Quan điểm Mác xít và một số lý thuyết phương Tây đương đại về bản chất của trí tuệ

Trong thời đại hiện nay, người ta đều nhận định rằng, cuộc cạnh tranh

khốc liệt đang diễn ra giữa các cường quốc và giữa các quốc gia trong cộng đồng thế

giới về thực chất cũng là cuộc cạnh tranh về trí tuệ. Tuy nhiên, không dễ để trả lời

cho câu hỏi: Trí tuệ là gì? Cấu trúc của nó ra sao? Nó có những yếu tố cơ bản nào?

Bài viết tập trung phân tích quan điểm mác xít về bản chất và vai trò của trí tuệ với

tư cách là nguồn lực; đồng thời điểm qua một số lý thuyết hiện đại về trí tuệ của các

tác giả phương Tây như: Spearman, Cattell, Thurstone, Jaeger, Sternberg,

Gardner. Qua đó cho thấy, trí tuệ bao gồm nhiều yếu tố khá phức tạp và cuộc

tranh luận vẫn chưa có hồi kết.

 

pdf 6 trang kimcuc 2300
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm Mác xít và một số lý thuyết phương Tây đương đại về bản chất của trí tuệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm Mác xít và một số lý thuyết phương Tây đương đại về bản chất của trí tuệ

Quan điểm Mác xít và một số lý thuyết phương Tây đương đại về bản chất của trí tuệ
 Quan điểm mỏc xớt và một số lý thuyết 
phương Tõy đương đại về bản chất của trớ tuệ 
Nguyễn Chí Hiếu(*) 
Tóm tắt: Trong thời đại hiện nay, ng−ời ta đều nhận định rằng, cuộc cạnh tranh 
khốc liệt đang diễn ra giữa các c−ờng quốc và giữa các quốc gia trong cộng đồng thế 
giới về thực chất cũng là cuộc cạnh tranh về trí tuệ. Tuy nhiên, không dễ để trả lời 
cho câu hỏi: Trí tuệ là gì? Cấu trúc của nó ra sao? Nó có những yếu tố cơ bản nào? 
Bài viết tập trung phân tích quan điểm mác xít về bản chất và vai trò của trí tuệ với 
t− cách là nguồn lực; đồng thời điểm qua một số lý thuyết hiện đại về trí tuệ của các 
tác giả ph−ơng Tây nh−: Spearman, Cattell, Thurstone, Jaeger, Sternberg, 
Gardner... Qua đó cho thấy, trí tuệ bao gồm nhiều yếu tố khá phức tạp và cuộc 
tranh luận vẫn ch−a có hồi kết. 
Từ khóa: Quan điểm mác xít, Ph−ơng Tây, Nguồn lực trí tuệ, Bản chất trí tuệ 
1. Quan điểm mác xít về bản chất và vai trò của 
trí tuệ (*) 
Bản chất của trí tuệ 
Theo quan điểm mác xít, trí tuệ con 
ng−ời đ−ợc hình thành và phát triển từ 
việc cải tạo thế giới tự nhiên thông qua 
hoạt động thực tiễn. Qua quá trình hoạt 
động thực tiễn, đặc biệt là quá trình lao 
động sản xuất, thế giới đ−ợc phản ánh 
vào bộ não ng−ời và trở thành nguồn 
cung cấp nguyên liệu cần thiết, vô tận 
cho sự hình thành và phát triển của trí 
tuệ. Song, sự phản ánh đó không phải là 
nhất thời, giản đơn, thụ động và máy 
(*) TS., Học viện Chính trị Khu vực I; Email: 
nguyenchihieu_05@yahoo.com. 
móc, mà là một quá trình phức tạp của 
hoạt động trí tuệ đầy tích cực và sáng tạo. 
