Quan niệm về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes

Niccolò Machiavelli và Thomas Hobbes là hai triết gia lớn phương Tây có quan

niệm giống nhau về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền. Nói

chính xác hơn, Thomas Hobbes là người kế thừa tư tưởng của Niccolò

Machiavelli mặc dù không thấy Hobbes trích dẫn hay nhắc gì đến tên nhà triết

học chính trị lớn nhất thời Phục hưng này trong các tác phẩm của ông. Bài viết

này khám phá quan niệm của Machiavelli và Hobbes về bản chất con người,

trên cơ sở đó làm rõ tư tưởng triết học pháp quyền của hai ông. Từ việc nhận

thức tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes, bài viết còn chỉ

ra ý nghĩa và tính ứng dụng của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền

hiện nay ở Việt Nam

pdf 8 trang kimcuc 2500
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes

Quan niệm về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes
1 
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC 
QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ 
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN CỦA 
MACHIAVELLI VÀ HOBBES 
VÕ CHÂU THỊNH 
Niccolò Machiavelli và Thomas Hobbes là hai triết gia lớn phương Tây có quan 
niệm giống nhau về bản chất con người và tư tưởng triết học pháp quyền. Nói 
chính xác hơn, Thomas Hobbes là người kế thừa tư tưởng của Niccolò 
Machiavelli mặc dù không thấy Hobbes trích dẫn hay nhắc gì đến tên nhà triết 
học chính trị lớn nhất thời Phục hưng này trong các tác phẩm của ông. Bài viết 
này khám phá quan niệm của Machiavelli và Hobbes về bản chất con người, 
trên cơ sở đó làm rõ tư tưởng triết học pháp quyền của hai ông. Từ việc nhận 
thức tư tưởng triết học pháp quyền của Machiavelli và Hobbes, bài viết còn chỉ 
ra ý nghĩa và tính ứng dụng của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền 
hiện nay ở Việt Nam. 
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA NICCOLÒ 
MACHIAVELLI VÀ THOMAS HOBBES 
1.1. Niccolò Machiavelli (1469 - 1527), 
tên đầy đủ là Niccolò di Bernardo 
Machiavelli, là nhà chính trị tài ba 
trong chính quyền cộng hòa Firenze 
(từ năm 1498 đến năm 1512), vừa là 
nhà triết học chính trị vĩ đại nhất 
không chỉ của Italia mà còn của cả 
phương Tây thời Phục hưng. Trong 
thời gian làm chính trị gia, Machiavelli 
đảm đương cả công việc đối nội lẫn 
đối ngoại của thành quốc Firenze với 
chức danh Cancelliere – tương đương 
với cả hai chức bộ trưởng quốc phòng 
và bộ trưởng ngoại giao ngày nay. 
Sau khi nền cộng hòa Firenze bị sụp 
đổ và gia đình Medici tái áp đặt một 
nền quân chủ chuyên chế ở Firenze, 
Machiavelli bị buộc phải từ bỏ chức vụ, 
Võ Châu Thịnh. Thạc sĩ. Trường Đại học 
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học 
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
 VÕ CHÂU THỊNH – QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ 
2 
lui về cuộc sống dân thường ở ngoại 
ô thành phố. Chính nơi đây, ông đã 
viết nên những tác phẩm triết học 
chính trị vĩ đại, mở ra một thời kỳ phát 
triển mới của lịch sử triết học phương 
Tây. Trong số các sáng tác của 
Machiavelli, tác phẩm Il Principe (Quân 
vương) có ảnh hưởng sâu rộng và gây 
nhiều tranh cãi nhất. Il Principe được 
xem là quyển sách dạy cho các bậc 
vua chúa nghệ thuật giành, giữ và 
thực thi quyền lực chính trị trong chế 
độ quân chủ chuyên chế. Tuy nhiên, 
mục đích chính của Machiavelli khi 
viết Il Principe là để kêu gọi một vị tân 
vương mạnh mẽ, sáng suốt đứng lên 
thống nhất tổ quốc, đuổi ngoại binh ra 
khỏi lãnh thổ Italia, và thay thế những 
thiết chế chính trị cũ bằng thiết chế 
chính trị mới theo hướng cộng hòa 
hỗn hợp. Tư tưởng này được 
Machiavelli trình bày cặn kẽ hơn trong 
tác phẩm Discorsi sopra la prima Deca 
di Tito Livio (Luận bàn về mười quyển 
sách đầu của Livy) – tác phẩm đồ sộ 
nhất và thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng 
và lập trường cộng hòa của ông. 
