Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào hiện nay là sự tiếp nối tư tưởng từ đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2/1951)
Tháng 2/1951, Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành
lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Cộng sản riêng trên cơ sở tôn trọng «Quyền dân tộc tự
quyết». Với quyết định lịch sử trọng đại này, một trang sử mới trong quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam được viết lên bởi tình nghĩa thủy chung, son sắt và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành biểu tượng
cao đẹp và mẫu mực về tình đoàn kết quốc tế trong thế kỷ XX. Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu về một Đại hội lịch sử
với một quyết định lịch sử để hiểu hơn về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hiện nay là cần
thiết và có ý nghĩa to lớn.
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào hiện nay là sự tiếp nối tư tưởng từ đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2/1951)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào hiện nay là sự tiếp nối tư tưởng từ đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2/1951)
TẠP CHÍ KHOA HỌC Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 97 - 105 97 QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO HIỆN NAY LÀ SỰ TIẾP NỐI TƢ TƢỞNG TỪ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG (2/1951) Đào Văn Trƣởng12 Trường Đại học Tây Bắc Tóm tắt: Tháng 2/1951, Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Cộng sản riêng trên cơ sở tôn trọng «Quyền dân tộc tự quyết». Với quyết định lịch sử trọng đại này, một trang sử mới trong quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được viết lên bởi tình nghĩa thủy chung, son sắt và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành biểu tượng cao đẹp và mẫu mực về tình đoàn kết quốc tế trong thế kỷ XX. Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu về một Đại hội lịch sử với một quyết định lịch sử để hiểu hơn về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hiện nay là cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Từ khóa: Đại hội, quan hệ đặc biệt, Việt Nam, Lào. 1. Đặt vấn đề Đảng Cộng sản Đông Dƣơng - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ngày nay là minh chứng hùng hồn, biểu tƣợng cao đẹp và sức sống trƣờng tồn cho tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Trải qua hơn hai thập kỷ xây dựng và trƣởng thành, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã hoàn thành sứ mạng lịch sử vẻ vang mà nhân dân giao phó là lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng non trẻ mang tên Đông Dƣơng. Nhằm tạo bƣớc ngoặt mới mang tính đột phá cho tiến trình phát triển cách mạng, tại Đại hội Đại biểu lần thứ II (2-1951), Đảng đã đi đến một quyết định mang tính lịch sử là thành lập ở mỗi nƣớc một Đảng cách mạng riêng. Từ đó đến nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không ngừng đƣợc duy trì, bảo vệ và phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đoàn kết, hợp tác cùng phát triển. Bài viết này, tập trung nghiên cứu làm rõ sự tiếp nối những tƣ tƣởng từ Đại hội II trong quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào hiện nay. 2. Nội dung 2.1. Khái quát chung về Đảng Cộng sản Đông Dương Do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử quy định nên Việt Nam và Lào có nhiều điểm chung và những nét tƣơng đồng sâu sắc về tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử và văn hóa. Hai nƣớc cùng nằm trên bán đảo Đông Dƣơng, có chung đƣờng biên giới quốc gia, cùng dựa lƣng vào dãy Trƣờng Sơn hùng vĩ, cùng uống chung dòng nƣớc sông Mêkông ngọt mát; Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc có truyền thống lịch sử lâu dài và một nền văn hóa đặc sắc trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nƣớc Từ bao đời nay, ngƣời dân hai nƣớc luôn sống hòa thuận, đoàn kết, yêu thƣơng, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, thiên tại, địch họa cũng nhƣ xây dựng cuộc sống của đồng bào vùng biên giới hai nƣớc. 12Ngày nhận bài: 15/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017 Liên lạc: Đào Văn Trƣởng, e - mail: daovantruong.tp@gmail.com 98 Nhƣng dƣờng nhƣ có một sự sắp đặt của lịch sử, khi Việt Nam và Lào đều nằm trong tầm ngắm của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây. Lúc này, chủ nghĩa tƣ bản đang trong thời kỳ hoàng kim, chúng ra