Hoạt động thực tiễn của con ng−ời 
ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu 
sống, nhu cầu tồn tại của con ng−ời. Để 
tồn tại, con ng−ời phải sản xuất vật 
chất, cải tạo tự nhiên và xã hội. Nh− 
vậy, thông qua hoạt động thực tiễn, con 
ng−ời tác động vào sự vật làm cho 
chúng bộc lộ các thuộc tính, tính chất, 
quy luật của mình. Trên cơ sở đó, con 
ng−ời mới có hiểu biết (tri thức) về sự 
vật và dần dần khái quát những hiểu 
biết này thành lý luận, nâng cao trình 
độ và năng lực trí tuệ của mình. 
Bên cạnh đó, các nhà kinh điển mác 
xít đều nhấn mạnh tới khả năng sáng 
tạo của con ng−ời và coi sáng tạo là một 
10 Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2015 
đặc tr−ng quan trọng nhất của trí tuệ. 
Sáng tạo đ−ợc hiểu là sự v−ợt thoát khỏi 
cái cũ, lỗi thời, khám phá ra cái mới 
trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát triển 
những tri thức cũ, những kinh nghiệm 
mà chủ thể đã tích luỹ đ−ợc. Trí tuệ 
không chỉ dừng ở năng lực t− duy, tích 
luỹ tri thức, mà còn phải có sự sáng tạo, 
phát hiện cái mới. Vì vậy, có thể nói khái 
niệm “trí tuệ” bao hàm bốn yếu tố gắn 
bó chặt chẽ với nhau: năng lực t− duy, 
tri thức tích luỹ đ−ợc, sự sáng tạo cái 
mới và vận dụng các yếu tố đó vào thực 
tế (Xem: D−ơng Phú Hiệp, 2008, tr.51). 
Trí tuệ phải biến thành trí lực, thành 
năng lực thực tiễn giải quyết vấn đề một 
cách phù hợp, linh hoạt và sáng tạo. 
Theo đó, có tác giả đ−a ra “định 
nghĩa khái quát” từ góc độ triết học 
Marx về trí tuệ nh− sau: “Trí tuệ là sản 
phẩm sáng tạo về tinh thần của con 
ng−ời, thể hiện qua việc huy động có 
hiệu quả l−ợng tri thức tích luỹ vào quá 
trình sáng tạo cái mới, nhằm cải biến tự 
nhiên, xã hội và bản thân con ng−ời 
trong sự phát triển ngày càng tiến bộ, 
văn minh” (Xem: Bùi Thị Ngọc Lan, 
2002, tr.21). Đồng thời, tác giả này coi 
trí tuệ là một trong các hình thức hoạt 
động tinh thần của con ng−ời, nó thuộc 
phạm trù ý thức và là sự kết tinh của ý 
thức ở trình độ cao; chủ yếu là trình độ 
nhận thức lý tính (cao nhất là nhận 
thức bản chất, quy luật vận động và 
phát triển của sự vật) nên nó cũng có 
những đặc tính chung của ý thức (Xem: 
Bùi Thị Ngọc Lan, 2002, tr.13-14). Cũng 
giống nh− ý thức, mọi quá trình trí tuệ 
xảy ra trong con ng−ời tất yếu phải có 
một cơ sở vật chất t−ơng ứng và đó 
chính là bộ não con ng−ời - một dạng 
vật chất phát triển cao nhất, tinh vi 
nhất và là cơ quan vật chất của trí tuệ. 
Vì vậy, có tác giả khẳng định trí tuệ 
chính là bộ óc biết t− duy và đang t− 
duy của con ng−ời (Xem: Phạm Thị 
Ngọc Trầm, 1993, tr.22). 
Theo chúng tôi, các tác giả trên vẫn 
ch−a làm rõ đ−ợc sự khác biệt giữa trí 
tuệ, tinh thần, ý thức và t− duy, nhất là 
giữa trí tuệ và ý thức, từ đó dẫn tới việc 
coi cấu trúc của trí tuệ không khác mấy 
so với cấu trúc của ý thức; tức là cũng 
gồm tri thức, tình cảm (cảm xúc), niềm 
tin, lý t−ởng, ý chí... Trong khi đó, ở 
ph−ơng Tây, đã có rất nhiều lý thuyết 
nghiên cứu theo h−ớng tìm kiếm, xác 
định và “mổ xẻ” các yếu tố của trí tuệ để 
từ đó xem xét các ảnh h−ởng của chúng 
tới trí tuệ và tới nguồn lực trí tuệ của 
con ng−ời (Xem thêm:  
wikipedia.org...). Chính vì vậy, để góp 
phần làm rõ hơn về bản chất của trí tuệ, 
trong bài viết này, chúng tôi điểm qua 
một số lý thuyết ph−ơng Tây đ−ơng đại 
đã h−ớng tới phân tích các yếu tố của trí 
tuệ một cách cụ thể hơn. 