Niccolò Machiavelli được những 
người theo chủ nghĩa Marx đánh giá 
cao vì quan niệm chính trị phi tôn 
giáo, gạt thần quyền ra khỏi thế 
quyền của ông. Karl Marx và Friedrich 
Engels viết (1986, tr. 439): “kể từ 
Machiavelli, quan điểm lý luận về 
chính trị đã được giải phóng khỏi đạo 
đức, và không có cái gì khác được 
chấp nhận ngoài cái định đề là sự 
nghiên cứu chính trị một cách độc lập”. 
Antonio Gramsci – nhà tư tưởng 
Marxist lớn của thế kỷ thứ XX, đồng 
thời là người sáng lập và lãnh đạo 
Đảng Cộng sản Italia – cho rằng học 
thuyết triết học của Machiavelli đã 
không che giấu được tính chất cách 
mạng thật sự (Các học giả Liên bang 
Nga, 2001, tr. 210). 
1.2. Thomas Hobbes (1588 - 1679) là 
một trong những nhà triết học chính trị 
lỗi lạc người Anh. Cha của Thomas 
Hobbes là một tu sĩ nghèo, nhưng ông 
may mắn được người bác giàu có của 
mình chu cấp tiền bạc cho học tiếng 
Latin và những kiến thức kinh điển Hy 
Lạp. Sự thông minh của Hobbes cùng 
với sự giúp đỡ của người bác ruột đã 
đưa Hobbes bước vào giảng đường 
đại học Oxford năm 1603. Tại đây, 
Hobbes học triết học kinh viện nhưng 
không tỏ ra hứng thú bằng học môn 
logic. Hobbes hoàn thành chương 
trình cử nhân vào năm 1608. Khoảng 
đầu những năm 1620, Hobbes kết bạn 
với triết gia Francis Bacon và làm thư 
ký cho Bacon. Năm 1636, Hobbes đến 
Italia và gặp nhà khoa học Galileo 
Galilei, triết học của Hobbes chịu ảnh 
hưởng của hình học và khoa học tự 
nhiên kể từ đó. Năm 1637, Hobbes 
quay về Anh chứng kiến sự mâu 
thuẫn sâu sắc giữa vua và nghị viện. 
Năm 1640, bản thảo Những nguyên lý 
của pháp luật, tự nhiên và chính trị 
(The elements of law, natural, and 
politic) của Hobbes được phát tán. 
Tháng 5 năm 1640, nghị viện bị vua 
giải tán. Hobbes phải chạy trốn sang 
Paris vì bị nghị viện Anh kết tội ủng hộ 
vua. Tại Pháp, năm 1642, Hobbes cho 
xuất bản tác phẩm De Cive (Công dân) 
bằng tiếng Latin. Năm 1651 Hobbes 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015 
3 
tiến đến đỉnh cao sự nghiệp của mình 
với tác phẩm để đời là Leviathan or 
the Matter, Form and Power of a 
Commonwealth Ecclesiastical and 
Civil (Thủy quái, hay là vấn đề, hình 
thức và quyền lực của nhà nước giáo 
hội và dân sự). Ngày 4/12/1679, 
Thomas Hobbes qua đời tại Hardwick 
Hall, thọ 91 tuổi. 
