Quan hệ Việt Nam cộng hòa - Hoa Kỳ trong hội nghị Paris (1968 - 1973)

Đầu năm 1969, Hội nghị Paris về Việt Nam giữa bốn bên, Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và

Hoa Kỳ cùng Việt Nam Cộng hòa đã chính thức được tiến hành. Trong suốt quá

trình đàm phán tại Hội nghị Paris (1969 - 1973), Hoa Kỳ chủ yếu liên hệ trực tiếp

với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm đạt được những mục đích của mình,

gần như “bỏ rơi” đồng minh Việt Nam Cộng hòa. Điều này chứng minh phía Việt

Nam Cộng hòa chỉ là “bù nhìn”, vốn không có tiếng nói thực sự trong quá trình

đàm phán. Quan hệ giữa Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ thời gian này cũng rơi

vào tình trạng căng thẳng và nghi ngờ lẫn nhau khiến mối quan hệ đồng minh

này ngày càng rạn nứt trầm trọng. Bài viết đề cập về mối quan hệ giữa Việt Nam

Cộng hòa và Hoa Kỳ (1968 - 1973), làm rõ những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai

chính quyền này xuất phát từ góc độ lợi ích của mỗi bên khi tham gia Hội nghị.

pdf 15 trang kimcuc 4360
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ Việt Nam cộng hòa - Hoa Kỳ trong hội nghị Paris (1968 - 1973)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan hệ Việt Nam cộng hòa - Hoa Kỳ trong hội nghị Paris (1968 - 1973)