sức vƣơn những chiếc vòi bạch tuộc đến tận những hang cùng, ngõ hẻm của thế giới để tìm kiếm thị trƣờng và thuộc địa. Để rồi, định mệnh đã đặt hai quốc gia Việt Nam và Lào cùng trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.Từ đây, nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào có chung một kẻ thù và chung một mục tiêu là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lƣợc giành lại độc lập, tự do. Đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3-2- 1930). Đến tháng 10 năm 1930, thực hành án Nghị quyết và Thơ chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc triệu tập tại Hƣơng Cảng (Trung Quốc) đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dƣơng với chủ trƣơng: “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo giai cấp vô sản Đông Dương ra tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản” [1]. Sự kiện lịch sử trọng đại này, đánh dấu bƣớc ngoặt quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân hai nƣớc Việt Nam, Lào, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đƣờng lối cứu nƣớc và giai cấp lãnh đạo, mở ra thời kỳ mới trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại Việt Nam và Lào. Nhằm phát huy tối đa tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và sức mạnh của quần chúng nhân dân, cũng nhƣ phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn của mỗi nƣớc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng; tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì (5/1941) đã chủ trƣơng giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nƣớc Đông Dƣơng, thành lập ở mỗi nƣớc một mặt trận riêng nhằm đoàn kết và tập hợp lực lƣợng đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (ở Việt Nam là Việt Nam độc lập Đồng minh viết tắt là Việt Minh, ở Lào là Ai Lao độc lập Đồng minh, ở Campuchia là Cao Miên độc lập Đồng minh). Nhờ có chủ trƣơng đúng đắn sáng tạo đó đã góp phần đƣa cách mạng tại Việt Nam và Lào phát triển mạnh mẽ và đạt đƣợc nhiều bƣớc tiến quan trọng, tiêu biểu là thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở Lào đã mở ra kỷ nguyên mới cho hai dân tộc đứng lên làm chủ vận mệnh của mình nhƣ Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản từng khẳng định: “Thắng lợi đó đã mở đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mà nhân dân ta được huy động và tự giác tham gia vào cuộc chiến sống còn với kẻ thù để cứu nhà cứu nước” [5]. 2.2. Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng (1951) mở ra trang sử mới trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Trong 5 năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần (1946-1950), dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dƣơng, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, anh dũng, sáng tạo của chủ nghĩa anh hùng cách mạng vƣợt qua muôn vàn khó khăn, thử thách của thời kỳ bị bao vây, cô lập, vƣơn lên giành những thắng lợi quan trọng có tính chất bƣớc ngoặt. Tại Việt Nam, nhờ nỗ lực về mặt ngoại giao, chúng ta đã phá 99 đƣợc thế bao vây, cô lập của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời mở thông đƣợc con đƣờng liên lạc với hệ thống các nƣớc xã hội chủ nghĩa trên thế giới thông qua việc thiết lập và đặt quan hệ ngoại giao với một loạt các nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣ Liên Xô, Trung QuốcThắng lợi ngoại giao đã mở đƣờng cho thắng lợi về quân sự với chiến thắng Biên giới thu đông (1950) đã tạo bƣớc ngoặt quan trọng cho cuộc chiến khi quân đội ta đã giành quyền chủ động chiến lƣợc trên chiến trƣờng chính Bắc Bộ. Tại Lào, phong trào cách mạng cũng ngày một trƣởng thành và gặt hái đƣợc nhiều thắng lợi quan trọng. Ngày 20-1-1949, tại đơn vị Látxavông ở xã Lào Hùng, huyện Xiềng Kho, tỉnh Sầm Nƣa, Quân đội Lào Itxala đã đƣợc thành lập (Đây chính là tiền thân của Quân đội Nhân dân Lào ngày nay). Tháng 8-1950, Đại hội đại biểu quốc dân Lào đã quyết định những vấn đề có tính chất bƣớc ngoặt đối với Cách mạng Lào: “Thống nhất các tổ chức quần chúng, thành lập Mặt trận Neo Lào Itxala và bầu Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Neo Lào Itxala. Thành lập Chính phủ Kháng chiến Lào Itxala. Ra bản cương lĩnh 12 điều, xác định mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Lào. Xác định tên nước Lào là Pathệt Lào, quy định quốc kỳ, quốc ca” [5]. Đây thực sự là những dấu son đáng nhớ trong lịch sử cách mạng vẻ vang của nhân dân Lào anh hùng. Trƣớc