Trong quyển History of political 
philosophy (Lịch sử triết học chính trị), 
giáo sư Leo Straus gọi Thomas Hobbes 
là “nhà tư tưởng hậu Machiavelli” (Leo 
Strauss và Joseph Cropsey, 1987, tr. 
297). Giáo sư triết học Anthony Kenny 
(2006, tr. 45), tác giả bộ sách A New 
History of Western Philosophy (Lịch 
sử triết học phương Tây mới), được 
xuất bản bởi Đại học Oxford, cho rằng 
Leviathan là tác phẩm làm cho 
Hobbes muôn đời lưu danh (“he wrote 
the work that was to give him 
immortality”). Còn Stephen J. Finn 
(2006, tr. 1), tác giả quyển sách mang 
tên Thomas Hobbes and the politics of 
natural philosophy (Thomas Hobbes 
và chính trị của triết học tự nhiên) do 
Continuum xuất bản tại Anh năm 2006 
viết: tuyệt tác Leviathan của Hobbes 
đã làm ông trở thành một trong những 
nhà triết học chính trị lỗi lạc đầu tiên 
trong lịch sử nước Anh. 
2. QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON 
NGƯỜI VÀ TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN 
CỦA NICCOLÒ MACHIAVELLI VÀ 
THOMAS HOBBES 
2.1. Quan niệm của Niccolò Machiavelli 
về bản chất con người được biết rộng 
rãi trước tiên từ tác phẩm Il Principe. 
Trong tác phẩm này, Niccolò Machiavelli 
lột tả bản chất con người bằng những 
từ ngữ tiêu cực. Nói cách khác, 
Machiavelli đã vẽ một bức chân dung 
khá ảm đạm về bản chất con người, 
nhưng theo ông, đó mới là bức chân 
dung chân thật cần phải được nhìn 
nhận nếu chúng ta không muốn tiếp 
tục có thêm những giải pháp chính trị 
viển vông, kém hiệu quả. Trong 
chương 17 của tác phẩm Il Principe, 
Machiavelli (1921, tr. 66) viết: “Có thể 
nói chung về con người rằng họ vô ơn, 
lém lỉnh, gian trá, luôn muốn tránh sự 
nguy hiểm, và khát thèm lợi ích; khi 
nào ngài còn làm lợi cho họ thì họ còn 
hoàn toàn thuộc về ngài; họ hiến dâng 
cho ngài máu, tài sản, cuộc sống, và 
con cái của họ khi cảnh nghèo túng 
còn xa, như tôi đã nói trước; nhưng 
khi cảnh nghèo túng đến gần thì họ 
nổi loạn”. 
Trong tác phẩm Discorsi sopra la prima 
Deca di Tito Livio, Niccolò Machiavelli 
tiếp tục làm rõ thêm bản chất xấu xa 
của con người. Mục đích của 
Machiavelli trong tác phẩm Discorsi 
sopra la prima Deca di Tito Livio chủ 
yếu là nhằm khẳng định sự cần thiết 
phải tôn trọng nguyên tắc pháp quyền, 
phải điều chỉnh hành vi của con người 
bằng pháp luật thì con người mới trở 
nên tốt và xã hội mới đảm bảo sự ổn 
định và công bằng. Nếu không dùng 
một hệ thống luật pháp thật rõ ràng, 
chặt chẽ và áp dụng chúng một cách 
thật công minh thì sẽ không thể nào 
kiểm soát nổi tính ác của con người. 
Tuy nhiên, Machiavelli giải thích, trong 
thực tế không phải lúc nào con người 
cũng bộc lộ bản chất xấu của họ cho 
 VÕ CHÂU THỊNH – QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ 
4 
người khác nhìn thấy, nhưng khi hội 
đủ điều kiện thuận lợi và thời cơ chín 
muồi thì dường như không ai từ chối 
làm điều ác. Trong chương 3, quyển 1, 
tác phẩm Discorsi sopra la prima 
Deca di Tito Livio, Niccolò Machiavelli 
(1996, tr. 15) viết như sau: “Những ai 
thiết lập một nền cộng hòa và xây 
dựng pháp luật trong nền cộng hòa ấy 
cần giả định trước rằng mọi người 
đều xấu, và rằng họ luôn sử dụng tính 
ác của họ bất kỳ khi nào họ có cơ hội. 