Quan hệ Việt Nam cộng hòa - Hoa Kỳ trong hội nghị Paris (1968 - 1973)
57 
CHUYÊN MỤC 
SỬ HỌC-NHÂN HỌC-NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO 
QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
TRONG HỘI NGHỊ PARIS (1968 - 1973) 
 TRẦN NAM TIẾN* 
Đầu năm 1969, Hội nghị Paris về Việt Nam giữa bốn bên, Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và 
Hoa Kỳ cùng Việt Nam Cộng hòa đã chính thức được tiến hành. Trong suốt quá 
trình đàm phán tại Hội nghị Paris (1969 - 1973), Hoa Kỳ chủ yếu liên hệ trực tiếp 
với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm đạt được những mục đích của mình, 
gần như “bỏ rơi” đồng minh Việt Nam Cộng hòa. Điều này chứng minh phía Việt 
Nam Cộng hòa chỉ là “bù nhìn”, vốn không có tiếng nói thực sự trong quá trình 
đàm phán. Quan hệ giữa Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ thời gian này cũng rơi 
vào tình trạng căng thẳng và nghi ngờ lẫn nhau khiến mối quan hệ đồng minh 
này ngày càng rạn nứt trầm trọng. Bài viết đề cập về mối quan hệ giữa Việt Nam 
Cộng hòa và Hoa Kỳ (1968 - 1973), làm rõ những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai 
chính quyền này xuất phát từ góc độ lợi ích của mỗi bên khi tham gia Hội nghị. 
Từ khóa: ngoại giao, chiến tranh Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ, Hội nghị 
Paris 
Nhận bài ngày: 30/5/2019; đưa vào biên tập: 18/6/2019; phản biện: 25/6/2019; 
duyệt đăng: 31/7/2019 
1. QUÁ TRÌNH ĐI ĐẾN ĐÀM PHÁN 
Ở HỘI NGHỊ PARIS CỦA HOA KỲ 
VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA 
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy 
Xuân Mậu Thân 1968, tư tưởng thất 
bại trong cuộc chiến ở Việt Nam đã 
bắt đầu xuất hiện trong nội bộ Hoa Kỳ. 
Tại Hoa Kỳ, hình ảnh tòa Đại sứ Hoa 
Kỳ được in trên trang nhất các báo với 
tựa lớn “Sứ quán đã bị Cộng sản 
chiếm”, kèm với những báo động về 
con số thương vong của quân đội Hoa 
Kỳ ở Việt Nam trong tháng 1 và tháng 
2 năm 1968 càng làm cho dư luận Mỹ 
phản đối sự tham gia cuộc chiến ở 
Việt Nam ngày càng tăng (Trevor B. 
*
 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
 TRẦN NAM TIẾN – QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
58 
McCrisken, 2003: 30-31). Walker 
Cronkrite, một bình luận gia truyền 
hình được xem có ảnh hưởng nhất đối 
với khán giả Mỹ đã nhận định: “Chiến 
tranh Việt Nam đang ở trong tình 
trạng tuyệt vọng và chỉ có sự thương 
thuyết mới đưa nước Mỹ ra khỏi bế 
tắc”. Ông ta nói thêm: “Càng ngày tôi 
càng thấy rõ con đường hợp lý duy 
nhất để thoát ra được là sự thương 
thuyết, không phải như là kẻ chiến 
thắng mà như một con người lương 
thiện” (Edward Jay Epstein, 1975: 81-
82). Nếu trước đây, những tuyên bố 
về “sáng kiến hòa bình”, “thương 
lượng không điều kiện” do Hoa Kỳ 
đưa ra chỉ là luận điệu tuyên truyền 
nhằm đánh lừa dư luận thế giới trước 
sự leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ 
ở Việt Nam(1), thì sau sự kiện Mậu 
Thân 1968, Hoa Kỳ buộc phải mở 
thêm kênh ngoại giao để tìm đường 
rút khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam 
trong “danh dự”, nhưng thực tế là 
nhằm cứu vãn sự bế tắc, khủng 
hoảng trong chiến lược toàn cầu của 
Hoa Kỳ trên thế giới. 
Trên cơ sở đó, ngày 31/3/1968, Chính 
phủ Hoa Kỳ tuyên bố ngừng ném bom 
miền Bắc và đề nghị đàm phán chính 
thức với phía Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa (Nicholas Khoo, 2011: 39). Bên 
cạnh việc mở cuộc tiếp xúc với phía 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ 
tìm cách trấn an đồng minh Việt Nam 
Cộng hòa. Năm 1965, khi đưa quân 
viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, 
Hoa Kỳ vẫn khẳng định là quốc gia 
này không mưu tìm lãnh thổ, thiết lập 
căn cứ quân sự hoặc giành địa vị ưu 
thế ở Việt Nam; một khi hòa bình đã 
được tái lập, Hoa Kỳ cam kết sẽ giảm 
ngay mọi sự can thiệp quân sự ở 
miền Nam Việt Nam...; và Hoa Kỳ 
không bỏ rơi bạn bè trong cuộc chiến 
đấu bảo vệ tự do (Henry Steele 
Commager, 1973: 698). Ngay từ 
tháng 12/1967, nhân lễ tưởng niệm 
Thủ tướng Australia tử nạn, trong 
cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Hoa Kỳ 
Johnson và Tổng thống Việt Nam 
Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu tại 
Canberra (Australia), phía Hoa Kỳ đã 
gợi ý chính quyền Sài Gòn nên tiếp 
xúc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng 
miền Nam Việt Nam nhằm đi tới một 
giải pháp chính trị cho miền Nam Việt 
Nam (Larry Berman, 1989: 123). Từ 
khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền 
Nam Việt Nam thành lập (20/10/1960), 
Việt Nam Cộng hòa luôn phủ nhận 
