Quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc và sự vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Khi đề cập đến khái niệm dân tộc, V.I.Lênin cho

rằng: Dân tộc là hình thức cộng đồng người xuất

hiện sau bộ lạc và là cộng đồng người gắn liền với

xã hội có giai cấp, nhà nước.

V.I.Lênin cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa

cùng với việc xóa bỏ chế độ bóc lột tư bản, đồng

nghĩa với việc chấm dứt sự thống trị của giai cấp

tư sản đối với dân tộc và dân tộc tư sản sẽ được

thay thế bằng dân tộc xã hội chủ nghĩa mà người

đại diện chân chính là giai cấp công nhân, mỗi dân

tộc đều có quyền tự quyết và mối quan hệ giữa các

dân tộc được duy trì và phát triển theo nguyên tắc

bình đẳng.

Vận dụng lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về

vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã phát triển thành học

thuyết quan trọng, khoa học. Thực tế cho thấy, đây

một hệ thống tư tưởng, lý luận hoàn chỉnh kết hợp

chặt chẽ tính khoa học và cách mạng trong học

thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc.

pdf 7 trang kimcuc 9920
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc và sự vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc và sự vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc và sự vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
30 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC, GIẢI QUYẾT 
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO QUAN ĐIỂM CỦA 
V.I.LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trịnh Quang Cảnh
Học viện Dân tộc
Email: canhtq@hvdt.edu.vn
Ngày nhận bài: 15/3/2020 
Ngày phản biện: 25/5/2020
Ngày tác giả sửa: 30/5/2020
Ngày duyệt đăng: 09/6/2020
Ngày phát hành: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/414
Bài viết phân tích những giá trị lý luận, thực tiễn trong quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân 
tộc đối với phong trào cách mạng thế giới; đồng thời chỉ rõ sự vận 
dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc, giải quyết 
vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp cách 
mạng Việt Nam, góp phần đấu tranh phản bác các quan điểm sai 
trái, phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, nhân 
văn của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Vấn đề dân tộc; Giải quyết vấn đề dân tộc; Quan hệ 
giữa dân tộc và giai cấp; V.I.Lênin.
1. Đặt vấn đề
Khi đề cập đến khái niệm dân tộc, V.I.Lênin cho 
rằng: Dân tộc là hình thức cộng đồng người xuất 
hiện sau bộ lạc và là cộng đồng người gắn liền với 
xã hội có giai cấp, nhà nước.
V.I.Lênin cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa 
cùng với việc xóa bỏ chế độ bóc lột tư bản, đồng 
nghĩa với việc chấm dứt sự thống trị của giai cấp 
tư sản đối với dân tộc và dân tộc tư sản sẽ được 
thay thế bằng dân tộc xã hội chủ nghĩa mà người 
đại diện chân chính là giai cấp công nhân, mỗi dân 
tộc đều có quyền tự quyết và mối quan hệ giữa các 
dân tộc được duy trì và phát triển theo nguyên tắc 
bình đẳng.
Vận dụng lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về 
vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã phát triển thành học 
thuyết quan trọng, khoa học. Thực tế cho thấy, đây 
một hệ thống tư tưởng, lý luận hoàn chỉnh kết hợp 
chặt chẽ tính khoa học và cách mạng trong học 
thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc.
2. Tổng quan nghiên cứu
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là 
vấn đề hết sức nhạy cảm của tất cả các dân tộc và 
của các quốc gia trong thời đại ngày nay. Ở Việt 
Nam, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc 
được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là vấn đề 
hết sức quan trọng trong xây dựng, bảo vệ, phát 
triển đất nước, với quan điểm: Bình đẳng, đoàn kết, 
tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân 
tộc, nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở 
Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu đề cập, ở nhiều 
nội dung khác nhau trong thời gian qua, cụ thể như: 
Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn, “Mấy vấn 
đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân 