Khi bất kỳ tính ác nào còn ẩn khuất 
một thời gian, điều này bắt nguồn từ 
nguyên nhân bị che khuất, chưa được 
nhận ra bởi vì không có kinh nghiệm 
đối lập nào đã được thấy. Nhưng thời 
gian, là cha đẻ của mọi sự thật, phơi 
bày nó ra sau đó”. 
Niccolò Machiavelli tin rằng con người 
chỉ làm điều tốt khi không còn có sự 
lựa chọn nào khác. Không ai tự giác 
làm điều gì tốt cả, mọi hành động tốt 
của con người đều là kết quả của 
những hoàn cảnh mà trong đó con 
người không thể làm gì khác. Như vậy, 
muốn có những con người tốt và một 
xã hội công bằng, bình an, thịnh trị thì 
nhất định phải tạo ra những điều kiện 
và hoàn cảnh cho điều tốt diễn ra, đó 
là hệ thống luật pháp. Luật pháp là 
khuôn khổ đảm bảo cho mọi hoạt 
động của con người nằm trong sự 
kiểm soát và dứt khoát không để cho 
những sự phóng túng, tùy tiện xảy ra. 
Đề cao pháp luật, thực hiện nghiêm 
túc nguyên tắc nhà nước pháp quyền 
là đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết 
học chính trị theo đường hướng cộng 
hòa của Niccolò Machiavelli. Ông nhấn 
mạnh: “Con người không bao giờ làm 
bất kỳ điều gì tốt nếu không vì hoàn 
cảnh bắt buộc, nhưng nơi nào mà sự 
lựa chọn có thừa và con người có thể 
tận dụng sự phóng túng thì lập tức 
mọi thứ sẽ hỗn loạn và lộn xộn. Do đó 
người ta nói rằng đói và nghèo làm 
cho con người siêng năng, còn luật 
pháp thì làm cho họ tốt. Ở nơi nào mà 
một điều gì đó tự nó xảy ra một cách 
tốt đẹp mà không có luật pháp thì luật 
pháp là không cần thiết; nhưng khi 
một số phong tục tốt đẹp đang thiếu 
vắng thì lập tức luật pháp là cần thiết” 
(Niccolò Machiavelli, 1996, tr. 15). 
2.2. Tác phẩm Leviathan, or the Matter, 
Form and Power of a Commonwealth 
Ecclesiastical and Civil là một trong 
những tác phẩm thể hiện rõ nhất quan 
niệm của Thomas Hobbes về bản chất 
con người và triết học pháp quyền. 
Đây cũng là tác phẩm đã kế thừa 
quan niệm của Niccolò Machiavelli. 
Chính từ việc nhìn nhận về bản chất 
con người giống nhau mà Niccolò 
Machiavelli và Thomas Hobbes đã có 
những điểm tương đồng trong đề xuất 
các giải pháp cai trị con người và xã 
hội một cách thiết thực và hiệu quả. 
Manfred J. Holler (Đức) trong bài 
Niccolò Machiavelli on Power (Niccolò 
Machiavelli về quyền lực) in trong 
quyển Niccolò Machiavelli: History, 
Power, and Virtue, do Leonidas Donskis 
chủ biên năm 2011, viết: “Machiavelli 
thường được xem như là người thầy 
của Thomas Hobbes. Rõ ràng, những 
quan niệm của hai ông về bản chất 
con người và chức năng quyền uy 
nhà nước có nhiều tương đồng. Trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015 
5 
một chừng mực nào đó, hai ông cũng 
có cùng số phận ở chỗ những tác 
phẩm của hai ông đã không được 
đánh giá cao trong một thời gian và 
thậm chí ngày nay các tác phẩm của 
hai ông cũng gặp phải lắm sự e dè” 
(Leonidas Donskis, 2011, tr. 35). 