tính chính thể, không công nhận Mặt 
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 
Việt Nam đại diện cho quyền lợi của 
nhân dân miền Nam trong việc tiến tới 
thống nhất đất nước (Department of 
External Affairs, 1968: 136-138). Từ 
năm 1968 cho đến khi Hiệp định Paris 
được ký kết (1973), quan hệ Việt Nam 
Cộng hòa và Hoa Kỳ chủ yếu liên 
quan đến quá trình đàm phán ở Hội 
nghị Paris, có liên quan với hai chủ 
thể khác cũng tham gia ở Hội nghị là 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt 
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 
Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách 
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam 
Việt Nam (từ năm 1969). 
Sau sự kiện ngày 31/3/1968, Hoa Kỳ 
đã tiến hành một loạt các cuộc thảo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
59 
luận với chính quyền Việt Nam Cộng 
hòa về một giải pháp thương lượng 
với Hà Nội (Phillip B. Davidson, 1988: 
536-538; Charles Faber - Richard 
Faber, 2012: 213) trước khi chính 
thức bước vào thương lượng với Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa ở Paris, mở 
đầu là phiên họp ngày 13/5/1968. 
Theo đó, Hoa Kỳ giải thích việc chấm 
dứt ném bom trên phần lớn lãnh thổ 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm 
mang đến các cuộc thương lượng 
nghiêm chỉnh để lập lại hòa bình, nếu 
bên kia không lợi dụng lợi thế để tiếp 
tục chiến tranh (Nguyễn Phú Đức, 
2009: 176). Hoa Kỳ cũng khẳng định 
với Việt Nam Cộng hòa việc ngừng 
ném bom miền Bắc Việt Nam không 
thể tiếp tục vô thời hạn mà không có 
bất cứ điều kiện ràng buộc nào. Hoa 
Kỳ cũng đề nghị Việt Nam Cộng hòa 
hãy tham gia Hội nghị Paris như một 
bên đại diện chính thức cho miền 
Nam Việt Nam. Trên cơ sở đó, từ 
ngày 17/5/1968, chính quyền Việt 
Nam Cộng hòa đã cử phái đoàn liên 
lạc do Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam 
Cộng hòa tại Hoa Kỳ, làm trưởng 
đoàn sang Paris để làm nhiệm vụ liên 
lạc với phái đoàn Hoa Kỳ(2). Thông 
qua động thái này, phía Việt Nam 
Cộng hòa hy vọng có thể nắm được 
diễn biến của cuộc đàm phán giữa 
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa, đặc biệt là “tiếp cận” được lập 
trường của Hoa Kỳ trong các vấn đề 
cụ thể trên bàn đàm phán tại Hội nghị 
Paris. 
Để trấn an đồng minh, ngày 20/7/1968, 
trong Thông báo chung nhân cuộc hội 
đàm giữa Tổng thống Nguyễn Văn 
Thiệu và Tổng thống Johnson tại 
Honolulu, Hoa Kỳ khẳng định cam kết 
“không bỏ miền Nam Việt Nam”, rằng 
“Hoa Kỳ rút quân thì Bắc Việt Nam 
cũng phải rút quân”. Thông cáo chung 
có đoạn nói về thương lượng hòa 
bình: “Hai tổng thống một lần nữa 
khẳng định rằng Việt Nam Cộng hòa 
phải tham gia với tư cách đầy đủ có 
vai trò chính trong các cuộc thảo luận 
về thực chất một giải pháp cuối cùng 
và hai chính phủ sẽ hành động có 
tham khảo đầy đủ ý kiến với nhau 
cũng như với các đồng minh khác 
trong giai đoạn hiện nay và trong suốt 
quá trình hiệp nghị” (Lyndon B. 
Johnson, 1970: 826). Tuy nhiên, 
những tuyên bố trên dường như chỉ 
để xoa dịu Việt Nam Cộng hòa, 
hướng sự chú ý của Việt Nam Cộng 
hòa vào vấn đề khác ngoài việc 
ngừng ném bom vô điều kiện mà Hoa 
Kỳ thực hiện nhằm đạt được thỏa 
thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa. Có thể thấy, từ khi bắt đầu “nói 
chuyện” với phía Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa tại Paris (13/5/1968), Hoa 
Kỳ không thực sự đứng về phía đồng 
minh Việt Nam Cộng hòa, không bảo 
vệ quyền lợi của Việt Nam Cộng hòa 
mà chỉ chú trọng đến những thỏa 
thuận có thể giúp Hoa Kỳ đạt được 
một “hòa bình trong danh dự” (Peace 
with Honor). 
Trong phiên họp đầu tiên, các nhà 
thương thuyết Hoa Kỳ tập trung “đòi 
Hà Nội phải chấm dứt việc xâm nhập 
qua vùng phi quân sự, ngừng pháo 
kích các thành phố miền Nam” (Larry 
 TRẦN NAM TIẾN – QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
60 
Berman, 2003: 47), trong khi đó, phía 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đòi Hoa 
Kỳ phải chấm dứt lập tức các cuộc 
ném bom và bắn phá bằng không quân 
và hải quân ở miền Bắc Việt Nam, và 
đó là những điều kiện tiên quyết cho 
đàm phán (Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh 
Vũ, 1996: 67). Nhìn chung, các cuộc 
gặp nhau đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có kết 
quả gì cụ thể xuất phát từ cách nhìn 
nhận khác nhau của hai phía, lợi ích 
duy nhất của các cuộc nói chuyện đầu 
tiên này là giá trị tuyên truyền qua 
những phát ngôn do đại biểu hai bên 
đưa ra. Trong phiên họp ngày 
19/8/1968 thảo luận về các chủ thể có 
liên quan đến tình hình miền Nam Việt 