Vai trò của trí tuệ nói chung 
Trong bộ T− bản, K. Marx đánh giá 
cao vai trò của trí tuệ trong quá trình 
lao động sản xuất, đồng thời cũng phân 
định, chỉ rõ sự khác biệt giữa lao động 
phức tạp đòi hỏi chuyên môn, trình độ 
trí tuệ cao hơn so với lao động giản đơn. 
Không chỉ thế, theo K. Marx, chính con 
ng−ời khi phát triển sự sản xuất vật 
chất và sự giao tiếp vật chất của mình 
đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó 
của mình, cả t− duy lẫn sản phẩm t− 
duy của chính mình. 
Bên cạnh đó, F. Engels cũng chỉ ra 
vai trò quan trọng của trí tuệ con ng−ời 
với t− cách là chủ thể lịch sử trong việc 
nhận thức các quy luật khách quan 
nhận thức đ−ợc cái tất yếu để từng b−ớc 
v−ơn tới v−ơng quốc của tự do. Ông cho 
rằng: “Trong kinh nghiệm, cái quan 
Quan điểm mác xít 11 
trọng chính là trí tuệ mà ng−ời ta dùng 
để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ 
đại thực hiện đ−ợc những kinh nghiệm 
vĩ đại, và thấy đ−ợc cái gì là quan trọng 
trong sự vận động muôn vẻ của các hiện 
t−ợng” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn 
tập, Tập 20, 1994, tr.687). 
Kế thừa, bảo vệ và phát triển các t− 
t−ởng của K. Marx và F. Engels trong 
điều kiện mới, V. I. Lenin đã tiếp tục 
khẳng định, đề cao vai trò của t− duy, 
trí tuệ con ng−ời trong quá trình khám 
phá bản chất đích thực của sự vật, hiện 
t−ợng: “T− t−ởng của ng−ời ta đi sâu 
một cách vô hạn, từ hiện t−ợng đến bản 
chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể 
nói nh− vậy, đến bản chất cấp hai,v.v 
cứ nh− thế mãi” (V. I. Lê nin, Toàn tập, 
Tập 29, tr.268). Tuy nhiên, Lenin cũng 
chỉ rõ: nếu trí tuệ và những kiến thức 
khoa học bị những kẻ có đặc quyền, 
những lực l−ợng thống trị phản động 
kiềm chế và sử dụng thì nó sẽ trở thành 
vũ khí nô dịch quần chúng. Cách mạng 
vô sản phải có nhiệm vụ giành lại vũ 
khí đó vì sự nghiệp giải phóng con ng−ời 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Thực tiễn ngày càng chứng minh 
tính đúng đắn của các nhà kinh điển 
mác xít về vai trò hết sức quan trọng của 
trí tuệ và nguồn lực trí tuệ nói chung. 
2. Một số lý thuyết ph−ơng Tây hiện đại về trí tuệ 
và các yếu tố cấu thành trí tuệ 
Lý thuyết hai yếu tố của Spearman 
Charles Spearman, nhà tâm lý học 
ng−ời Anh, xây dựng lý thuyết về trí tuệ 
bao gồm hai yếu tố là yếu tố trung tâm, 
phổ quát (g - factor; g=general) và các 
yếu tố đặc thù (s - factors; s=specific). 
Yếu tố g bao trùm toàn bộ trí tuệ nói 
chung và có tính chất quyết định, đặc 
biệt là đối với tốc độ xử lý thông tin, 
tiềm năng tinh thần và năng lực trí tuệ. 
