự chi phối của
những yếu tố ô nhiễm khác mang tính chất xuyên
quốc gia. Biển là nơi lắng đọng cuối cùng của
nhiều vật thể, sản phẩm của nhiều quá trình địa
hóa cũng như các chất thải do hoạt động của con
người gây ra; trong đó, chất thải phóng xạ đang
được quan tâm do sự phát triển của ngành công
nghiệp hạt nhân, đặc biệt là sự phát triển của điện
hạt nhân (ĐHN) ở trên thế giới trong những năm
gần đây
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 4 Số 55 - Tháng 06/2018 QUAN TRẮC PHÓNG XẠ MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Bài viết trình bày một số thông tin liên quan đến thực trạng về các nghiên cứu liên quan đến nghiên cứu phóng xạ môi trường biển Việt Nam từ trước đến nay và thực trạng về công tác quan trắc phóng xạ môi trường biển do Viện Nghiên cứu hạt nhân chủ trì thực hiện từ năm 2012 đến nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện trong thời gian tới. I. Mở đầu Việt Nam - có bờ biển dài 3.260 km và đặc khu kinh tế biển rộng gần 1,5 triệu km2, là một quốc gia có lãnh hải lớn trong khu vực Đông Nam Á. Cũng như các nước khác trong khu vực, Việt Nam giàu về nguồn lợi biển và ven biển, trong đó có cá, tôm, rừng ngập mặn, dầu khí và tài nguyên khoáng sản. Biển là hệ sinh thái chịu ảnh hưởng không những từ các hoạt động kinh tế, xã hội địa phương mà còn chịu sự chi phối của những yếu tố ô nhiễm khác mang tính chất xuyên quốc gia. Biển là nơi lắng đọng cuối cùng của nhiều vật thể, sản phẩm của nhiều quá trình địa hóa cũng như các chất thải do hoạt động của con người gây ra; trong đó, chất thải phóng xạ đang được quan tâm do sự phát triển của ngành công nghiệp hạt nhân, đặc biệt là sự phát triển của điện hạt nhân (ĐHN) ở trên thế giới trong những năm gần đây. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 430 lò phản ứng hạt nhân thương mại đang hoạt động tại 31 quốc gia với tổng công suất lắp đặt trên 370.000 MW, cung cấp khoảng 11,5% sản lượng điện năng toàn cầu. Ngoài ra, khoảng 70 lò phản ứng khác vẫn đang ở giai đoạn xây dựng, và hai phần ba trong số đó nằm trên địa bàn Châu Á. Riêng Trung Quốc, tính đến cuối năm 2016 có 35 tổ máy ĐHN đang hoạt động với tổng công suất gần 32.000 MW. Nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện năng, Trung Quốc dự kiến vận hành 100 nhà máy ĐHN vào năm 2030 và 170 nhà máy với công suất 195.000 MW vào năm 2050. Trong năm 2016, người ta đã chứng kiến các tổ máy đầu tiên có công suất 1.000 MW của nhà máy ĐHN Phòng Thành, Quảng Tây đi vào hoạt động thương mại, các tổ máy 650 MW của nhà máy ĐHN Xương Giang trên đảo Hải Nam và 600 MW của nhà máy ĐHN Trường Giang, Quảng Đông đã được kết nối lưới điện quốc gia của Trung Quốc [5,6,7]. Các nhà máy này đều ở vị trí gần với biên giới trên đất liền và trên biển Việt Nam, ví dụ như nhà máy ĐHN Phòng Thành chỉ cách Quảng Ninh khoảng 60 km, nhà máy ĐHN Xương Giang ở đảo Hải Nam cách đảo Bạch Long Vĩ khoảng 120 km, tại các vị trí ở đầu nguồn các dòng hải lưu vận chuyển hướng về Việt Nam đặc biệt là về mùa gió mùa Đông-Bắc. Trong quá trình vận hành, các nhà máy ĐHN luôn phát thải phóng xạ (mặc dù rất thấp ở mức cho phép) ở dạng khí (129I, 14C, 137Cs, 3H, 85Kr, 60Co, 125Sb, 134Cs, 54Mn), lỏng (51Cr, 54Mn, 60Co, 95Nb, 106Ru, 144Ce), rắn (bã thải hạt nhân, các chất thải nhiễm phóng xạ khác như: quần áo làm việc, các dụng cụ, vật liệu, v.v.; bản thân lò phản ứng, thiết bị của vòng sơ cấp, các vật liệu khác của nhà máy điện khi hết thời gian sử dụng). Ngoài ra một lượng