Nam và đề xuất tham gia Hội nghị, 
Hoa Kỳ đề nghị sự có mặt của Việt 
Nam Cộng hòa, theo Hoa Kỳ, sự tham 
gia của Việt Nam Cộng hòa không 
hàm ý Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
công nhận chính quyền đó, nhưng 
điều này cần thiết cho các cuộc đàm 
phán có ý nghĩa. Phía Hoa Kỳ cũng 
xác nhận mục tiêu duy nhất để Việt 
Nam Cộng hòa tham gia Hội nghị là 
để họ “tự quyết định lấy tương lai của 
mình mà không bị bên ngoài can thiệp 
hay ép buộc” (Larry Berman, 2003: 
47). Để tỏ rõ thiện chí, phía Hoa Kỳ 
cũng chấp nhận các đại biểu của Mặt 
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 
Việt Nam, hoặc các tổ chức khác theo 
lựa chọn của Hà Nội, tham gia đàm 
phán, mặc dù điều đó không có nghĩa 
là Hoa Kỳ thừa nhận tính hợp pháp 
của tổ chức đó (William Averell 
Harriman, 1971: 126-127). 
Như vậy, trong quá trình thảo luận, 
dường như Hoa Kỳ chưa [hoặc không] 
truyền tải được tất cả thông điệp cũng 
như lập trường của người đồng minh 
Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ đưa ra 
các điều kiện với phía Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa chủ yếu xoay quanh 
việc chấp nhận sự tham gia của Việt 
Nam Cộng hòa nhưng lại không 
chống sự tham gia của Mặt trận Dân 
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, 
vốn không được người đồng minh 
Việt Nam Cộng hòa chấp nhận. Về 
phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa, 
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho 
rằng người Mỹ quá “ngây thơ” khi 
theo đuổi cuộc đàm phán hòa bình 
mở rộng, trong đó có khả năng sẽ có 
cả Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận 
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt 
Nam tham gia. Như vậy, việc Mặt trận 
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt 
Nam tham gia đàm phán không những 
tạo cho họ vị thế ngang hàng với Việt 
Nam Cộng hòa, mà còn là tiền đề [có 
khả năng xảy ra] cho sự hình thành 
một chính phủ liên hiệp và “chấm dứt 
chế độ dân chủ” ở miền Nam. Tuy 
nhiên, do tin rằng phía Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa sẽ không chấp nhận đề 
nghị đàm phán bốn bên của Hoa Kỳ 
do không công nhận chính quyền Việt 
Nam Cộng hòa, nên Tổng thống Thiệu 
chưa bao giờ bày tỏ sự phản đối công 
khai đề nghị trên của Washington 
(Nguyen Tien Hung - Jerrold L. 
Schecter, 1986: 22-23). 
Đúng như phía Việt Nam Cộng hòa 
dự đoán, phía Việt Nam Dân chủ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
61 
Cộng hòa không đồng ý công nhận 
chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Để 
vượt qua trở ngại cuối cùng, Trưởng 
đoàn đàm phán của Hoa Kỳ William A. 
Harriman đã nghĩ ra công thức “Their 
side, our side” (Phía họ, phía chúng 
ta). Công thức “Their side, our side” 
sẽ cho phép các bên tham gia vào các 
cuộc đàm phán hòa bình mà không 
cần chính thức công nhận nhau là các 
thực thể độc lập (Christine Bragg 
(ed.), 2000: 153). Trong bối cảnh này, 
Hoa Kỳ cố gắng thuyết phục phía Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để 
Việt Nam Cộng hòa tham dự Hội nghị 
Paris như một bên liên quan, đồng 
thời Hoa Kỳ lại gợi ý về việc Việt Nam 
Cộng hòa nên chấp nhận sự tham gia 
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền 
Nam Việt Nam theo công thức “Their 
side, our side” và tuyên bố, Mặt trận 
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt 
Nam sẽ có mặt tại cuộc thương lượng 
(James H. Willbanks (ed.), 2013: 122-
123). Ngày 26/10/1968, Trưởng đoàn 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Xuân 
Thủy đã đồng ý để Mặt trận Dân tộc 
Giải phóng miền Nam Việt Nam và 
Việt Nam Cộng hòa tham gia vào cuộc 
đàm phán(3). 
Ngày 27/10/1968, Tổng thống Johnson 
quyết định sẽ loan báo việc ngừng 
oanh tạc vào ngày 31/10/1968 để 
cuộc đàm phán Paris có thể được bắt 
đầu lại (Lloyd C. Gardner - Ted 
Gittinger (eds.), 2004: 386-387). Bên 
cạnh đó, Hoa Kỳ cũng thuyết phục 
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấp 
nhận quyết định của Chính phủ Hoa 
Kỳ, cùng ngồi vào đàm phán và hơn 
hết chấp nhận sự có mặt của Mặt trận 
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt 
Nam. Sau khi đã thiết lập được cơ sở 
để tiến hành tiếp tục các cuộc đàm 
phán hòa bình, Harriman lại thất vọng 
một lần nữa bởi sự miễn cưỡng của 
Nguyễn Văn Thiệu. Trên thực tế, đối 
với Việt Nam Cộng hòa, đây lại là điều 
không thể chấp nhận. Chính sự khác 
nhau giữa quan điểm của hai bên đã 
khiến Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa 
xảy ra những xung đột trong quá trình 
đàm phán tại Hội nghị Paris. 
