Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Việt Nam - có bờ biển dài 3.260 km và

đặc khu kinh tế biển rộng gần 1,5 triệu km2, là

một quốc gia có lãnh hải lớn trong khu vực Đông

Nam Á. Cũng như các nước khác trong khu vực,

Việt Nam giàu về nguồn lợi biển và ven biển,

trong đó có cá, tôm, rừng ngập mặn, dầu khí và

tài nguyên khoáng sản. Biển là hệ sinh thái chịu

ảnh hưởng không những từ các hoạt động kinh

tế, xã hội địa phương mà còn chịu sự chi phối của

những yếu tố ô nhiễm khác mang tính chất xuyên

quốc gia. Biển là nơi lắng đọng cuối cùng của

nhiều vật thể, sản phẩm của nhiều quá trình địa

hóa cũng như các chất thải do hoạt động của con

người gây ra; trong đó, chất thải phóng xạ đang

được quan tâm do sự phát triển của ngành công

nghiệp hạt nhân, đặc biệt là sự phát triển của điện

hạt nhân (ĐHN) ở trên thế giới trong những năm

gần đây

pdf 6 trang kimcuc 19580
Bạn đang xem tài liệu "Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Quan trắc phóng xạ môi trường biển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
4 Số 55 - Tháng 06/2018
QUAN TRẮC PHÓNG XẠ MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Bài viết trình bày một số thông tin liên quan đến thực trạng về các nghiên cứu liên quan đến 
nghiên cứu phóng xạ môi trường biển Việt Nam từ trước đến nay và thực trạng về công tác quan trắc 
phóng xạ môi trường biển do Viện Nghiên cứu hạt nhân chủ trì thực hiện từ năm 2012 đến nay, đồng 
thời đề xuất một số giải pháp thực hiện trong thời gian tới.
I. Mở đầu
Việt Nam - có bờ biển dài 3.260 km và 
đặc khu kinh tế biển rộng gần 1,5 triệu km2, là 
một quốc gia có lãnh hải lớn trong khu vực Đông 
Nam Á. Cũng như các nước khác trong khu vực, 
Việt Nam giàu về nguồn lợi biển và ven biển, 
trong đó có cá, tôm, rừng ngập mặn, dầu khí và 
tài nguyên khoáng sản. Biển là hệ sinh thái chịu 
ảnh hưởng không những từ các hoạt động kinh 
tế, xã hội địa phương mà còn chịu sự chi phối của 
những yếu tố ô nhiễm khác mang tính chất xuyên 
quốc gia. Biển là nơi lắng đọng cuối cùng của 
nhiều vật thể, sản phẩm của nhiều quá trình địa 
hóa cũng như các chất thải do hoạt động của con 
người gây ra; trong đó, chất thải phóng xạ đang 
được quan tâm do sự phát triển của ngành công 
nghiệp hạt nhân, đặc biệt là sự phát triển của điện 
hạt nhân (ĐHN) ở trên thế giới trong những năm 
gần đây. 
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 430 lò 
phản ứng hạt nhân thương mại đang hoạt động 
tại 31 quốc gia với tổng công suất lắp đặt trên 
370.000 MW, cung cấp khoảng 11,5% sản lượng 
điện năng toàn cầu. Ngoài ra, khoảng 70 lò phản 
ứng khác vẫn đang ở giai đoạn xây dựng, và hai 
phần ba trong số đó nằm trên địa bàn Châu Á. 
Riêng Trung Quốc, tính đến cuối năm 2016 có 
35 tổ máy ĐHN đang hoạt động với tổng công 
suất gần 32.000 MW. Nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu 
thụ điện năng, Trung Quốc dự kiến vận hành 100 
nhà máy ĐHN vào năm 2030 và 170 nhà máy 
với công suất 195.000 MW vào năm 2050. Trong 
năm 2016, người ta đã chứng kiến các tổ máy 