nhiệt lớn và các hóa chất từ nhà máy ĐHN cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 5Số 55 - Tháng 06/2018 xung quanh, đặc biệt là hệ sinh thái biển. Khi xảy ra sự cố tại các nhà máy ĐHN (đặc biệt đối với các nhà máy ĐHN của Trung Quốc gần biên giới Việt Nam - Trung Quốc), các chất phóng xạ phát tán từ các nhà máy này sẽ có những tác động trực tiếp (thông qua hít thở) và gián tiếp tới sức khoẻ con người (thông qua sinh vật biển và vào con đường ăn uống của người). Do đặc điểm của quá trình trao đổi chất, mức độ hấp thụ một số đồng vị phóng xạ của một số loại sinh vật sẽ cao hơn các loại sinh vật khác. Một liều bức xạ lớn có thể dẫn đến tăng độ phân chia tế bào một cách không bình thường, dẫn đến sự phát triển không bình thường của các loài thực vật, động vật và kể cả con người [8]. Thực tế, trên thế giới đã có nhiều tai nạn, sự cố hạt nhân xảy ra, ví dụ như: tai nạn tại lò phản ứng Windscale Fire, Anh năm 1957 - Cấp độ 5; tai nạn tại nhà máy tái chế nhiên liệu hạt nhân Kyshtym, Liên Xô cũ năm 1957 - Cấp độ 6; tai nạn tại nhà máy ĐHN Three Mile Island, Pennsylvania, Mỹ năm 1979 - Cấp độ 5; Thảm họa tại nhà máy ĐHN Chernobyl, Ukraine năm 1986 - Cấp độ 7; và gần đây nhất là thảm họa tại nhà máy ĐHN Fukushima, Nhật Bản năm 2011 - Cấp độ 7. Ngoài các tai nạn, sự cố lò phản ứng nhà máy ĐHN, còn có các sự cố tàu ngầm nguyên tử, vệ tinh và các sự cố xảy ra trong quá trình thu nhận, sử dụng, vận chuyển các chất phóng xạ trên đường biển cũng gây ra ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường biển. Bên cạnh nguồn ô nhiễm phóng xạ nhân tạo đến môi trường biển, còn có nguồn gốc của các nguyên tố phóng xạ tự nhiên từ các hoạt động công nghiệp, ví dụ công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp khai thác quặng phóng xạ, công nghiệp khai thác và chế biến sa khoáng ven biển, v.v., cũng làm tăng mức phông phóng xạ tự nhiên, chủ yếu bao gồm: 232Th, 238U và các con cháu của U, Th (210Pb, 210Po, 226Ra, 222Rn, v.v.). Để phát triển kinh tế biển bền vững, nhiều quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế đang đặt ra những yêu cầu cấp bách và cụ thể về quản lý và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là thực hiện điều tra, đánh giá hiện trạng của các yếu tố ô nhiễm, trong đó có các yếu tố về phóng xạ; đồng thời tiến hành quan trắc theo dõi định kỳ các loại ô nhiễm biển với mục đích xác định xu thế diễn biến chất lượng môi trường biển, nguyên nhân và mức độ ô nhiễm, kịp thời phát hiện các sự cố môi trường nhằm giúp các nhà quản lý đề ra các biện pháp hạn chế và ngăn ngừa ô nhiễm, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường biển. Ngoài khía cạnh “gây ô nhiễm môi trường biển”, các đồng vị phóng xạ xuất hiện trong môi trường biển còn được sử dụng như là “các chất đánh dấu” để nghiên cứu các quá trình tự nhiên, ví dụ: đồng vị Pb-210 trong trầm tích biển được sử dụng để xác định tuổi trầm tích trong khoảng 150 năm; đồng vị Th-230 được sử dụng để xác định tuổi trầm tích trong khoảng 103 - 104 năm; các đồng vị radi trong nước biển được sử dụng để xác định thời gian lưu và các hệ số khuếch tán của khối nước biển ven bờ (hoặc các chất ô nhiễm đi theo pha nước); các đồng vị phóng xạ radi được sử dụng để đánh giá quá trình phát tán, vận chuyển trong môi trường biển của các chất dinh dưỡng và khoáng chất đưa đến từ các con sông, các dòng nước ngầm, v.v. II. Thực trạng về công tác quan trắc phóng xạ môi trường biển Trong những năm qua, các bộ, ngành, địa phương như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hải dương học, Trường Đại học Thủy sản, v.v., tùy theo chức năng, các đơn vị trên đã và đang tiến hành một số chương trình điều tra, khảo sát và đánh giá chất lượng môi trường này. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 6 Số 55 - Tháng 06/2018 Riêng Ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam cũng đã tổ chức thực hiện 02 đề tài cấp Bộ về “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp và kỹ thuật phân tích hạt nhân chủ yếu phục vụ đánh giá tình trạng phóng xạ môi trường biển Việt Nam” trong giai đoạn 1999-2003 do Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt (NCHN) và Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân (KHKTHN) đồng chủ trì với nội dung là thiết lập quy trình thu góp, xử lý, bảo quản và phân tích hàm lượng các nguyên tố phóng xạ chính như 90Sr, 137Cs, 210Pb, 210Po, 226Ra, 239,240Pu, U và Th trong các đối tượng môi trường biển. Đề tài đã tiến hành thu góp mẫu với số lượng hạn chế tại một số vị trí chọn lọc (Cát Bà, Cửa Lò, Vịnh Nha Trang và Cửa Đại Sông Tiền) và tiến hành phân tích xác định hoạt độ của các đồng vị phóng xạ trên. Thông qua các đề tài này các quy trình thu góp, xử lý, bảo quản và phân tích các đồng vị phóng xạ trong một số đối tượng môi trường biển đã được xác lập. Kết quả tiêu biểu thu được của nghiên cứu trên là lần đầu tiên ở Việt Nam đã xác định được các nguyên tố phóng xạ nhân tạo quan trọng (90Sr, 137Cs, 239,240Pu) trong môi trường biển, cũng như bước đầu cung cấp thông tin về mức hiện hữu các đồng vị phóng xạ trong môi trường biển Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng các kết quả của đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng phương pháp luận, có được một số dữ liệu ban đầu nhưng rất hạn chế và định hướng sự cần thiết phải quan tâm đến các tác nhân này. Để kịp thời phát hiện những diễn biến bất thường về tình trạng phóng xạ trên toàn lãnh hải Việt Nam, hỗ trợ cho việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân; cung cấp dữ liệu diễn biến phóng xạ môi trường biển để phục vụ công tác quản lý nhà nước về bức xạ làm cơ sở xây dựng chiến lược và phát triển kinh tế xã hội theo hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; bắt đầu từ năm 2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho phép Viện NCHN mở nhiệm vụ ‟Quan trắc và phân tích PXMT biển tại hai địa điểm dự kiến xây dựng nhà máy ĐHN thuộc tỉnh Ninh Thuận”, thực hiện tại hai vị trí quan trắc ở thôn Thái An, xã Vĩnh Hải; và thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh (Hình 1). Hình 1. Vị trí các điểm quan trắc và lấy mẫu tại xã Phước Dinh và Vĩnh Hải (Ninh Thuận) Tuy nhiên, nhiệm vụ này cũng chỉ mới tham gia giải quyết trực tiếp cho chương trình xây dựng các nhà máy ĐHN đầu tiên tại tỉnh Ninh Thuận (mặc dù vậy, chương trình ĐHN này cũng đã được tạm dừng vào ngày 22/11/2016 theo Nghị quyết số 31/2016/QH14), với các thông số quan trắc là: U, Th, 226Ra, 40K, 137Cs, 90Sr, 210Po, 239,240Pu trong các đối tượng nước, trầm tích và sinh vật biển và tần suất quan trắc 2 lần/năm. Qua thực hiện nhiệm vụ đã thu nhận được bộ số liệu nền các đồng vị phóng xạ nêu trên trong môi trường biển; các số liệu về nồng độ các đồng vị phóng xạ nhân tạo: 90Sr, 137Cs, 239,240Pu là những số liệu đầu tiên được thu nhận tại 2 điểm quan trắc (Bảng 1 và 2), mặc dù nước ta chưa có các nguồn cục bộ phóng thích các đồng vị này; chúng thích hợp đóng góp