Ngay từ đầu, Tổng thống Nguyễn Văn 
Thiệu đã kiên quyết chống mọi 
thương thuyết tay đôi giữa Hoa Kỳ và 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về 
những vấn đề liên quan đến Việt Nam 
Cộng hòa. Tổng thống Nguyễn Văn 
Thiệu tin rằng “Bắc Việt Nam sẽ lợi 
dụng các cuộc tiếp xúc tiền khởi này 
để đòi thương thuyết trực tiếp giữa 
chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Mặt 
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 
Việt Nam với hy vọng tạo điều kiện đi 
tới chính phủ liên hiệp ở Sài Gòn” 
(Larry Berman, 2003: 43). Sau khi 
được thông báo về phản ứng của Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa trước lời đề 
nghị đàm phán từ phía Hoa Kỳ tại 
Paris, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu 
lập tức mở cuộc họp với Hội đồng An 
ninh Quốc gia Việt Nam Cộng hòa. 
Sau khi kết thúc cuộc họp, Tổng thống 
Nguyễn Văn Thiệu ra Thông cáo 
chung với các đại diện đồng minh, 
“nhấn mạnh các cuộc thương lượng 
hai bên giữa Washington và Hà Nội 
 TRẦN NAM TIẾN – QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
62 
không có sự tham gia của chính phủ 
Nam Việt Nam [Việt Nam Cộng hòa] 
nên chỉ có tính cách thăm dò. Do đó, 
Mỹ một mặt không thể có một quyết 
định nào khác trong các cuộc thương 
lượng với Hà Nội mà không có thỏa 
thuận trước với chính phủ Nam Việt 
Nam, và mặt khác, các vấn đề chính 
trị của miền Nam Việt Nam không 
được nêu ra trong thương lượng với 
Hà Nội” (Nguyễn Phú Đức, 2009: 
156). Phản ứng này của Việt Nam 
Cộng hòa nhằm gửi đến Hoa Kỳ thông 
điệp sẽ kiên quyết trong việc giải 
quyết các vấn đề nội bộ giữa hai miền 
Việt Nam. 
Chưa dừng lại ở đó, chính quyền Việt 
Nam Cộng hòa còn đưa ra những lập 
luận cứng rắn hơn về việc Chính phủ 
này muốn đóng vai trò chính trong các 
cuộc thương lượng với phía Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa bởi Việt Nam Cộng 
hòa là phía liên quan nhất. Việt Nam 
Cộng hòa cũng chỉ ra rằng, Hoa Kỳ là 
cường quốc nước ngoài nên Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa sẽ cho rằng Hoa 
Kỳ không có quyền can thiệp vào Việt 
Nam, qua đó đẩy Hoa Kỳ vào vị trí của 
kẻ xâm lược. Để củng cố hơn nữa lập 
trường không nhân nhượng của mình 
và khẳng định việc tẩy chay Hội nghị 
Paris, ngày 31/10/1968, Chính phủ Việt 
Nam Cộng hòa lại công khai thách 
thức Tổng thống Johnson bằng một 
bài diễn văn chống đối đàm phán ở 
Paris (U.S. Congress - Senate, Committee 
on Foreign Relations, 1970: 290). Mặc 
dù thời điểm này Việt Nam Cộng hòa 
vấp phải sự chỉ trích từ phía Tổng 
thống Johnson và các thượng nghị sĩ 
Đảng Dân chủ cáo buộc làm thất bại 
mọi nỗ lực, công sức mà phía Hoa Kỳ 
đã bỏ ra nhằm đạt được nhữn ... Cộng hòa và đó cũng là để cho 
Tổng thống Thiệu dễ chấp nhận Hiệp 
định (Larry Berman, 2003: 258). Để 
trấn an Tổng thống Thiệu, trong thư 
gửi ngày 14/11/1972, Tổng thống 
Nixon đã khẳng định: “Tôi xin bảo đảm 
cá nhân của tôi với ông [Nguyễn Văn 
Thiệu] là Hoa Kỳ sẽ phản ứng rất 
mạnh và nhanh chóng đối với sự vi 
phạm nào của Hiệp định từ phía Hà 
Nội” (U.S. Department of State, 2010: 
398). 
Sau những hành động leo thang quân 
sự ở miền Bắc Việt Nam và những 
buổi đàm phán chẳng thể đi đến đâu 
và có nguy cơ đổ vỡ, Tổng thống 
Nixon lại gửi tới Tổng thống Nguyễn 
Văn Thiệu một lá thư nữa vào ngày 
17/12/1972, nhằm cảnh cáo Tổng 
thống Thiệu và yêu cầu phía Việt Nam 
Cộng hòa hợp tác nếu không muốn 
mối quan hệ giữa hai bên đổ vỡ 
(Jeffrey Kimball, 2007: 539-541). Sau 
thất bại nặng nề trong Chiến dịch 
Linebacker II ném bom Hà Nội, Hoa 
Kỳ buộc phải trở lại bàn đàm phán ở 
Paris và bằng mọi giá phải ký kết Hiệp 
định. Từ các phản ứng của [Tổng 
thống] Nguyễn Văn Thiệu đối với bản 
Dự thảo Hiệp định, trong đó kiên 
quyết trong việc rút quân miền Bắc ra 
khỏi miền Nam Việt Nam, Tổng thống 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
67 
Nixon lại gửi đến [Tổng thống] Nguyễn 
Văn Thiệu hai lá thư trong thời điểm 
cuộc đàm phán tại Paris đang bước 
vào giai đoạn quyết định. Lá thư thứ 
nhất đề ngày 14/1/1973, Tổng thống 
Nixon rất kiên quyết: “Tôi đã quyết 
định, không thể hủy bỏ, là sẽ bắt đầu 
thỏa thuận vào ngày 23/1/1973 và ký 
vào ngày 27/1/1973 tại Paris. Tôi sẽ 
làm như vậy, và nếu cần thiết sẽ làm 
một mình. Trong trường hợp đó, tôi sẽ 
phải giải thích công khai rằng Chính 
phủ của ông ngăn cản việc thực hiện 
hòa bình. Kết quả không tránh khỏi là 
việc chấm dứt ngay lập tức đối với 
viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa 
Kỳ [cho Việt Nam Cộng hòa]” (U.S. 
Department of State, 2010: 540). Như 
vậy, Tổng thống Nixon đã gắn vấn đề 