tộc ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
1999; Uỷ ban Dân tộc, Viện Dân tộc, “Một số vấn 
đề về dân tộc và phát triển” Nxb. Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội, 2005; Trịnh Quang Cảnh, “Một số kiến 
thức cơ bản về dân tộc”, Nxb. Đại học Quốc gia 
Hà Nội, 2013; Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc 
và miền núi , “Vấn đề dân tộc và định hướng xây 
dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà 
Nội, 2002; Trần Quang Nhiếp, “Phát triển quan hệ 
dân tộc ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Văn hóa Dân 
tộc, 1997; Phan Hữu Dật, “Mấy vấn đề lý luận và 
thực tiễn liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện 
nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2001; “Văn kiện của 
Đảng về chính sách dân tộc”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 
1965; “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2016.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả được 
đề cập trên đã chỉ rõ vấn đề dân tộc và giải quyết 
vấn đề dân tộc ở Việt Nam với những nội dung sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã phân tích 
và trên cơ sở vận dụng đúng đắn quan điểm của chủ 
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam 
một cách sáng tạo.
Hai là, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết 
cách mạng, sáng tạo, học thuyết mở.
Ba là, những giá trị lý luận, thực tiễn của chủ 
nghĩa V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn 
đề dân tộc đối với cách mạng nước ta hiện nay là 
hết sức quan trọng.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
31Volume 9, Issue 2
Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện 
nay, việc giải quyết “Vấn đề dân tộc và giải quyết 
vấn đề dân tộc” của V.I.Lênin vẫn còn nguyên giá 
trị. Đây là vấn đề luôn có tính thời sự và cấp bách 
trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, 
góp phần đấu tranh chống lại mọi luận điệu sai trái, 
phản động, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học, 
nhân văn của chủ nghĩa V.L.Lênin trong giai đoạn 
hiện nay. 
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng một số phương pháp cơ bản như 
phương pháp kế thừa các tài liệu thứ cấp; phương 
pháp thu thập tài liệu sơ cấp, thứ cấp; phương pháp 
phân tích tổng hợp.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc 
và giải quyết vấn đề dân tộc
Thứ nhất, về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. 
Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trở thành mối 
quan hệ nổi bật trong xã hội, có tác động chi phối 
nhiều lĩnh vực khác. Chính vì thế, các nhà sáng lập 
chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng nhiều về mối 
quan hệ này.
Với V.I.Lênin, vấn đề dân tộc luôn được xem 
xét khi đặt nó trong tiến trình của cách mạng xã hội 
chủ nghĩa, như là một bộ phận không thể tách rời 
của cuộc cách mạng đó. Ông nhấn mạnh rằng, vấn 
đề dân tộc là vấn đề bộ phận phụ thuộc vào vấn đề 
giai cấp, vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc 
biệt, ông phê phán xu hướng tuyệt đối hóa vấn đề 
dân tộc, đặt vấn đề dân tộc lên trên vấn đề giai cấp, 
biến vấn đề dân tộc thành thứ “bái vật”. Quan điểm 
này của V.I.Lênin có căn cứ ở chỗ: Diễn đạt đúng 
vai trò chi phối của phương thức sản xuất đối với sự 
phát triển dân tộc; phản ánh đúng thực tế lịch sử là 
từ khi dân tộc xuất hiện, các phong trào dân tộc luôn 
gắn với cuộc đấu tranh giai cấp và chịu tác động 
chi phối của cuộc đấu tranh giai cấp; đồng thời chỉ 
cho giai cấp công nhân thấy rõ muốn thành công 
trong việc xây dựng những quan hệ dân tộc mới 
thì phải biết bắt đầu từ việc xây dựng những quan 
hệ giai cấp, quan hệ xã hội mới theo tinh thần mà 
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong “Tuyên ngôn 
của Đảng Cộng sản”: “Hãy xóa bỏ tình trạng người 
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này nô dịch dân 
tộc kia sẽ mất theo” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn 
tập. Tập 4, 1995, tr.624). Mặt khác, V.I.Lênin khẳng 
định, vấn đề dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt, 