Nói tóm lại, nó là cái cho ta biết một cá 
nhân có năng lực trí tuệ bình th−ờng 
hay cá nhân ấy là một “thiên tài”. 
Bên cạnh yếu tố g này, Spearman 
còn trừu t−ợng hóa một loạt các yếu tố 
trí tuệ đặc thù khác và gọi chúng là các 
yếu tố s. Chúng là các yếu tố không phụ 
thuộc lẫn nhau và có vai trò thấp hơn 
yếu tố g, đều bị yếu tố g chi phối. Chúng 
quyết định đến năng lực trí tuệ của các 
cá nhân trong từng lĩnh vực xác định, ví 
dụ nh− năng lực giải các bài tập toán 
hoặc khả năng nắm bắt không gian. 
Nh− vậy, theo Spearman, mỗi ng−ời 
đ−ợc đặc tr−ng bởi một trình độ trí tuệ 
chung xác định, mà phụ thuộc vào nó là 
việc ng−ời đó thích nghi thế nào với môi 
tr−ờng xung quanh. Ngoài ra, tất cả mọi 
ng−ời ở mức độ khác nhau đều có những 
khả năng đặc thù khá phát triển, biểu 
hiện trong việc giải quyết những vấn đề 
cụ thể. Vì vậy, theo lý thuyết này, nhân 
tố trí tuệ chung có tỷ trọng lớn nhất khi 
thực hiện các bài tập trừu t−ợng và nhỏ 
nhất khi thực hiện các bài tập có tính 
chất ít trừu t−ợng. 
Lý thuyết hai yếu tố của Cattell 
Raymond Bernard Cattell, nhà tâm 
lý học ng−ời Mỹ, gọi hai yếu tố của trí 
tuệ là trí tuệ “mềm” và trí tuệ “kết 
tinh”. Trí tuệ “mềm” là bẩm sinh, có 
tính di truyền và không bị tác động bởi 
môi tr−ờng; chẳng hạn nh− tiềm năng 
tinh thần, khả năng bao quát, trình độ 
xử lý thông tin nói chung. Theo ông, trí 
tuệ “mềm” có chức năng phân tích các 
nhiệm vụ, các khả năng nh− t− duy 
logic và việc tạo ra, sử dụng các tổ hợp 
phức tạp cũng thuộc về nó. Trí tuệ 
“mềm” quyết định tr−ớc hết tới khả 
năng thích ứng với các vấn đề mới và 
trong các tình huống mới. 
12 Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2015 
 Trí tuệ “kết tinh” bao hàm toàn bộ 
những khả năng, những năng lực mà 
con ng−ời học đ−ợc trong toàn bộ cuộc 
đời và bị quy định bởi môi tr−ờng bên 
ngoài; do vậy, giáo dục, đào tạo và văn 
hóa là những nhân tố chủ chốt tạo nên 
nội dung của loại hình trí tuệ này. Dĩ 
nhiên, trí tuệ “kết tinh” cũng bị quy định 
bởi trí tuệ “mềm” và cả hai loại trí tuệ 
này tồn tại trong mối liên hệ mật thiết, 
không tách rời nhau. Do vậy, có thể nói, 
trí tuệ “kết tinh” là “sản phẩm” do trí 
tuệ “mềm” và giáo dục, đào tạo cùng 
nhau “sản xuất” ra. Ngoài ra, Cattell 
còn cho rằng, trí tuệ “kết tinh” phát 
triển chủ yếu từ 18 đến 20 tuổi, nh−ng 
cũng có thể kéo dài cho tới 50 tuổi. 