viện trợ quân sự và kinh tế, vốn là 
những nội dung quan trọng trong mối 
quan hệ giữa hai bên, để gây sức ép 
với chính quyền Việt Nam Cộng hòa. 
Và với lá thư đề ngày 21/1/1973, Tổng 
thống Nixon một lần nữa với thái độ 
gay gắt, đưa ra thời hạn buộc Tổng 
thống Nguyễn Văn Thiệu phải có câu 
trả lời chính xác: “Chúng tôi [Hoa Kỳ] 
sẽ bắt đầu thỏa thuận [ký tắt Hiệp định] 
vào ngày 23/1. Bây giờ tôi muốn biết 
ông có thể tham gia với chúng tôi 
không và tôi muốn biết câu trả lời của 
ông trước 12 giờ Washington, ngày 
21/1/1973” (U.S. Department of State, 
2010: 1113-1114). Sau những lời 
khuyên nhủ, xoa dịu và hứa hẹn, khi 
mà các nỗ lực này không đem lại 
nhiều kết quả, Tổng thống Nixon buộc 
phải dùng đến cách cuối cùng là đe 
dọa để ép phía Việt Nam Cộng hòa ký 
vào Hiệp định Paris. 
Trong các lá thư hồi đáp cho phía Hoa 
Kỳ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu [về 
mặt cá nhân] vẫn rất cảm ơn Tổng 
thống Nixon về tất cả những gì mà 
ông ấy đã làm cho Việt Nam Cộng 
hòa và cũng tỏ ra thông cảm trước 
những áp lực mà Tổng thống Nixon 
gặp phải trong việc phải nhanh chóng 
có một hiệp định hòa bình. Nhưng với 
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, những 
động thái đó không đồng nghĩa với 
việc Việt Nam Cộng hòa nhượng bộ 
đối với những vấn đề mà ông cho 
rằng cần làm sáng tỏ, đặc biệt là vấn 
đề rút quân của phía Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa. Tổng thống Nguyễn 
Văn Thiệu kiên quyết không ký vào 
bản Hiệp định với những điều khoản 
mà ông cho là bất lợi cho Việt Nam 
Cộng hòa. Trên thực tế, Việt Nam 
Cộng hòa hiểu rõ, các điều khoản hòa 
bình cho phép Hoa Kỳ hoàn thành 
việc rút quân khỏi cuộc chiến, nhưng 
Hiệp định lại không đủ đảm bảo cho 
sự tồn tại của chính quyền Việt Nam 
Cộng hòa (Carol Berkin - Christopher 
L. Miller - Robert W. Cherny, 1996: 
652). 
Tuy nhiên, trước những đòn đe dọa 
liên tiếp của Hoa Kỳ, Tổng thống 
Nguyễn Văn Thiệu cho rằng: “Hoa Kỳ 
đã thực sự bỏ rơi chúng tôi - hoặc là 
ký Hiệp định, hoặc là cắt giảm viện 
trợ” (Anthony James Joes, 2014: 132); 
và phía Việt Nam Cộng hòa phải chấp 
nhận ký vào Hiệp định vì sự lựa chọn 
giữa bị cắt viện trợ và tiếp tục được 
ủng hộ hoặc không có gì cả. Tổng 
 TRẦN NAM TIẾN – QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
68 
thống Nguyễn Văn Thiệu đồng ý ký 
vào Hiệp định nhằm giữ mối quan hệ 
tốt đẹp với phía Hoa Kỳ, như ông nói 
là “để giữ gìn đoàn kết giữa hai chính 
phủ chúng ta và dựa trên cơ sở 
những lời đảm bảo kiên quyết của 
Ngài về việc Mỹ tiếp tục viện trợ và 
ủng hộ, tôi chấp nhận thời gian biểu 
của Ngài để ký tắt Hiệp định vào ngày 
23 tháng Giêng” (Nguyễn Phú Đức, 
2009: 348). Tổng thống Nguyễn Văn 
Thiệu đề nghị Tổng thống Nixon tuyên 
bố rằng Hoa Kỳ công nhận chính 
quyền Việt Nam Cộng hòa là chính 
phủ hợp pháp của miền Nam Việt 
Nam và rằng Hà Nội không có quyền 
đóng quân trên lãnh thổ của ông ta 
(Henry Kissinger, 1979: 1470). Và nếu 
Hoa Kỳ không tiếp tục viện trợ thì 
chính quyền Việt Nam Cộng hòa sẽ 
“tự đối phó với Cộng sản”(6). 
Như vậy, sau nhiều lần trì hoãn, ngày 
27/1/1973, Hiệp định Paris về lập lại 
hòa bình, chấm dứt chiến tranh ở 
Việt Nam được chính thức ký kết 
giữa bốn bên tham gia Hội nghị. Sau 
khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 
30/1/1973, Phó tổng thống Hoa Kỳ 
Spiro Agnew đã sang thăm Sài Gòn, 
và vẫn với những lời hứa tiếp tục ủng 
hộ trung thành đồng minh Việt Nam 
Cộng hòa. Nhưng Agnew cũng chỉ ra 
rằng sự can dự của Hoa Kỳ ở miền 
Nam Việt Nam có giới hạn sau khi ký 
Hiệp định Paris (Jussi Hanhimäki, 2004: 
268). Trái với mong đợi của Nguyễn 
Văn Thiệu, Agnew chỉ nhắc đến lời 
hứa chung chung, lờ đi những cam 
kết của Nixon. Trước áp lực của dư 
luận và tình hình cuộc chiến lúc bấy 
giờ, Nguyễn Văn Thiệu gần như tuyệt 
vọng khi nói với phụ tá của mình: “Tôi 
đã bắt đầu nghi ngờ Hoa Kỳ từ lúc đó” 
(Nguyễn Tiến Hưng, 2005: 115). Như 
vậy, trái ngược với giai đoạn liên hệ 
dồn dập trước đó, từ sau khi ký xong 
Hiệp định Paris, Tổng thống Nixon 
hoàn toàn im lặng đối với đồng minh 
Việt Nam Cộng hòa. Từ khi ký xong 
bản Thông cáo, Nixon và Kissinger 
gần như đã đưa vấn đề miền Nam 
Việt Nam vào dĩ vãng. 
3. KẾT LUẬN 
Nhìn chung quá trình đàm phán tại 
Paris giữa bốn bên thực chất chỉ có 
tiếng nói của hai bên mang tính quyết 
định đến kết quả đàm phán: Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ. Trong 
quá trình đàm phán, Hoa Kỳ chủ yếu 
liên hệ trực tiếp với phía Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa nhằm đạt được 
những mục đích của mình, mà gần 