đầu tiên có công suất 1.000 MW của nhà máy 
ĐHN Phòng Thành, Quảng Tây đi vào hoạt động 
thương mại, các tổ máy 650 MW của nhà máy 
ĐHN Xương Giang trên đảo Hải Nam và 600 
MW của nhà máy ĐHN Trường Giang, Quảng 
Đông đã được kết nối lưới điện quốc gia của 
Trung Quốc [5,6,7]. Các nhà máy này đều ở vị 
trí gần với biên giới trên đất liền và trên biển Việt 
Nam, ví dụ như nhà máy ĐHN Phòng Thành chỉ 
cách Quảng Ninh khoảng 60 km, nhà máy ĐHN 
Xương Giang ở đảo Hải Nam cách đảo Bạch Long 
Vĩ khoảng 120 km, tại các vị trí ở đầu nguồn các 
dòng hải lưu vận chuyển hướng về Việt Nam đặc 
biệt là về mùa gió mùa Đông-Bắc. 
Trong quá trình vận hành, các nhà máy 
ĐHN luôn phát thải phóng xạ (mặc dù rất thấp 
ở mức cho phép) ở dạng khí (129I, 14C, 137Cs, 3H, 
85Kr, 60Co, 125Sb, 134Cs, 54Mn), lỏng (51Cr, 54Mn, 
60Co, 95Nb, 106Ru, 144Ce), rắn (bã thải hạt nhân, 
các chất thải nhiễm phóng xạ khác như: quần áo 
làm việc, các dụng cụ, vật liệu, v.v.; bản thân lò 
phản ứng, thiết bị của vòng sơ cấp, các vật liệu 
khác của nhà máy điện khi hết thời gian sử dụng). 
Ngoài ra một lượng nhiệt lớn và các hóa chất từ 
nhà máy ĐHN cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
5Số 55 - Tháng 06/2018
xung quanh, đặc biệt là hệ sinh thái biển.
Khi xảy ra sự cố tại các nhà máy ĐHN 
(đặc biệt đối với các nhà máy ĐHN của Trung 
Quốc gần biên giới Việt Nam - Trung Quốc), các 
chất phóng xạ phát tán từ các nhà máy này sẽ có 
những tác động trực tiếp (thông qua hít thở) và 
gián tiếp tới sức khoẻ con người (thông qua sinh 
vật biển và vào con đường ăn uống của người). 
Do đặc điểm của quá trình trao đổi chất, mức độ 
hấp thụ một số đồng vị phóng xạ của một số loại 
sinh vật sẽ cao hơn các loại sinh vật khác. Một 
liều bức xạ lớn có thể dẫn đến tăng độ phân chia 
tế bào một cách không bình thường, dẫn đến sự 
phát triển không bình thường của các loài thực 
vật, động vật và kể cả con người [8].
Thực tế, trên thế giới đã có nhiều tai nạn, 
sự cố hạt nhân xảy ra, ví dụ như: tai nạn tại lò 
phản ứng Windscale Fire, Anh năm 1957 - Cấp 
độ 5; tai nạn tại nhà máy tái chế nhiên liệu hạt 
nhân Kyshtym, Liên Xô cũ năm 1957 - Cấp độ 
6; tai nạn tại nhà máy ĐHN Three Mile Island, 
Pennsylvania, Mỹ năm 1979 - Cấp độ 5; Thảm 
họa tại nhà máy ĐHN Chernobyl, Ukraine năm 
1986 - Cấp độ 7; và gần đây nhất là thảm họa tại 
nhà máy ĐHN Fukushima, Nhật Bản năm 2011 
- Cấp độ 7. Ngoài các tai nạn, sự cố lò phản ứng 
nhà máy ĐHN, còn có các sự cố tàu ngầm nguyên 
tử, vệ tinh và các sự cố xảy ra trong quá trình thu 
nhận, sử dụng, vận chuyển các chất phóng xạ trên 
đường biển cũng gây ra ô nhiễm nghiêm trọng 
đến môi trường biển.
Bên cạnh nguồn ô nhiễm phóng xạ nhân 
tạo đến môi trường biển, còn có nguồn gốc của 
các nguyên tố phóng xạ tự nhiên từ các hoạt động 
công nghiệp, ví dụ công nghiệp thăm dò và khai 
thác dầu khí, công nghiệp khai thác quặng phóng 
xạ, công nghiệp khai thác và chế biến sa khoáng 
ven biển, v.v., cũng làm tăng mức phông phóng 
xạ tự nhiên, chủ yếu bao gồm: 232Th, 238U và các 
con cháu của U, Th (210Pb, 210Po, 226Ra, 222Rn, 