Mô hình các yếu tố −u trội của 
Thurstone 
Louis Leon Thurstone, nhà tâm lý 
học ng−ời Mỹ, bác bỏ lý thuyết cho rằng 
có yếu tố trung tâm nằm trên các yếu tố 
khác của trí tuệ. Ông nhấn mạnh tới các 
lĩnh vực đặc thù, −u trội ngang nhau 
của trí tuệ và coi trí tuệ là sự kết hợp 
các yếu tố khác nhau đó một cách hữu 
cơ lại với nhau. Theo đó, Thurstone đ−a 
ra 7 yếu tố −u trội sau: 1/ Khả năng 
nắm bắt không gian; 2/ Năng lực tính 
toán; 3/ Hiểu ngôn ngữ; 4/ Khả năng 
nói, diễn đạt trôi chảy, l−u loát; 5/ Trí 
nhớ; 6/ Tốc độ tri giác và 7/ T− duy logic. 
Mô hình cấu trúc trí tuệ của Jaeger 
Mô hình này đ−ợc Adolf Otto Jaeger 
- giáo s− tại Đại học Berlin - xây dựng 
năm 1984 tại Berlin (mô hình Berlin). 
Jaeger đ−a ra 7 bộ phận chủ yếu của trí 
tuệ nh− sau: 
a) Tốc độ xử lý: tốc độ làm việc, khả 
năng tập trung và nắm bắt khi giải 
quyết những vấn đề đơn giản và có độ 
khó thấp. 
b) Khả năng nhớ: có thể khôi phục 
lại nhanh chóng những tác động về 
ph−ơng diện từ ngữ, số liệu và biểu 
t−ợng. 
c) Trí t−ởng t−ợng phong phú: có thể 
sản sinh rất nhiều ý t−ởng khác nhau 
và sử dụng rất nhiều thông tin, có thể 
thấy đ−ợc các mặt khác nhau, các khả 
năng và nguyên nhân khác nhau của 
đối t−ợng. 
d) Khả năng xử lý bậc cao: đối với 
các tổ hợp thông tin, các nhiệm vụ có 
mối quan hệ đa dạng, phức tạp, t− duy 
logic hình thức và khả năng phán đoán 
hợp lý. 
e) T− duy gắn liền với ngôn ngữ: 
t−ơng ứng với trình độ sử dụng ngôn 
ngữ. 
f) T− duy liên quan đến con số: khả 
năng tính toán hoặc nhớ các con số. 
g) T− duy bằng trực quan: liên quan 
tới các hình t−ợng, biểu t−ợng. 
Theo Jaeger, trí tuệ nói chung phải 
bao gồm 7 bộ phận chủ yếu trên, nh−ng 
đây không phải là những yếu tố cuối 
cùng mà chúng chỉ đóng vai trò là “hạt 
nhân” của mô hình trí tuệ và do vậy, 
trong t−ơng lai có thể và cần phải tiếp 
tục bổ sung thêm các yếu tố khác vào 
mô hình này. 
Tuy vậy, các nhà nghiên cứu theo 
khuynh h−ớng “lý thuyết về quá trình 
thông tin” lại bác bỏ ý t−ởng về các yếu 
tố cơ bản của trí tuệ trong các mô hình 
lý thuyết của các tác giả mà chúng tôi 
đã đề cập ở trên. ở đây, những ng−ời 
này lại quan tâm chủ yếu đến các quá 
trình tiếp nhận và xử lý thông tin. Về cơ 
bản, họ h−ớng đến ba câu hỏi sau: 1/Có 
các quá trình tiếp nhận loại nào? 2/ Quá 
trình đó diễn ra nh− thế nào? 3/ Nó dựa 
trên cơ sở tâm thần nào? 
Quan điểm mác xít 13 
Mô hình ba lý thuyết về trí tuệ của 
Sternberg 
Robert Sternberg, giáo s− về phát 
triển con ng−ời tại Đại học Cornell, đ−a 
ra mô hình 3 lý thuyết về trí tuệ nh− sau: 
a) Lý thuyết bối cảnh: Mỗi một 
ng−ời đều sở hữu trí tuệ liên quan tới 
đặc thù văn hóa và đặc thù môi tr−ờng. 