những biến động sâu sắc của tình hình quốc tế và trong nƣớc, yêu cầu đặt ra đối với Đảng Cộng sản Đông Dƣơng là phải có sự điều chỉnh về đƣờng lối chiến lƣợc cách mạng cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế, đồng thời tranh thủ và tận dụng triệt để thời cơ thuận lợi nhằm đƣa phong trào cách mạng ở Việt Nam và Lào tiếp tục phát triển đi đến thắng lợi hoàn toàn “Thực tiễn phong phú của cuộc kháng chiến ở từng nước cũng như yêu cầu đẩy mạnh sự phối hợp tác chiến giữa các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia đòi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách và tổ chức Đảng phù hợp với đặc điểm mỗi nước, đồng thời tạo điều kiện mở rộng hơn nữa sự phối hợp hành động trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ” [3]. Xuất phát từ yêu cầu đó, Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng diễn ra nhƣ một quy luật tất yếu khách quan của lịch sử. Đại hội diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang). Tham dự Đại hội có 121 đại biểu với 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên trong các Đảng bộ Việt Nam, Lào và Campuchia. Đoàn đại biểu Lào do đồng chí Kayxỏn Phômvihản làm trƣởng đoàn thay mặt những ngƣời cộng sản Lào tham gia vào Đoàn Chủ tịch [3]. Trong những ngày diễn ra Đại hội, các đại biểu đã tiến hành nghiên cứu, thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam (hay Luận cƣơng cách mạng Việt Nam), Báo cáo tổ chức, điều lệ ĐảngTrong đó, chủ trƣơng tách Đảng Cộng sản Đông Dƣơng thành lập ở mỗi nƣớc một Đảng Cộng sản riêng đƣợc các đại biểu tham dự Đại hội hết sức quan tâm. Trên cơ sở thảo luận các văn kiện trên, Đại hội đi đến nhận định: “Từ năm 1930 trở đi, Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng ba nước Đông Dương, nhưng đến nay, cách mạng và kháng chiến của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia có những bước phát triển riêng biệt, đòi hỏi phải có đường lối, chính sách và tổ chức Đảng 100 phù hợp với mỗi nước và trên cơ sở phối hợp hành động chung giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó, đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải được tổ chức lại. Đại hội đã đi đến quyết định thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng Mác - Lênin có cương lĩnh riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở từng nước”[3]. Trên cở nhận định đó, Đại hội đi đến quyết định mang tính lịch sử là: “Ở Việt Nam sẽ xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, có Chính cương, Điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Ở Lào, và Campuchia thành lập ở mỗi nước một chính Đảng riêng lấy tên là Đảng Nhân dân Lào và Đảng Nhân dân Khơme, mỗi Đảng chịu trách nhiệm trước sự nghiệp giải phóng của dân tộc mình.”[3]. Trên tinh thần nhất trí cao với chủ trƣơng trên của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, thay mặt cho những ngƣời cộng sản Lào, Mặt trận Ítxala, Hoàng thân Xuphanuvông nói: “Sau khi được nghe chính sách của Đảng, Chúng tôi nhận thấy chính sách ấy biểu thị ý chí yêu nước cương quyết và tinh thần quốc tế rộng rãi thì chúng tôi rất tán thành và hoan nghênh” [3]. Mặt khác, Hoàng thân Xuphanuvông cũng hết sức tin tƣởng vào chính Đảng mới của cách mạng Việt Nam cũng nhƣ tƣơng lai của tình hữu nghị, đặc biệt Việt Nam - Lào “Chúng tôi tin chắc rằng, Đảng Lao động Việt Nam sẽ là chính Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến và kiến quốc của Việt Nam. Đồng thời sẽ cùng với mặt trận Liên Việt giúp đỡ và dìu dắt nhân dân Lào trong việc đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược”[3]. Nhƣ vậy, với quyết định lịch sử mang tính chất bƣớc ngoặt của thời đại đã mở ra một trang sử mới cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Một là, với quyết định lịch sử này, Việt Nam và Lào hoàn toàn độc lập, tự chủ về đƣờng lối cứu nƣớc và lực lƣợng lãnh đạo cách mạng. Từ đây, tổ chức Đảng và những ngƣời cộng sản ở mỗi nƣớc phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trƣớc quốc gia, dân tộc và nhân dân mình về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cũng nhƣ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, phát huy đƣợc tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cƣờng của nhân dân mỗi nƣớc, tránh tƣ tƣởng trông chờ, ỷ lại và làm thất bại âm mƣu chia rẽ của kẻ thù về khối đại đoàn kết liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, khi chúng tung ra các luận