v.v.).
Để phát triển kinh tế biển bền vững, nhiều 
quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế đang đặt ra 
những yêu cầu cấp bách và cụ thể về quản lý và 
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển. Một trong 
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là thực 
hiện điều tra, đánh giá hiện trạng của các yếu tố ô 
nhiễm, trong đó có các yếu tố về phóng xạ; đồng 
thời tiến hành quan trắc theo dõi định kỳ các loại 
ô nhiễm biển với mục đích xác định xu thế diễn 
biến chất lượng môi trường biển, nguyên nhân và 
mức độ ô nhiễm, kịp thời phát hiện các sự cố môi 
trường nhằm giúp các nhà quản lý đề ra các biện 
pháp hạn chế và ngăn ngừa ô nhiễm, bảo vệ và 
phát triển bền vững môi trường biển. 
Ngoài khía cạnh “gây ô nhiễm môi trường 
biển”, các đồng vị phóng xạ xuất hiện trong môi 
trường biển còn được sử dụng như là “các chất 
đánh dấu” để nghiên cứu các quá trình tự nhiên, 
ví dụ: đồng vị Pb-210 trong trầm tích biển được 
sử dụng để xác định tuổi trầm tích trong khoảng 
150 năm; đồng vị Th-230 được sử dụng để xác 
định tuổi trầm tích trong khoảng 103 - 104 năm; 
các đồng vị radi trong nước biển được sử dụng 
để xác định thời gian lưu và các hệ số khuếch 
tán của khối nước biển ven bờ (hoặc các chất ô 
nhiễm đi theo pha nước); các đồng vị phóng xạ 
radi được sử dụng để đánh giá quá trình phát tán, 
vận chuyển trong môi trường biển của các chất 
dinh dưỡng và khoáng chất đưa đến từ các con 
sông, các dòng nước ngầm, v.v.
II. Thực trạng về công tác quan trắc phóng xạ 
môi trường biển 
Trong những năm qua, các bộ, ngành, địa 
phương như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện 
Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hải dương 
học, Trường Đại học Thủy sản, v.v., tùy theo chức 
năng, các đơn vị trên đã và đang tiến hành một số 
chương trình điều tra, khảo sát và đánh giá chất 
lượng môi trường này. 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
6 Số 55 - Tháng 06/2018
Riêng Ngành Năng lượng nguyên tử Việt 
Nam cũng đã tổ chức thực hiện 02 đề tài cấp Bộ 
về “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp và kỹ 
thuật phân tích hạt nhân chủ yếu phục vụ đánh 
giá tình trạng phóng xạ môi trường biển Việt 
Nam” trong giai đoạn 1999-2003 do Viện Nghiên 
cứu hạt nhân Đà Lạt (NCHN) và Viện Khoa học 
và kỹ thuật hạt nhân (KHKTHN) đồng chủ trì 
với nội dung là thiết lập quy trình thu góp, xử 
lý, bảo quản và phân tích hàm lượng các nguyên 
tố phóng xạ chính như 90Sr, 137Cs, 210Pb, 210Po, 
226Ra, 239,240Pu, U và Th trong các đối tượng môi 
trường biển. Đề tài đã tiến hành thu góp mẫu với 
số lượng hạn chế tại một số vị trí chọn lọc (Cát 
Bà, Cửa Lò, Vịnh Nha Trang và Cửa Đại Sông 
Tiền) và tiến hành phân tích xác định hoạt độ của 
các đồng vị phóng xạ trên. Thông qua các đề tài 
này các quy trình thu góp, xử lý, bảo quản và 
phân tích các đồng vị phóng xạ trong một số đối 
tượng môi trường biển đã được xác lập. 
Kết quả tiêu biểu thu được của nghiên 
cứu trên là lần đầu tiên ở Việt Nam đã xác định 