như “bỏ rơi” đồng minh Việt Nam 
Cộng hòa. Mặc dù đã có những nỗ lực 
thể hiện sự độc lập trong quá trình 
đàm phán, nhưng Việt Nam Cộng hòa 
vẫn phải gắn bó với Hoa Kỳ. Trong 
quá trình diễn ra đàm phán, quan hệ 
giữa Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ 
rơi vào tình trạng căng thẳng và nghi 
ngờ lẫn nhau khiến mối quan hệ đồng 
minh giữa hai bên ngày càng rạn nứt 
trầm trọng. Hoa Kỳ thường xuyên qua 
mặt, không chú trọng đến quyền lợi 
của đồng minh và thậm chí đe dọa để 
buộc Việt Nam Cộng hòa phải thực 
hiện theo ý của Hoa Kỳ, mục đích là 
mau chóng ký kết Hiệp định để sớm 
rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. 
Như vậy, mối quan hệ giữa Việt Nam 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
69 
Cộng hòa và Hoa Kỳ trong giai đoạn 
này ban đầu là dựa trên sự tin tưởng 
về đồng minh nhưng để đạt được mục 
tiêu Hoa Kỳ đã “phản bội” và dồn Việt 
Nam Cộng hòa vào thế bị động và 
không thể tự định đoạt được số phận 
mình. Với những gì diễn ra có thể thấy 
rõ chính quyền Việt Nam Cộng hòa 
chỉ là chính phủ “bù nhìn”, vốn không 
có tiếng nói thực sự trong quá trình 
đàm phán, ký kết hiệp định. Việc Hoa 
Kỳ rút ra khỏi cuộc chiến khiến chính 
quyền Việt Nam Cộng hòa bắt đầu 
bước vào một giai đoạn vô cùng khó 
khăn và sự sụp đổ sau đó là điều 
không tránh khỏi.  
CHÚ THÍCH 
(1)
 Theo học giả Pierre Asselin, chính quyền Johnson trên thực tế không hề muốn đàm phán 
với Hà Nội (Pierre Asselin, 2005: 5). 
(2)
 Trong cuộc họp ngày 7/8/1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nói với Đại sứ Hoa Kỳ 
Bunker rằng ông đã trao quyền cho Bùi Diễm đại diện cho Việt Nam Cộng hòa thiết lập liên 
lạc riêng với Bắc Việt ở Paris (Telegram 34711, https://2001-2009.state.gov). 
(3)
 Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ bỏ quan điểm không đồng ý sự tham gia của Việt 
Nam Cộng hòa vì ba lý do. Thứ nhất, Washington sẽ không chấm dứt ném bom trừ khi được 
thỏa mãn về vấn đề này. Thứ hai, sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 
Việt Nam trong đàm phán sẽ làm tăng thêm tính hợp pháp của tổ chức này. Thứ ba, vì Hoa 
Kỳ nghiêng về mở rộng đàm phán trong khi Nguyễn Văn Thiệu từ chối đàm phán với Mặt 
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vấn đề này có thể gây chia rẽ giữa Hoa Kỳ và 
đồng minh Việt Nam Cộng hòa (Robert K. Brigham, 1999: 78). 
(4)
 Toàn bộ những nội dung trao đổi giữa Tổng thống Nixon và Tổng thống Nguyễn Văn 
Thiệu đều đề cập đến việc phía Hoa Kỳ sẽ luôn thông tin mọi diễn diến trong đàm phán giữa 
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris cho Việt Nam Cộng hòa. Xem 
Memo, Kissinger to Nixon. June 24, 1969, folder: [CF], FO-6-1, Paris Peace Talks, box 33, 
WHSF: Confidential Files, NPM. 
(5)
 Ví dụ ngày 31/5/1971, phía Hoa Kỳ chấp nhận việc quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
tạm thời tiếp tục ở lại miền Nam ít nhất là sau ngừng bắn. Đây được xem là sự nhượng bộ 
then chốt, được phía Hoa Kỳ đề ra mà không hề thông báo cho phía Việt Nam Cộng hòa 
(Nguyen Tien Hung - Jerrold L. Schecter, 1986: 16-17). 
(6)
 Xem toàn bộ nội dung Tuyên bố của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Thieu’s 
Declarations were Reported in Kissinger Memorandum for Nixon, 5 February 1973, 
President’s Daily Briefs-Feb. 1973, President’s Daily Briefings, Box 1, POW/MIA, NPMP. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Asselin, Pierre. 2005. Nền hòa bình mong manh: Washington, Hà Nội và tiến trình 
của Hiệp định Paris. Nhóm dịch của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia. 
2. Berkin, Carol - Miller, Christopher L. - Cherny, Robert W. 1996. Making America 
Complete: A History of the United States. New York: Houghton Mifflin. 
 TRẦN NAM TIẾN – QUAN HỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA - HOA KỲ 
70 
3. Berman, Larry. 1989. Lyndon Johnson’s War: The Road to Stalemate in Vietnam. 
New York: W.W. Norton. 
4. Berman, Larry. 2003. Không hòa bình chẳng danh dự. Califonia: Việt Tide xuất bản. 
5. Bragg, Christine (ed.). 2000. Vietnam, Korea and US Foreign Policy 1945 - 1975. 
Oxford: Heinemann. 
6. Brigham, Robert K. 1999. Guerrilla Diplomacy: The NLF's Foreign Relations and the 
Viet Nam War. Ithaca: Cornell University Press 
7. Commager, Henry Steele. 1973. Documents of American History. Vol II: Since 1898. 
New Jersey: Prentice Hall, Inc. 
8. Congressional Quarterly Service. 1973. Congress and the Nation, 1969 - 1972. Vol. 
III. Washington, D.C.: Congressional Quarterly Service. 