điệu phản động, xuyên tạc cho rằng Việt Nam tham vọng ảnh hƣởng và bành trƣớng lãnh thổ, âm mƣu thành lập cái gọi là “Liên bang Đông Dƣơng Cộng sản”, hy sinh quyền lợi của nhân dân Lào cho độc lập, tự do của Việt Nam. Những luận điểm phản khoa học và phi thực tế này đã đƣợc Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh luận giải hết sức khoa học, chính xác. Tổng Bí thƣ cho rằng: “Cách mạng Việt Nam quan hệ mật thiết với cách mạng Miên và Cách mạng Lào” vì cả ba dân tộc đều có chung kẻ thù trực tiếp là “thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ”. Do đó, theo Tổng Bí thƣ đây là một cuộc chiến đấu hết sức lâu dài và gian khổ “Đấu tranh trường kỳ, ba dân tộc phải hợp tác trường kỳ. Hợp tác ngày nay để giành độc lập và thống nhất thật sự, hợp tác lâu dài sau kháng chiến để cùng tiến trên con đường dân chủ nhân dân”. Để hoàn thành đƣợc nhiệm vụ lịch sử đó, Tổng Bí thƣ kêu gọi phát huy cao độ tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, xóa bỏ tƣ tƣởng bản vị, trông chờ, ỷ lại: “Muốn làm trọn những nhiệm vụ trên, phải sửa chữa và ngăn ngừa những tư tưởng sai lầm làm hại đến sự đoàn kết của ba dân tộc anh em. Đánh đổ tư tưởng bản vị của một số cán bộ Việt Nam định dùng cách mạng Miên và Lào để phụng sự cách mạng Việt Nam hoặc chỉ lo 101 cho cách mạng Việt Nam mà không chú trọng giúp đỡ cách mạng Miên và Lào. Làm cho một số người Miên và người Lào ỷ lại vào sự giúp đỡ của Việt Nam hoặc ngờ vực sự thành thật giúp đỡ của dân tộc Việt Nam. Chống lại thành kiến dân tộc hẹp hòi, chống lại mưu mô chia rẽ dân tộc của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, vượt lên trên mọi khó khăn trở ngại, ba dân tộc Việt - Miên - Lào nhất định sẽ toàn thắng trong cuộc kháng chiến này” [2]. Hai là, từ đây một xu hƣớng hợp tác và tác chiến mới trong liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào đƣợc thiết lập. Đó là sự hình thành liên minh nhân dân chiến đấu giữa Việt Nam và Lào trên tinh thần đoàn kết, hợp tác hữu nghị, tự nguyện và thân thiện phấn đấu vì mục tiêu cuối cùng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lƣợc và bọn can thiệp Mỹ giành lại độc lập, tự do cho nhân dân Đông Dƣơng. Ngày 11-3-1951, Hội nghị liên minh nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) chủ trƣơng thành lập khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tƣơng trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Từ nay chẳng những là toàn dân Việt Nam đoàn kết, mà toàn dân hai nước anh em là Cao Miên và Ai Lao cùng đi đến đại đoàn kết”[3]. Mặt khác, Hoàng thân Xuphanuvông, Trƣởng đoàn đại biểu Mặt trận Lào Ítxala đã nêu bật ý nghĩa quan trọng của sự kiện này: “Mặt trận Liên minh Việt - Miên - Lào mà chúng ta thành lập ngày hôm nay có ý nghĩa rất trọng đại, trong lịch sử từ trước tới nay chưa từng có. Chúng tôi nhận thấy đó là những quả tạ ngàn cân để đập tan mọi mưu mô chia rẽ của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, nó đã biến lực lượng mạnh mẽ của chúng ta thành lực lượng vô biên để tiêu diệt tất cả kẻ xâm lăng nào muốn xâm lược lãnh thổ chúng ta”[3]. Thành công của Hội nghị, đánh dấu bƣớc phát triển mới về chất trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào; khi lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của hai quốc gia đã xây dựng đƣợc một liên minh chiến đấu chung quy tụ đƣợc sức mạnh tổng hợp của nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lƣợc và can thiệp của Mỹ, giành lại độc lập, tự do và thống nhất cho nhân dân mình. Kết quả của liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào đã đƣợc trả lời bằng thắng lợi vang dội trong Chiến dịch Thƣợng Lào (1953). Trong Chiến dịch này, liên quân Việt Nam - Lào đã phối hợp tác chiến tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã gần 2.800 lính sĩ quan của địch (bằng 1/5 tổng số lực lƣợng của Pháp tại Lào), giải phóng một vùng đất rộng 4.000 km2 gồm toàn tỉnh Sầm Nƣa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì (chiếm 1/5 diện tích Bắc Lào) và hàng chục vạn dân [6]. Đây chính là minh chứng cho sức mạnh tổng hợp và sức sáng tạo của liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào. Ba là, với quyết định lịch sử này, một trang sử mới trong lịch sử phát triển của nƣớc Lào hiện đại đã đƣợc thiết lập. Đánh dấu bằng sự kiện, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đƣợc thành lập tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất họp ở tỉnh Hủa Phăn từ 22-3 đến 6-4-1955 do đồng chí Kayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thƣ đã tạo ra bƣớc ngoặt lịch sử đối với tiến trình phát triển của Cách mạng Lào. Từ đây, nhân dân Lào anh hùng đã có một ngọn cờ hƣớng đạo riêng là Đảng Nhân dân Lào lãnh lấy sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, chèo lái con thuyền Cách mạng Lào đi đến bến bờ vinh quang là thực hiện thành công độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 102 hội tại Lào. Đến tháng 2-1972, Đảng Nhân dân Lào đổi tên thành Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Từ đó đến nay, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Lào anh hùng đã đoàn kết một lòng vƣợt qua muôn vàn khó khăn, thử thách vƣơn lên giành những thắng lợi quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng nhƣ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nƣớc Lào ngày một văn minh, giàu mạnh, thân thiện, yêu chuộng hòa bình, có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của khu vực và thế giới. Bốn là, với việc thành lập ở mỗi nƣớc một Đảng Cộng sản riêng đánh dấu bƣớc trƣởng thành trong nhận thức của Đảng và những ngƣời cộng sản Đông Dƣơng về nguyên tắc tôn trọng “Quyền dân tộc tự quyết”. Nguyên tắc này đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong Hội nghị thành lập Đảng (2-1930). Khi đó, bằng tài năng, kinh nghiệm và sự mẫn cảm chính trị sâu sắc của một chính khách tầm cỡ quốc tế, Ngƣời nhận thấy rằng vấn đề “Quyền dân tộc tự quyết” có một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nói chung và Đông Dƣơng nói riêng. Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Cái từ Đông Dương rất rộng, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”[8]. Và lịch sử đã chứng minh, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về tôn trọng “Quyền dân tộc tự quyết” là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, là sau sự sụp đổ của Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết - Thành trì của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào những năm đầu thập niên 90, kéo theo sự sụp đổ của một loạt các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu càng cho thấy sức sống và giá trị thời đại trong tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy quyết định lịch sử trên của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng tại Đại hội II là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử, xu thế phát triển của khu vực và thời đại. Từ đó đến nay, nguyên tắc này đã trở thành chuẩn mực trong việc định hình và thiết lập mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam dựa trên tinh thần bình đẳng, hợp tác hữu nghị, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nguyên tắc này, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam và nó sẽ tiếp tục đƣợc nối dài bởi các thế hệ ngƣời Việt Nam và ngƣời Lào hôm nay và mãi mãi mai sau. Năm là, quyết định lịch sử này đã tạo tiền đề quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Lào tiếp tục phát triển và gặt hái đƣợc những thắng lợi vang dội góp phần quan trọng vào việc viết lại lịch sử khu vực và thế giới thế kỷ XX. Đó là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) về kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam và Lào, mở đƣờng cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (kiểu cổ điển) trên phạm vi toàn thế giới. Đó là thắng lợi của bản anh hùng ca chống Mỹ cứu nƣớc giành lại độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và Lào; đồng thời mở đƣờng cho sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên phạm vi toàn thế giới. Đó là thắng lợi trong công cuộc bảo vệ, giữ gìn và không ngừng phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào sau khi kết thúc sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc mà Hiệp ƣớc Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (ký ngày 18- 103 7-1977) tại Thủ đô Viêng Chăn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) giữa Thủ tƣớng nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tƣớng nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Kayxỏn Phômvihản là thành quả tiêu biểu. Đây là Hiệp ƣớc toàn diện đầu tiên trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng, là biểu tƣợng cao đẹp cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong thời kỳ mới - thời kỳ hai nƣớc tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2.3. Sự