được các nguyên tố phóng xạ nhân tạo quan trọng 
(90Sr, 137Cs, 239,240Pu) trong môi trường biển, cũng 
như bước đầu cung cấp thông tin về mức hiện 
hữu các đồng vị phóng xạ trong môi trường biển 
Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng các 
kết quả của đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc xây 
dựng phương pháp luận, có được một số dữ liệu 
ban đầu nhưng rất hạn chế và định hướng sự cần 
thiết phải quan tâm đến các tác nhân này.
Để kịp thời phát hiện những diễn biến 
bất thường về tình trạng phóng xạ trên toàn lãnh 
hải Việt Nam, hỗ trợ cho việc chủ động ứng phó 
sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân; cung cấp dữ liệu 
diễn biến phóng xạ môi trường biển để phục vụ 
công tác quản lý nhà nước về bức xạ làm cơ sở 
xây dựng chiến lược và phát triển kinh tế xã hội 
theo hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền 
vững; bắt đầu từ năm 2012, Bộ Tài nguyên và 
Môi trường đã cho phép Viện NCHN mở nhiệm 
vụ ‟Quan trắc và phân tích PXMT biển tại hai địa 
điểm dự kiến xây dựng nhà máy ĐHN thuộc tỉnh 
Ninh Thuận”, thực hiện tại hai vị trí quan trắc ở 
thôn Thái An, xã Vĩnh Hải; và thôn Vĩnh Trường, 
xã Phước Dinh (Hình 1). 
Hình 1. Vị trí các điểm quan trắc và lấy 
mẫu tại xã Phước Dinh và Vĩnh Hải (Ninh Thuận)
Tuy nhiên, nhiệm vụ này cũng chỉ mới 
tham gia giải quyết trực tiếp cho chương trình 
xây dựng các nhà máy ĐHN đầu tiên tại tỉnh Ninh 
Thuận (mặc dù vậy, chương trình ĐHN này cũng 
đã được tạm dừng vào ngày 22/11/2016 theo Nghị 
quyết số 31/2016/QH14), với các thông số quan 
trắc là: U, Th, 226Ra, 40K, 137Cs, 90Sr, 210Po, 239,240Pu 
trong các đối tượng nước, trầm tích và sinh vật 
biển và tần suất quan trắc 2 lần/năm. Qua thực 
hiện nhiệm vụ đã thu nhận được bộ số liệu nền 
các đồng vị phóng xạ nêu trên trong môi trường 
biển; các số liệu về nồng độ các đồng vị phóng 
xạ nhân tạo: 90Sr, 137Cs, 239,240Pu là những số liệu 
đầu tiên được thu nhận tại 2 điểm quan trắc (Bảng 
1 và 2), mặc dù nước ta chưa có các nguồn cục 
bộ phóng thích các đồng vị này; chúng thích hợp 
đóng góp vào bộ số liệu nền của quốc gia và khu 
vực, làm cơ sở cho đánh giá xâm nhập tiếp theo. 
Tuy nhiên, chương trình quan trắc phóng xạ này 
chỉ mới được thực hiện tại tỉnh Ninh Thuận nên 
chưa phản ánh được hiện trạng phóng xạ trong 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
7Số 55 - Tháng 06/2018
môi trường biển Việt Nam trong tình hình các 
hoạt động công nghiệp dọc theo biển Việt Nam 
có xu hướng phát triển mạnh.
Bảng 1. Dải hoạt độ phóng xạ nhân tạo 
trong nước biển ở Phước Dinh và Vĩnh Hải
Đồng vị Đơn vị tính 
Phước Dinh 
[3] 
Vĩnh Hải 
[3] 
Các vùng khác 
của Việt Nam 
[1,2] 
Châu Á - Thái 
Bình Dương 
[9,10] 
Cs-137 10-3 Bq/L 1,40÷2,12 1,72÷3,28 0,67÷3,60 0,6÷7,5 
Sr-90 10-3 Bq/L 0,74÷1,94 1,30÷2,21 0,91÷3,60 
Pu-239+240 10-3 Bq/L 0,004÷0,007 0,005÷0,008 0,002÷0,014 0,001÷0,084 
Bảng 2. Dải hoạt độ phóng xạ nhân tạo 
trong trầm tích biển ở Phước Dinh và Vĩnh Hải
Đồng vị Đơn vị tính Phước Dinh [3] 
Vĩnh Hải 
[3] 
Các vùng khác 
của Việt Nam 
[1,2] 