Tương tự như Niccolò Machiavelli, 
Thomas Hobbes (1651, tr. 96) cũng 
cho rằng bản chất con người là tham 
lam, ích kỷ và hám danh khiến họ đua 
tranh, xâm chiếm, thích sự vinh quang 
và nổi danh hơn người khác. Thomas 
Hobbes (1651, tr. 130) khẳng định: 
“con người, mà sự vui mừng của họ 
cốt ở việc so sánh bản thân với những 
người khác”. Điều này có nghĩa rằng, 
bản chất tự nhiên của con người, theo 
Hobbes, là thích ganh đua để trở 
thành người chiến thắng chứ không 
muốn cùng chia sẻ vinh quang với 
người khác một cách bình đẳng. Hơn 
thế nữa, Hobbes (1651, tr. 131) còn 
viết: “con người là kẻ gây rắc rối nhất 
khi anh ta thoải mái nhất; anh ta thích 
phô trương sự hiểu biết của mình”. So 
sánh sự giống nhau giữa Machiavelli 
và Hobbes trong quan niệm về bản 
chất con người và từ đó dẫn đến giải 
pháp của hai ông trong việc giữ vững 
sự cố kết xã hội một cách hiệu quả, 
Frederick Copleston (1994, tr. 312) 
viết: “Cả Machiavelli và Hobbes đều 
tin vào sự ích kỷ cơ bản của các cá 
nhân; và kết quả tự nhiên của niềm tin 
này là sự tin chắc rằng chỉ có một 
quyền lực tập trung mạnh và được tự 
do mới có khả năng kiềm chế và vượt 
qua sức mạnh phân quyền, cái có 
khuynh hướng làm tan rã xã hội”. 
Chính vì bản chất tự nhiên đó của con 
người mà Hobbes tin không ai có thể 
sống một cách an toàn bên cạnh 
những đồng loại của mình trừ phi có 
một quyền lực chung đủ mạnh làm 
cho mọi người kính sợ. Bởi thế, trong 
điều kiện tự nhiên thuần túy, tức 
không có nhà nước, thì mỗi người là 
kẻ thù của nhau, con người phải sống 
trong tình trạng chiến tranh chống lại 
nhau. Thomas Hobbes (1651, tr. 96) 
viết: “Rõ ràng rằng trong suốt thời 
gian con người sống mà không có một 
quyền lực chung để giữ cho tất cả họ 
kính sợ, thì họ ở trong điều kiện được 
gọi là chiến tranh; và đó là cuộc chiến 
giống như là của mỗi người chống lại 
mỗi người. Vì chiến tranh không chỉ là 
cuộc chiến đấu hoặc hành động giao 
chiến mà còn là khoảng thời gian mà 
trong đó ý chí đấu tranh để thắng đối 
thủ bằng cuộc chiến đấu được biết 
một cách đầy đủ; và do đó ý niệm về 
thời gian được coi như trong thời gian 
của chiến tranh”. 
Hobbes đã chỉ ra rằng, trong cuộc 
chiến của mỗi người chống lại mỗi 
người đó, không ai có thể nhờ vào 
sức mạnh và sự thông minh cá nhân 
để tự bảo vệ mình một cách hiệu quả 
và lâu dài được. Vì mỗi con người 
riêng rẽ thực chất rất dễ bị đánh bại 
trong tình trạng tự nhiên vô chính phủ. 