Chính loại trí tuệ này làm cho con ng−ời 
có khả năng hoà hợp với môi tr−ờng 
sống, nhờ nó họ mới có thể tạo dựng và 
gìn giữ các mối quan hệ xã hội hoặc ít 
nhiều mới có thể tuân theo đ−ợc các 
chuẩn mực văn hóa. 
b) Lý thuyết kép: Điều quan trọng 
đối với nghiên cứu về trí tuệ không chỉ 
là việc nắm bắt đ−ợc các quá trình giải 
quyết vấn đề và kết quả của chúng, mà 
còn phải nắm bắt đ−ợc “tiến trình tự 
động” diễn ra của quá trình này, vì nó 
có ảnh h−ởng hết sức quan trọng đối với 
kết quả của một “chiến l−ợc giải quyết 
vấn đề” nào đó. 
c) Lý thuyết các bộ phận của trí tuệ: 
Sternberg phân biệt 5 bộ phận chính 
của quá trình tiếp nhận thông tin, bao 
gồm: 1/ Khả năng đặc thù trong từng 
tr−ờng hợp cụ thể; 2/ Năng lực kiểm tra; 
3/ Khả năng l−u giữ trong trí nhớ; 4/ 
Khả năng “lấy ra” thông tin từ trí nhớ; 
và 5/ Năng lực chuyển giao thông tin. 
Một trong những đóng góp quan 
trọng của Sternberg chính là việc mở 
rộng khái niệm trí tuệ. Theo đó, trí tuệ 
bao hàm việc học tập từ kinh nghiệm, 
năng lực suy lý trừu t−ợng, khả năng 
thích ứng với môi tr−ờng đang th−ờng 
xuyên biến đổi, phát triển và là động cơ 
thúc đẩy con ng−ời đạt tới tri thức mới 
và năng lực mới nói chung. 
Lý thuyết đa trí tuệ theo quan niệm 
của Howard Gardner 
Howard Gardner - nhà tâm lý học 
nổi tiếng của Đại học Harvard - cho 
rằng chúng ta không sở hữu một trí tuệ 
mà sở hữu rất nhiều trí tuệ, tồn tại 
không phụ thuộc lẫn nhau và từ quan 
niệm này, ông đ−a ra lý thuyết đa trí 
tuệ. Mỗi một trí tuệ do một “khu vực” 
độc lập trên não “phụ trách”, các khu 
vực này hoạt động một cách t−ơng đối 
độc lập với nhau và do vậy, khi một loại 
trí tuệ bị tổn th−ơng thì điều đó cũng 
không gây ra ảnh h−ởng trầm trọng tới 
các loại trí tuệ khác. 
Ngoài ra, Gardner còn phân định 
hai lĩnh vực của trí tuệ, đó là: lĩnh vực 
trí tuệ cá nhân (bao gồm những tri thức 
về bản thân mình, sự luận giải về 
những tình cảm và cách thức ứng xử 
của cá nhân...) và lĩnh vực trí tuệ liên cá 
nhân (liên quan tới tri thức về sự ứng 
xử giữa các cá nhân với nhau, hay 
những phán đoán, phỏng đoán về những 
ứng xử của các cá nhân khác để từ đó có 
cách thức ứng xử phù hợp...). 
Trong cuốn sách Frames of Mind: 
The Theory of Multiple Intelligences 
(Các khuôn khổ của trí tuệ: Lý thuyết đa 
trí tuệ), Gardner khẳng định các cá 
nhân có mức độ năng khiếu cao ở một 
loại trí tuệ thì không nhất thiết có năng 
khiếu t−ơng tự ở loại trí tuệ khác. Nh− 
vậy, khái niệm “đa trí tuệ” đối lập với 
cách nhìn truyền thống và phổ biến 
hiện nay về thông minh nh− là một khả 
năng nói chung và có thể đo đ−ợc bằng 
một th−ớc đo và tóm l−ợc lại chỉ bởi một 
con số nh− chỉ số IQ chẳng hạn. Do vậy, 
Gardner cho rằng: Vấn đề không phải là 
bạn thông minh nhiều đến mức nào mà 
chính là việc bạn thông minh nh− thế 
nào (lĩnh vực nào)? 