Châu Á - Thái 
Bình Dương 
[9,10] 
Cs-137 Bq/kg khô 0,52÷1,15 0,72÷1,45 0,02÷2,62 0,03÷25,4 
Sr-90 Bq/kg khô 0,06÷0,28 0,17÷0,32 0,05÷0,41 0,04÷3,67 
Pu-239+240 Bq/kg khô 0,235÷0,785 0,415÷0,786 0,012÷0,683 0,03÷3,73 
Gần đây, trong giai đoạn 2013-2015, một 
nhiệm vụ nghiên cứu cấp Bộ do Viện KHKTHN 
chủ trì thực hiện về “Xác định độ phóng xạ của 
đồng vị phóng xạ nhân tạo Cs tại một điểm trong 
môi trường biển miền Bắc Việt Nam từ sự cố nhà 
máy điện hạt nhân FUKUSHIMA DAI ICHI” 
đặt ra yêu cầu xây dựng được bộ số liệu nền và 
phát hiện sự thay đổi nếu có về hoạt độ riêng 
134Cs, 137Cs để phát hiện sự lan tỏa phóng xạ từ 
Fukushima đến vùng biển nước ta. Do khuôn khổ 
khiêm tốn của đề tài và việc lấy mẫu và xử lý sơ 
bộ mẫu tại hiện trường trên biển là rất khó khăn, 
tốn kém, nên chỉ có thể thiết kế một số điểm khảo 
sát có tính tiêu biểu nhất là: Cửa Đại, Móng Cái; 
Đảo Bạch Long Vĩ; Vạn Hoa, Cái Rồng - Quảng 
Ninh; và đảo Cồn Cỏ (Hình 2).
Chỉ tiêu phân tích là các đồng vị phóng 
xạ tự nhiên (U, Th, K, Pb-210) và một số đồng vị 
phóng xạ nhân tạo (Cs-134, Cs-137, H-3) trong 
các đối tượng mẫu trầm tích, sinh vật và nước 
biển.
Hình 2. Các vị trí lấy mẫu trên vịnh Bắc 
Bộ
Các kết quả thu được cũng rất khiêm tốn, 
đã phân tích và đưa ra sơ bộ các số liệu về mức 
nền của các nhân phóng xạ tự nhiên và nhân tạo 
(238U, 232Th, 40K, 137Cs, 134Cs, 210Po, 210Pb) trong 
các đối tượng môi trường biển: nước biển, trầm 
tích bề mặt, một số sinh vật biển được thu thập tại 
một số vị trí thuộc vùng biển miền Bắc Việt Nam; 
đồng thời đã phát hiện tín hiệu lan tỏa ô nhiễm 
các nhân phóng xạ từ Fukushima đến biển Đông 
(thông qua 137Cs và 134Cs), tín hiệu này được ghi 
nhận vào năm 2016 tức là trùng khớp với các 
giá trị mô phỏng. Tuy nhiên, tín hiệu ô nhiễm 
các nhân phóng xạ này là rất nhỏ vì đã bị nhanh 
chóng pha loãng vào môi trường biển, không có 
đóng góp đáng kể nào cho liều công chúng Việt 
Nam từ sự cố phóng xạ Fukushima [4].
Năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 
tiếp tục cho phép mở thêm một số vị trí quan trắc 
thông qua nhiệm vụ: ‟Quan trắc và phân tích 
phóng xạ môi trường biển tại tỉnh Ninh Thuận; 
Gành Rái tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và tỉnh Cà Mau” 
do Viện NCHN chủ trì (Hình 3). So với những 
năm trước, giảm điểm quan trắc tại xã Phước 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
8 Số 55 - Tháng 06/2018
Dinh, tỉnh Ninh Thuận; bổ sung thêm 2 điểm 
quan trắc tại Gành Rái, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu 
và huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Việc thêm 2 
điểm quan trắc mới cũng chỉ giúp đánh giá theo 
không gian thực trạng mức hiện hữu các nguyên 
tố phóng xạ chủ yếu trong các thành phần môi 
trường biển ở một số tỉnh phía Nam mà thôi.
Hình 3. Các điểm quan trắc PXMT biển 
từ năm 2018
Hình 4. Các điểm quan trắc dự kiến trong 
mạng lưới QTPX môi trường biển.
III. Giải pháp
Trước tình hình một số các nhà máy ĐHN 
Trung Quốc được xây dựng và vận hành sát biên 
giới Việt Nam cũng như các hoạt động phát triển 