Hobbes (1651, tr. 92) thuyết phục mọi 
người bằng một sự so sánh rất đắt: 
“TỰ NHIÊN đã tạo nên những con 
người rất bình đẳng về năng lực thể 
chất và tinh thần, mặc dù có thể thấy 
một người này đôi khi mạnh hơn về 
thể chất hoặc lanh lợi hơn về trí tuệ 
 VÕ CHÂU THỊNH – QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ 
6 
một cách rõ rệt so với người khác, 
nhưng xét về thể lực, người yếu 
nhất cũng có đủ sức mạnh để giết kẻ 
mạnh nhất, kể cả bằng mưu đồ hoặc 
bằng cách liên minh với những người 
khác cùng lâm vào cảnh nguy hiểm 
như anh ta”. 
Như vậy, từ sự phân tích bản tính tự 
nhiên và điều kiện sống tự nhiên 
không có nhà nước của con người, 
Hobbes đã vẽ nên con đường tất yếu 
mà con người phải chọn bằng lý trí 
của họ để đi từ trạng thái con người 
tự nhiên sang trạng thái con người 
công dân, tức chuyển từ xã hội loài 
người không có nhà nước sang xã hội 
có một quyền lực công cộng mạnh mẽ 
để có thể bảo vệ một cách hiệu quả 
từng người trong xã hội với nhau. 
Hobbes (1651, tr. 162) viết: “để có hòa 
bình và bảo tồn bản thân mà con 
người đã tạo ra một con người nhân 
tạo mà chúng ta gọi là Nhà nước; và 
cũng tạo ra một sợi xích nhân tạo mà 
chúng ta gọi là Luật dân sự”. Đây 
cũng là lý do vì sao Hobbes dùng chữ 
“Leviathan” (Thủy quái) để làm tựa đề 
chính cho tác phẩm triết học chính trị 
lớn nhất trong sự nghiệp của mình. 
Hobbes mượn hình ảnh khổng lồ và 
sức mạnh siêu nhiên của con Thủy 
quái (thật ra đây cũng là sản phẩm 
của trí tưởng tượng của con người) 
để mô tả mô hình nhà nước của ông. 
Vì theo Hobbes, “Leviathan” là nhân 
vật diễn tả tốt nhất “nhà nước” với tư 
cách là “con người nhân tạo” mạnh 
mẽ, đầy quyền lực, có thể ngăn chặn 
một cách hiệu quả nhất những điều 
trái với luật tự nhiên nhằm đảm bảo 
sự công bằng, sự cố kết và trật tự xã 
hội. Hobbes đã giải thích khá rõ ràng 
khái niệm “Leviathan” mà ông đã sử 
dụng trong tác phẩm nổi tiếng nhất 
của mình. Thậm chí Hobbes (1651, tr. 
131-132) còn cẩn thận dùng một khái 
niệm Latin để cắt nghĩa cho rõ hơn: 
“nó là một sự thống nhất thật sự của 
tất cả họ vào một người giống nhau, 
được tạo nên bởi sự thỏa ước của 
mỗi người đối với mỗi người trong 
cách thức làm như là mỗi người nói 
với mỗi người rằng: tôi ủy quyền và từ 
bỏ quyền quản lý chính mình của tôi 
cho người này, hoặc cho nhóm người 
này, trong điều kiện này; rằng ngươi 
từ bỏ quyền của ngươi cho ông ấy và 
cho phép tất cả hành động của ông ấy 
theo cách ưa thích. Điều này được 
làm thì dân chúng thống nhất trong 
một người được gọi là một NHÀ 
NƯỚC; trong tiếng Latin là CIVITAS. 
Đây là sự tạo nên một THỦY QUÁI 
khổng lồ, hoặc đúng hơn, nói một 
cách cung kính hơn, một thượng đế 
khả tử mà nhờ đó chúng ta có được, 
dưới một Thượng đế bất tử, sự hòa 
bình và sự phòng thủ của chúng ta”. 