9. Davidson, Phillip B. 1988. Vietnam at War: The History, 1946 - 1975. Novato, Calif.: 
Presidio Press. 
10. Department of External Affairs. 1968. Select Documents on International Affairs. 
Department of External Affairs Washington D.C.: Department of External Affairs. 
11. Department of External Affairs. 1972. Select Documents on International Affairs, 
Vol.18-23, Australia: Department of External Affairs. 
12. Epstein, Edward Jay. 1975. Between Facts and Fictions. New York: Vintage Books. 
13. Faber, Charles - Faber, Richard. 2012. The American Presidents Ranked by 
Performance, 1789 - 2012. Jefferson, NC: McFarland & Co. 
14. Gardner, Lloyd C. - Gittinger, Ted (eds.). 2004. The Search for Peace in Vietnam, 
1964-1968. College Station: Texas A&M University Press. 
15. Hanhimäki, Jussi. 2004. The Flawed Architect: Henry Kissinger and American 
Foreign Policy. New York: Oxford University Press. 
16. Harriman, William Averell. 1971. America and Russia in a Changing World: A Half 
Century of Personal Observation. New York: Doubleday & Company. 
17. Joes, Anthony James. 2014. Why South Vietnam Fell. Maryland: Lexington Books. 
18. Johnson, Lyndon B. 1970. Public Papers of the Presidents of the United States: 
Lyndon B. Johnson, 1968 - 1969. Washington, D.C.: Government Printing Office. 
19. Khoo, Nicholas. 2011. Collateral Damage: Sino-Soviet Rivalry and the Termination 
of the Sino-Vietnamese Alliance. New York: Columbia University Press. 
20. Kimball, Jeffrey. 2007. Hồ sơ chiến tranh Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Công an Nhân 
dân. 
21. Kissinger, Henry. 1979. White House Years. Toronto: McClelland & Stewart. 
22. Lien-Hang T.Nguyen. 2012. Hanoi's War: An International History of the War for 
Peace in Vietnam. Chapel Hill: University of North Carolina Press. 
23. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ. 1996. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ -
Kissinger tại Paris. Hà Nội: Nxb. Công an Nhân dân. 
24. Lưu Văn Lợi. 2005. “Hai mươi bảy bức thư của Nixơn gửi Nguyễn Văn Thiệu”. Tạp 
chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
71 
25. McCrisken, Trevor B. 2003. American Exceptionalism and the Legacy of Vietnam: 
US Foreign Policy since 1974. Houndmills: Palgrave. 
26. Nguyễn Đình Bin (chủ biên). 2002. Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia. 
27. Nguyễn Phú Đức. 2009. Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Lao động. 
28. Nguyen Tien Hung - Schecter, Jerrold L. 1986. The Palace File. New York: Harper & 
Row. 
29. Nguyễn Tiến Hưng - Schecter, Jerrold L. 1990. Từ Tòa Bạch đến Dinh Độc lập (Tối 
mật - tài liệu chưa công bố). Võ Văn Sen, Nguyễn Hoàng Dũng, Vũ Bảo Quốc dịch. 
TPHCM: Nxb. Trẻ. 
30. Nguyễn Tiến Hưng. 2005. Khi Đồng minh tháo chạy. California: Hứa Chấn Minh 
xuất bản. 
31. Paris Peace Talks. 1969. box 33, WHSF: Confidential Files, NPM. Memo, Kissinger 
to Nixon. June 24, 1969, folder: [CF], FO-6-1, 
32. Phan Hòa Hiệp. 1973. Hiệp định Balê và Việt Nam vấn đề tranh thủ hòa bình tại Việt 
Nam. Sài Gòn. 
33. Pu-lơ, Pi-tơ A. 1986. Hoa Kỳ và Đông Dương từ Ru-dơ-ven đến Ních-xơn. Hà Nội: 
Nxb. Thông tin Lý luận. 
34. Telegram 34711 from Saigon, August 7; Johnson Library, National Security File, 
Memos to the President, Walt Rostow, Vol. 90. https://2001-2009.state.gov/r/pa/ho/ 
frus/johnsonlb/vi/14378.htm, truy cập ngày 22/8/2018. 
35. Tran Van Don. 1978. Our Endless War: Inside Vietnam. Novato: Presidio Press. 
36. U.S. Congress - Senate, Committee on Foreign Relations. 1970. Background 
Information Relating to Southeast Asia and Vietnam. Washington, D.C.: U.S. 
Government Printing Office. 
37. U.S. Department of State. 1998. Foreign Relations of the United States, 1964 - 
1968. Vol. IV: Vietnam, 1966. Washington D.C.: Government Printing Office. 
38. U.S. Department of State. 2003. Foreign Relations of the United States, 1964 - 
1968. Vol. VII: Vietnam, September 1968-January 1969. Washington D.C.: Government 
Printing Office. 
39. U.S. Department of State. 2010. Foreign Relations of the United States, 1969-
1976. Vol. VIII, Vietnam: January - October 1972. Washington, D.C.: U.S. Government 
Printing Office. 
40. U.S. Department of State. 2010. Foreign Relations of the United States, 1969-
1976. Vol. IX, Vietnam: October 1972-January 1973. Washington, D.C.: U.S. 
Government Printing Office. 
41. Willbanks, James H. (ed.). 2013. Vietnam War: The Essential Reference Guide. 
Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. 

File đính kèm:

  • pdfquan_he_viet_nam_cong_hoa_hoa_ky_trong_hoi_nghi_paris_1968_1.pdf