Theo Gardner, các bài trắc nghiệm 
về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi 
đo l−ờng vào các khả năng lý luận toán 
14 Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2015 
học và ngôn ngữ, mà hầu nh− đã bỏ 
quên những năng khiếu khác mà học 
sinh có thể xuất sắc, chẳng hạn nh− sự 
khéo tay trong ngành thủ công, khả 
năng của cơ thể trong vận động thể 
thao, khả năng giao tiếp với ng−ời khác, 
đầu óc sáng tạo trong âm nhạc và nghệ 
thuật, tài thuyết phục, th−ơng l−ợng, 
v.v Các bài trắc nghiệm th−ờng bỏ 
qua những yếu tố nh− sự cố gắng và 
kiên trì, chúng phải đ−ợc coi là yếu tố 
quan trọng giúp học sinh đạt đ−ợc 
thành công ngoài xã hội. 
Tuy nhiên, lý thuyết đa trí tuệ của 
Gardner vấp phải nhiều sự chỉ trích, 
chẳng hạn nh− nhà nghiên cứu Detlef 
Rost đã phê phán lý thuyết này là ch−a 
có đủ các kết quả nghiên cứu khoa học 
chứng thực. 
3. Kết luận 
Xuất phát từ quan điểm mác xít và 
kế thừa những thành tựu của các lý 
thuyết ph−ơng Tây tiêu biểu về bản 
chất và cấu trúc của trí tuệ, có thể thấy 
trí tuệ không chỉ liên quan đến năng lực 
nhận thức, mà còn đến năng lực thích 
nghi của con ng−ời và môi tr−ờng xung 
quanh. Trí tuệ đ−ợc hiểu là một trình độ 
t− duy phát triển nhất định của con 
ng−ời xã hội đảm bảo khả năng tiếp thu 
những kiến thức ngày càng mới và sử 
dụng chúng có hiệu quả trong đời sống. 
Từ đó, có thể đồng tình với quan niệm 
cụ thể sau đây về trí tuệ: “Với tính cách 
là thành tố cơ bản của nhân cách, trí 
tuệ là sự tổng hợp của năng lực nhận 
thức (năng lực cảm giác, trí nhớ, t−ởng 
t−ợng, t− duy trừu t−ợng, phân tích, 
tổng hợp, phát hiện các mối liên hệ, tính 
quy luật và sự khác biệt, rút ra kết 
luận, năng lực thấu hiểu, năng lực trực 
giác,v.v) và năng lực thực tiễn (năng 
lực vận dụng tri thức, sử dụng ngôn 
ngữ, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, 
năng lực giải quyết vấn đề, hành động 
có mục đích) của con ng−ời trong việc 
thích nghi một cách sáng tạo và có hiệu 
quả với môi tr−ờng xung quanh” (Xem: 
Nguyễn Văn Khánh, 2010, tr.26). 
Thiết nghĩ, để cho nguồn nhân lực 
nói chung, nguồn lực trí tuệ nói riêng 
phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh 
tế - xã hội và trở thành động lực thì phải 
kích thích nó (tr−ớc hết thông qua khâu 
cơ bản là nhu cầu và lợi ích) và phải tạo 
đ−ợc một môi tr−ờng thuận lợi nhất (dân 
chủ, tự do, công bằng) cho các cá nhân 
và cho cả cộng đồng có điều kiện sáng 
tạo, cống hiến đ−ợc ở mức cao nhất  
Tài liệu trích dẫn 
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập 
(1994), Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
2. D−ơng Phú Hiệp (2008), Triết học 
và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
3. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên, 
2010), Xây dựng và phát huy nguồn 
lực trí tuệ Việt Nam, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
4. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực 
trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở 
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
5. V. I. Lê nin, Toàn tập (2005), Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. Phạm Thị Ngọc Trầm (1993), “Trí 
tuệ - nguồn lực vô tận của sự phát 
triển xã hội”, Tạp chí Triết học, số 1. 
7. 
nztheorie 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_mac_xit_va_mot_so_ly_thuyet_phuong_tay_duong_dai_v.pdf