vào bộ số liệu nền của quốc gia và khu vực, làm cơ sở cho đánh giá xâm nhập tiếp theo. Tuy nhiên, chương trình quan trắc phóng xạ này chỉ mới được thực hiện tại tỉnh Ninh Thuận nên chưa phản ánh được hiện trạng phóng xạ trong THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 7Số 55 - Tháng 06/2018 môi trường biển Việt Nam trong tình hình các hoạt động công nghiệp dọc theo biển Việt Nam có xu hướng phát triển mạnh. Bảng 1. Dải hoạt độ phóng xạ nhân tạo trong nước biển ở Phước Dinh và Vĩnh Hải Đồng vị Đơn vị tính Phước Dinh [3] Vĩnh Hải [3] Các vùng khác của Việt Nam [1,2] Châu Á - Thái Bình Dương [9,10] Cs-137 10-3 Bq/L 1,40÷2,12 1,72÷3,28 0,67÷3,60 0,6÷7,5 Sr-90 10-3 Bq/L 0,74÷1,94 1,30÷2,21 0,91÷3,60 Pu-239+240 10-3 Bq/L 0,004÷0,007 0,005÷0,008 0,002÷0,014 0,001÷0,084 Bảng 2. Dải hoạt độ phóng xạ nhân tạo trong trầm tích biển ở Phước Dinh và Vĩnh Hải Đồng vị Đơn vị tính Phước Dinh [3] Vĩnh Hải [3] Các vùng khác của Việt Nam [1,2] Châu Á - Thái Bình Dương [9,10] Cs-137 Bq/kg khô 0,52÷1,15 0,72÷1,45 0,02÷2,62 0,03÷25,4 Sr-90 Bq/kg khô 0,06÷0,28 0,17÷0,32 0,05÷0,41 0,04÷3,67 Pu-239+240 Bq/kg khô 0,235÷0,785 0,415÷0,786 0,012÷0,683 0,03÷3,73 Gần đây, trong giai đoạn 2013-2015, một nhiệm vụ nghiên cứu cấp Bộ do Viện KHKTHN chủ trì thực hiện về “Xác định độ phóng xạ của đồng vị phóng xạ nhân tạo Cs tại một điểm trong môi trường biển miền Bắc Việt Nam từ sự cố nhà máy điện hạt nhân FUKUSHIMA DAI ICHI” đặt ra yêu cầu xây dựng được bộ số liệu nền và phát hiện sự thay đổi nếu có về hoạt độ riêng 134Cs, 137Cs để phát hiện sự lan tỏa phóng xạ từ Fukushima đến vùng biển nước ta. Do khuôn khổ khiêm tốn của đề tài và việc lấy mẫu và xử lý sơ bộ mẫu tại hiện trường trên biển là rất khó khăn, tốn kém, nên chỉ có thể thiết kế một số điểm khảo sát có tính tiêu biểu nhất là: Cửa Đại, Móng Cái; Đảo Bạch Long Vĩ; Vạn Hoa, Cái Rồng - Quảng Ninh; và đảo Cồn Cỏ (Hình 2). Chỉ tiêu phân tích là các đồng vị phóng xạ tự nhiên (U, Th, K, Pb-210) và một số đồng vị phóng xạ nhân tạo (Cs-134, Cs-137, H-3) trong các đối tượng mẫu trầm tích, sinh vật và nước biển. Hình 2. Các vị trí lấy mẫu trên vịnh Bắc Bộ Các kết quả thu được cũng rất khiêm tốn, đã phân tích và đưa ra sơ bộ các số liệu về mức nền của các nhân phóng xạ tự nhiên và nhân tạo (238U, 232Th, 40K, 137Cs, 134Cs, 210Po, 210Pb) trong các đối tượng môi trường biển: nước biển, trầm tích bề mặt, một số sinh vật biển được thu thập tại một số vị trí thuộc vùng biển miền Bắc Việt Nam; đồng thời đã phát hiện tín hiệu lan tỏa ô nhiễm các nhân phóng xạ từ Fukushima đến biển Đông (thông qua 137Cs và 134Cs), tín hiệu này được ghi nhận vào năm 2016 tức là trùng khớp với các giá trị mô phỏng. Tuy nhiên, tín hiệu ô nhiễm các nhân phóng xạ này là rất nhỏ vì đã bị nhanh chóng pha loãng vào môi trường biển, không có đóng góp đáng kể nào cho liều công chúng Việt Nam từ sự cố phóng xạ Fukushima [4]. Năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường, tiếp tục cho phép mở thêm một số vị trí quan trắc thông qua nhiệm vụ: ‟Quan trắc và phân tích phóng xạ môi trường biển tại tỉnh Ninh Thuận; Gành Rái tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và tỉnh Cà Mau” do Viện NCHN chủ trì (Hình 3). So với những năm trước, giảm điểm quan trắc tại xã Phước THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 8 Số 55 - Tháng 06/2018 Dinh, tỉnh Ninh Thuận; bổ sung thêm 2 điểm quan trắc tại Gành Rái, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Việc thêm 2 điểm quan