tiếp nối tư tưởng từ Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng (1951) trong quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào hiện nay Hiện nay, trên cơ sở kế thừa và phát triển tƣ tƣởng của Đại hội II về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Đó là tƣ tƣởng về tôn trọng “Quyền dân tộc tự quyết”, nguyên tắc đồng thuận, trung thực, hợp tác bình đẳng cùng có lợi và tin cậy lẫn nhau; hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó, tƣơng trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển; không ngừng giữ gìn, bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên một tầm cao mới dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây chính là sự tiếp nối, phát triển và mở rộng nội hàm nguyên tắc tôn trọng “Quyền dân tộc tự quyết” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại hội II (1951) đã sử dụng hiệu quả triệt để. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong việc định hình mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Hiện nay, quan hệ truyền thống, đoàn kết, hợp tác hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục đào tạo, an ninh quốc phòng...đều dựa trên nguyên tắc có tính chất sƣơng sống và rƣờng cột này. Thứ hai, nguyên tắc đoàn kết, trung thực, thành thật trong quan hệ hợp tác trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản, giúp bạn là tự giúp mình “Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” đƣợc Đại hội II hết sức đề cao. Với việc vận dụng thành công nguyên tắc này, Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Lào đã đạt đƣợc những thắng lợi vẻ vang trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng nhƣ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đƣa quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trở thành biểu tƣợng mẫu mực và hiếm có trên thế giới. Hiện nay, nguyên tắc này tiếp tục đƣợc hai nƣớc vận dụng hiệu quả trong quan hệ hợp tác. Thứ ba, nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi trong quan hệ hợp tác. Với chủ trƣơng thành lập ở mỗi nƣớc một Đảng Cộng sản riêng, ngay từ Đại hội II, những ngƣời cộng sản Việt Nam và Lào đã hết sức coi trọng và đề cao vấn đề này. Điểm mấu chốt của nguyên tắc này là trong quá trình hợp tác, hai bên đều có quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, điều kiện và cơ hội phát triển nhƣ nhau, không có sự phân biệt, đối xử nƣớc lớn, nƣớc nhỏ, nƣớc có trình độ phát triển cao và nƣớc có trình độ phát triển thấp...Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng góp phần vào việc duy trì, bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Hiện nay, hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc đang tích cực vận dụng, triển khai và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này trong quá trình giao lƣu, hợp tác giữa hai bên. 104 Thứ tư, nguyên tắc tin cậy trong quan hệ hợp tác. Niềm tin trong quan hệ giữa Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Lào đã đƣợc thử thách và tôi luyện trong những năm tháng, khó khăn, ác liệt nhất của chiến tranh. Trong giai đoạn hai nƣớc cùng tiến hành xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, nguyên tắc tin cậy lẫn nhau là hết sức cần thiết và không thể thiếu trong quan hệ, hợp tác giữa Việt Nam và Lào. Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách xuyên tạc, phá hoại mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, hợp tác hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Do đó, vấn đề niềm tin và giữ vững niềm tin có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo thành công mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hiện nay. Thứ năm, nguyên tắc đồng thuận trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tin tƣởng, hợp tác bình đẳng cùng có lợi trong quan hệ hợp tác tiếp tục đƣợc hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc giữ gìn và vận dụng hiệu quả. Nhờ đó, Việt Nam và Lào đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng nhƣ giải quyết những vấn đề toàn cầu mang tính khu vực và quốc tế đòi hỏi sự đồng thuận và nhất trí cao giữa hai nƣớc. Nhƣ vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển những tƣ tƣởng quan trọng của Đại hội II, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, dƣới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nỗ lực quyết tâm cố gắng của nhân dân hai nƣớc, quan hệ hợp tác toàn diện đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt chính trị; kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng, đối ngoại Những thành tựu đó, là cơ sở, tiền đề quan trọng và động lực thúc đẩy quan hệ truyền thống tốt đẹp, hợp tác hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục đơm hoa, kết trái và gặt hái đƣợc nhiều thành công hơn nữa trong tƣơng lai. Ngày nay, những nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam, Lào mà còn có ý nghĩa sống còn, trở thành nền tảng trong việc định hình những nguyên tắc và phƣơng hƣớng hoạt động của với nhiều nƣớc và tổ chức trong khu vực và quốc tế mà ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) với Hiến chƣơng ASEAN là một minh chứng cụ thể. 3. Kết luận Có thể nói, Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng (2-1951) với quyết định lịch sử tách Đảng Cộng sản Đông Dƣơng thành lập ở Việt Nam, Lào mỗi nƣớc một Đảng Cộng sản riêng là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo; đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, bắt kịp xu thế của thời đại, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của quần chúng nhân dân mỗi nƣớc. Bởi lẽ, nếu không có sự kiện trọng đại này thì sẽ không có Đảng Nhân dân Lào (nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) - Chủ thể trực tiếp lãnh đạo nhân dân Lào anh hùng đấu tranh giải phóng dân tộc thành công và xây dựng một nƣớc Lào hiện đại nhƣ ngày nay. Từ đây, bản thiên anh hùng ca về mối quan hệ đặc biệt mang tên Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã đƣợc viết lên bởi truyền thống đoàn kết, tình nghĩa thủy chung, trong sáng và chủ 105 nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành biểu tƣợng mẫu mực và cao đẹp trong lịch sử thế giới hiện đại về tinh thần quốc tế vô sản nhƣ sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Việt - Lào hai nƣớc chúng ta. Tình sâu hơn nƣớc Hồng Hà, Cửu Long” và Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản từng khẳng định “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gƣơng sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhƣng chƣa ở đâu và chƣa bao giờ có sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện nhƣ vậy”. Vì vậy, sự kiện lịch sử trọng đại này có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam và Lào mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với mối quan hệ đặc biệt mang tên Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện đảng Toàn tập (Tập 2). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện đảng Toàn tập (Tập 12). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3] Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011). Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. [4] George C. Hering (1998). Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nƣớc Mỹ. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5] Lƣơng Ninh (1991). Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á (Tập 2). Nhà xuất bản Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội . [6] Trƣơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2009). Đại cƣơng Lịch sử Việt Nam toàn tập. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [7] Nguyễn Anh Thái (2009). Lịch sử Thế giới hiện đại. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [8] Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử Đảng. Vấn đề thống nhất các tổ chức cộng sản, tr. 25. THE SPECIAL RELATIONSHIP BETWEEN VIETNAM AND LAOS - A CONTINUATION OF THE CONCEPTION FROM THE 2ND CONGRESS, COMMUNIST PARTY (2/1951) Dao Van Truong Tay Bac University Abstract: In February 1951, the second Congress of the Indochinese Communist Party decided to establish separate Communist Parties in Vietnam, Laos and Cambodia on the basis of respect for the «National Self-Determination». With this great historic decision, a new history of the special relations between Vietnam and Laos and Laos and Vietnam was written by loyalists, religious figures and heroic revolutionaries, and has become a beautiful symbol, an exemplary of international solidarity in the twentieth century. Therefore, studying and learning about a historic Congress with a historic decision to better understand the special relationship between Vietnam and Laos , Laos and Vietnam is now necessary and great significance. Keywords: Congress, special relationship, Viet Nam, Laos.
File đính kèm:
- quan_he_dac_biet_viet_nam_lao_hien_nay_la_su_tiep_noi_tu_tuo.pdf