Frederick Copleston (một học giả ở 
Oxford, tác giả bộ Lịch sử triết học – A 
history of philosophy - 9 tập, xuất bản 
tại Mỹ, Anh, Canada, Úc và New 
Zealand) biểu lộ sự đồng tình với 
quan điểm của Hobbes cả về vấn đề 
bản chất con người, chức năng cơ 
bản của nhà nước, và quyền lực tuyệt 
đối, tối cao của người đứng đầu nhà 
nước: “Nhà nước đối với Hobbes là 
phương tiện đoàn kết những cá nhân 
xung khắc nhau; và nhà nước không 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015 
7 
thể thực hiện chức năng này trừ phi 
nguyên thủ quốc gia có quyền uy tuyệt 
đối và không giới hạn. Nếu bản chất 
con người là vị kỷ và luôn như thế thì 
chỉ có quyền lực tập trung, được trao 
cho quốc chủ, mới có thể giữ họ lại 
với nhau một cách hiệu quả” 
(Frederick Copleston, 1994, tr. 47). Đỗ 
Minh Hợp (2014, tr. 116, 117) cũng 
chia sẻ: “Với Hobbes, trạng thái hòa 
bình và tương trợ là không thể có 
được nếu thiếu nhà nước mạnh. Và 
nhà nước mạnh ở đây không phải là 
kiểu nhà nước độc tài, tàn bạo tùy tiện 
như nhà nước của những tên bạo 
chúa mà là nhà nước của một đấng 
minh quân quyết đoán, sẵn sàng làm 
những điều táo bạo, bất chấp những 
chuẩn mực đạo đức thông thường 
miễn sao kết quả cuối cùng là ích 
nước, lợi dân”, và “Hobbes kiên định 
quyền lực mạnh, nhưng phải là quyền 
lực dựa trên luật pháp và lý tính”. Tư 
tưởng này của Hobbes cũng chính là 
suy nghĩ của Machiavelli trong thời 
Phục hưng ở Italia. 
3. TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN CỦA 
MACHIAVELLI VÀ HOBBES VỚI VIỆC 
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 
HIỆN NAY 
Nhà nước pháp quyền của dân, do 
dân và vì dân đang được xây dựng và 
ngày càng hoàn thiện dần ở Việt Nam 
và nhiều nước khác trên thế giới là 
thành quả tất yếu của tiến trình phát 
triển lâu dài của lịch sử tư tưởng nhân 
loại. Trong tiến trình đó, triết học pháp 
quyền của Machiavelli và Hobbes có 
vai trò như những mắt xích góp phần 
nhất định vào sự phát triển chung dù 
tư tưởng của hai ông cũng không 
tránh khỏi những hạn chế mang tính 
lịch sử. Đáng lưu ý và còn giữ nguyên 
giá trị trong tư tưởng triết học pháp 
quyền của hai ông trước hết là quan 
điểm nhà nước phải đóng vai trò là 
một quyền lực công mạnh mẽ để có 
thể bảo vệ một cách hiệu quả từng 
người trong xã hội, giúp con người 
thoát khỏi tình trạng chiến tranh chống 
lại lẫn nhau. Điều này rất phù hợp với 
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt 
Nam hiện nay về xây dựng nhà nước 
pháp quyền trong sạch vững mạnh 
của dân, do dân, vì dân, nhằm giữ 
vững sự ổn định chính trị-xã hội, phát 
triển toàn diện đời sống vật chất và 
tinh thần cho người dân. Machiavelli 
và Hobbes yêu cầu luật pháp phải thể 
hiện ý chí chung của nhân dân và luật 
của tự nhiên; các nhà lãnh đạo Đảng 
và Nhà nước Việt Nam hiện nay cũng 
khẳng định Hiến pháp và pháp luật 
Việt Nam luôn phải phản ánh tâm tư 
nguyện vọng của quần chúng nhân 
dân. Giống như quan điểm của 
Machiavelli và Hobbes, các nhà lãnh 
đạo nhà nước Việt Nam hiện nay 
cũng quyết tâm quản lý con người và 
xã hội bằng hệ thống luật pháp rõ 
ràng, chặt chẽ, và đảm bảo xét xử 
công bằng, không để bất kỳ hành vi 
tùy tiện nào xảy ra. Song song đó, 
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng 
nêu cao tinh thần thượng tôn pháp 
luật, không để cá nhân hoặc tổ chức 
nào có quyền đứng trên và đứng 
ngoài pháp luật. Lời khuyên của 
Machiavelli đối với những ai thiết lập 
một nền cộng hòa và xây dựng pháp 
 VÕ CHÂU THỊNH – QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ 
8 
luật trong nền cộng hòa cần giả định 
trước rằng mọi người đều xấu, và rằng 
họ luôn sử dụng tính ác của họ bất kỳ 
khi nào họ có cơ hội cũng rất hữu ích 
trong điều kiện hiện nay. Rõ ràng, chỉ 
có giả định như thế thì mới có thể xây 
dựng được một hệ thống pháp luật 
chặt chẽ, hạn chế tối đa những “kẽ 
hở” pháp luật, ngăn chặn hiệu quả 
những hành vi làm tổn hại đến lợi ích 
cá nhân, tập thể và cả quốc gia. 