trắc mới cũng chỉ giúp đánh giá theo không gian thực trạng mức hiện hữu các nguyên tố phóng xạ chủ yếu trong các thành phần môi trường biển ở một số tỉnh phía Nam mà thôi. Hình 3. Các điểm quan trắc PXMT biển từ năm 2018 Hình 4. Các điểm quan trắc dự kiến trong mạng lưới QTPX môi trường biển. III. Giải pháp Trước tình hình một số các nhà máy ĐHN Trung Quốc được xây dựng và vận hành sát biên giới Việt Nam cũng như các hoạt động phát triển kinh tế dọc theo bờ biển như đã đề cập ở trên cho thấy cần phải: 1) Triển khai sớm Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường biển quốc gia (Hình 4 - Mạng lưới được thiết kế thông qua thực hiện nhiệm vụ cấp Bộ năm 2010 đã nghiệm thu, gồm 11 điểm quan trắc ở giai đoạn 1); 2) Nâng cao năng lực quan trắc (về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo nhân lực) đủ cho các đơn vị tham gia trong mạng lưới. Song song, cũng cần phải có kế hoạch nghiên cứu phát triển áp dụng các kỹ thuật mới như quan trắc online, mô phỏng phát tán chất phóng xạ trong môi trường nước, để giảm bớt việc lấy mẫu hiện trường và phân tích trong phòng thí nghiệm - một trong những công việc hết sức nặng nhọc, nguy hiểm, tốn nhiều công sức và kể cả về mặt tài chính. Có như vậy mới giúp chúng ta nhanh chóng và kịp thời phát hiện được mọi diễn biến bất thường về tình trạng phóng xạ trong môi trường biển, phát hiện được bất kỳ sự cố, tai nạn hạt nhân nào trong khu vực cũng như biết được nguồn gốc của các sự cố, tai nạn ấy. Quan trọng hơn là kết quả quan trắc sẽ giúp chúng ta đưa ra được các biện pháp và hành động ứng phó kịp thời, giảm thiểu được thiệt hại cho môi trường, cho công chúng và xã hội khi xảy ra sự cố. Nguyễn Trọng Ngọ __________________________________ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thanh Bình và cộng sự, 2003. Báo cáo đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu phát triển các phương pháp phân tích hạt nhân chủ yếu và ứng dụng tình trạng đánh giá phóng xạ môi trường biển ở một số vùng điển hình của Việt Nam”, mã số BO/00/01-04. [2] Nguyễn Trọng Ngọ và cộng sự, 2004. Báo cáo đề tài cơ sở “Tổng kết đánh giá các kết THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 9Số 55 - Tháng 06/2018 quả nghiên cứu về phóng xạ môi trường biển; bước đầu sơ bộ đánh giá liều tích lũy tập thể dân chúng do sử dụng hải sản ở một số vùng điển hình của Việt Nam”. [3] Nguyễn Văn Phúc và Cộng sự (2012- 2017). Báo cáo tổng kết nhiệm vụ cấp Bộ về: “Quan trắc và phân tích PXMT biển tại hai địa điểm dự kiến xây dựng nhà máy ĐHN thuộc tỉnh Ninh Thuận”. [4] Nguyễn Quang Long và Cộng sự (2017). Báo cáo tổng kết nhiệm vụ cấp Bộ về: “Xác định độ phóng xạ của đồng vị phóng xạ nhân tạo Cs tại một điểm trong môi trường biển miền Bắc Việt Nam từ sự cố nhà máy điện hạt nhân FUKUSHIMA DAI ICHI”, Mã số: 04/HĐ/ NV. [5] Báo cáo quốc gia của Trung Quốc năm 2016 trong khuôn khổ cuộc họp lần 7 của Công ước An toàn hạt nhân do IAEA tổ chức, tháng 4, 2016. [6] IAEA Marine Information System (MARiS), https://maris.iaea.org/ [7] Michio Aoyama, IAEA Scientific Forum 17-18 September 2013 Vienna, Austria. [8] UNSCEAR-2000, Sources and Effects of Ionizing Radiation, UN, New York, 2000. [9] Emerenciana B. Duran, 2000. IAEA/ RCA/UNDP Project RAS 080, Version 2 part 1 on Asia-Pacific marine radioactivity database (ASPAMARD). [10] IAEA-TECDOC-1094, 1999. Pro. Inter. Sym, Marine pollution, Vienna.
File đính kèm:
- quan_trac_phong_xa_moi_truong_bien_viet_nam_thuc_trang_va_gi.pdf