kinh tế dọc theo bờ biển như đã đề cập ở trên cho 
thấy cần phải:
1) Triển khai sớm Mạng lưới quan trắc 
và cảnh báo phóng xạ môi trường biển quốc gia 
(Hình 4 - Mạng lưới được thiết kế thông qua thực 
hiện nhiệm vụ cấp Bộ năm 2010 đã nghiệm thu, 
gồm 11 điểm quan trắc ở giai đoạn 1); 
2) Nâng cao năng lực quan trắc (về cơ sở 
vật chất, trang thiết bị, đào tạo nhân lực) đủ cho 
các đơn vị tham gia trong mạng lưới.
Song song, cũng cần phải có kế hoạch 
nghiên cứu phát triển áp dụng các kỹ thuật mới 
như quan trắc online, mô phỏng phát tán chất 
phóng xạ trong môi trường nước, để giảm bớt 
việc lấy mẫu hiện trường và phân tích trong phòng 
thí nghiệm - một trong những công việc hết sức 
nặng nhọc, nguy hiểm, tốn nhiều công sức và kể 
cả về mặt tài chính. Có như vậy mới giúp chúng ta 
nhanh chóng và kịp thời phát hiện được mọi diễn 
biến bất thường về tình trạng phóng xạ trong môi 
trường biển, phát hiện được bất kỳ sự cố, tai nạn 
hạt nhân nào trong khu vực cũng như biết được 
nguồn gốc của các sự cố, tai nạn ấy. Quan trọng 
hơn là kết quả quan trắc sẽ giúp chúng ta đưa ra 
được các biện pháp và hành động ứng phó kịp 
thời, giảm thiểu được thiệt hại cho môi trường, 
cho công chúng và xã hội khi xảy ra sự cố.
Nguyễn Trọng Ngọ
__________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thanh Bình và cộng sự, 2003. 
Báo cáo đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu phát triển các 
phương pháp phân tích hạt nhân chủ yếu và ứng 
dụng tình trạng đánh giá phóng xạ môi trường 
biển ở một số vùng điển hình của Việt Nam”, mã 
số BO/00/01-04.
[2] Nguyễn Trọng Ngọ và cộng sự, 2004. 
Báo cáo đề tài cơ sở “Tổng kết đánh giá các kết 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
9Số 55 - Tháng 06/2018
quả nghiên cứu về phóng xạ môi trường biển; 
bước đầu sơ bộ đánh giá liều tích lũy tập thể dân 
chúng do sử dụng hải sản ở một số vùng điển 
hình của Việt Nam”.
[3] Nguyễn Văn Phúc và Cộng sự (2012-
2017). Báo cáo tổng kết nhiệm vụ cấp Bộ về: 
“Quan trắc và phân tích PXMT biển tại hai địa 
điểm dự kiến xây dựng nhà máy ĐHN thuộc tỉnh 
Ninh Thuận”.
[4] Nguyễn Quang Long và Cộng sự 
(2017). Báo cáo tổng kết nhiệm vụ cấp Bộ về: 
“Xác định độ phóng xạ của đồng vị phóng xạ 
nhân tạo Cs tại một điểm trong môi trường biển 
miền Bắc Việt Nam từ sự cố nhà máy điện hạt 
nhân FUKUSHIMA DAI ICHI”, Mã số: 04/HĐ/
NV.
[5] Báo cáo quốc gia của Trung Quốc 
năm 2016 trong khuôn khổ cuộc họp lần 7 của 
Công ước An toàn hạt nhân do IAEA tổ chức, 
tháng 4, 2016.
[6] IAEA Marine Information System 
(MARiS), https://maris.iaea.org/
[7] Michio Aoyama, IAEA Scientific 
Forum 17-18 September 2013 Vienna, Austria. 
[8] UNSCEAR-2000, Sources and Effects 
of Ionizing Radiation, UN, New York, 2000.
[9] Emerenciana B. Duran, 2000. IAEA/
RCA/UNDP Project RAS 080, Version 2 part 1 
on Asia-Pacific marine radioactivity database 
(ASPAMARD).
[10] IAEA-TECDOC-1094, 1999. Pro.
Inter. Sym, Marine pollution, Vienna.

File đính kèm:

  • pdfquan_trac_phong_xa_moi_truong_bien_viet_nam_thuc_trang_va_gi.pdf