Nhìn chung, quan niệm của Machiavelli 
và Hobbes về bản chất con người và 
triết học pháp quyền của hai ông 
chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, 
không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc 
mà còn có ý nghĩa thực tiễn sinh 
động. Triết học pháp quyền của hai 
ông là nguồn tư liệu quý báu cho giới 
nghiên cứu lý luận hiện nay và mai 
sau kế thừa và phát triển. Tư tưởng 
của hai ông hoàn toàn có thể vận 
dụng vào đời sống chính trị hiện nay 
để nâng cao hiệu quả quản lý của bộ 
máy nhà nước, đem lại sự ổn định 
chính trị-xã hội và tạo điều kiện cho 
sự phát triển bền vững mọi mặt của 
đất nước.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. C. Mác và Ph. Ăngghen. 1986. Toàn tập, tập 3. Hà Nội: Nxb. Sự thật. 
2. Các học giả Liên bang Nga. 2001. Lịch sử các học thuyết chính trị thế giới. Nxb. Đại 
học Matxcova, Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái dịch, Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông 
tin. 
3. Copleston, Frederick. 1994. A History of Philosophy, Volume V: Modern philosophy – 
The British philosophers from Hobbes to Hume. New York: Doubleday. 
4. Đỗ Minh Hợp. 2014. Lịch sử triết học phương Tây, tập 2: Triết học phương Tây cận 
hiện đại. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
5. Donskis, Leonidas (ed.). 2011. Niccolò Machiavelli: History, Power, and Virtue. 
Amsterdam - New York: Rodopi. 
6. Hobbes, Thomas. 1651. Leviathan, or the Matter, Form and Power of a 
Commonwealth Ecclesiastical and Civil. Reprinted From the Edition of 1651, Impression 
of 1929, First edition 1909. Great Britain: Oxford University Press. 
7. Kenny, Anthony. 2006. A New History of Western Philosophy, Vol. 3: The Rise of 
Modern Philosophy. New York: Oxford University Press. 
8. Machiavelli, Niccolò. 1921. The Prince. Translated by Luigi Ricci, London: Oxford 
University Press. 
9. Machiavelli, Niccolò. 1996. Discourses on Livy. Translated by Harvey C. Mansfield 
and Nathan, Tarcov, Chicago and London: The University of Chicago Press. 
10. Stephen, J. Finn. 2006. Thomas Hobbes and the Politics of Natural Philosophy. 
London: Continuum. 
11. Strauss, Leo and Joseph Cropsey (eds.). 1987. History of Political Philosophy, 3rd 
edition, Chicago and London: The University of Chicago Press. 

File đính kèm:

  • pdfquan_niem_ve_ban_chat_con_nguoi_va_tu_tuong_triet_hoc_phap_q.pdf