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc sẽ góp phần có 
ý nghĩa quyết định vào sự thắng lợi của cuộc đấu 
tranh giai cấp, của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống xu hướng 
coi nhẹ vấn đề dân tộc, chỉ thấy vấn đề giai cấp mà 
không thấy vấn đề dân tộc. Quan điểm này của ông 
có căn cứ ở chỗ nhấn mạnh tính độc lập tương đối, 
tính năng động của vấn đề dân tộc. Tính năng động 
đó làm cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc 
bao giờ cũng tác động tích cực trở lại vấn đề giai 
cấp. 
Thứ hai, về hai xu hướng khách quan trong sự 
phát triển dân tộc. Tiếp tục nghiên cứu vấn đề dân 
tộc ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin phát 
hiện hai xu hướng khách quan: “Trong quá trình 
phát triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng 
lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất: Sự 
thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào 
dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân 
tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng 
thứ hai: Việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ 
quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng 
rào ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống 
nhất quốc tế của tư bản, của đời sống kinh tế nói 
chung, của chính trị, của khoa học...” (V.I.Lênin: 
Toàn tập. Tập 24, 1980, tr.158).
Xu hướng thứ nhất là xu hướng phân lập; xu 
hướng thứ hai là các dân tộc xích lại gần nhau. Hai 
xu hướng cùng tác động trong cả hai giai đoạn của 
chủ nghĩa tư bản, nhưng xu hướng thứ nhất tác động 
mạnh hơn ở giai đoạn đầu, còn xu hướng thứ hai tác 
động mạnh hơn ở giai đoạn sau.
V.I.Lênin còn chỉ rõ, hai xu hướng khách quan 
trên đây thể hiện trong điều kiện của chủ nghĩa tư 
bản gặp nhiều cản trở lớn. Nguyện vọng của các dân 
tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược 
của chủ nghĩa đế quốc đe dọa. Chủ nghĩa đế quốc 
đã biến hầu hết các dân tộc quốc gia nhỏ hoặc còn 
lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc. Xu hướng các 
dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở bình đẳng và tự 
nguyện bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó 
là những khối liên hiệp được lập ra nhằm duy trì sự 
áp bức, bóc lột đối với các dân tộc, quốc gia đó. Chỉ 
trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng 
người bóc lột người bị thủ tiêu, tình trạng dân tộc 
này áp bức nô dịch dân tộc khác bị xóa bỏ thì hai 
xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và 
mối quan hệ giữa các dân tộc mới có điều kiện thể 
hiện đầy đủ. V.I.Lênin nhiều lần nhấn mạnh rằng, 
trong Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của mình những 
người Mác-xít phải chú ý đầy đủ cả hai xu hướng 
khách quan trong sự phát triển dân tộc, có như vậy 
mới xác định được đúng các nhiệm vụ của mình.
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân 
tộc do V.I.Lênin phát hiện đang phát huy tác động 
trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất 
phong phú, đa dạng. Ở các quốc gia đa dân tộc đang 
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xu 
hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng 
dân tộc để đi tới sự tự chủ, phồn vinh của dân tộc 
mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sức thúc đẩy mạnh 
mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích 
lại gần nhau hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
32 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu 
hướng đó có thể phát huy tác dụng cùng chiều, bổ 
sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra ở từng dân tộc, 
trong cả cộng đồng quốc gia và đụng chạm đến tất 
cả các quan hệ dân tộc. Sự phát triển nhằm đi tới 
tự chủ, phồn vinh của từng dân tộc sẽ tạo điều kiện 
cho dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và 
tinh thần để hợp tác chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng, 
tự nguyện với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần 
nhau giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân 
tộc đi nhanh hơn tới tự chủ, phồn vinh. Điều đó cho 
phép mỗi dân tộc không chỉ sử dụng tiềm năng của 
dân tộc mình mà còn dựa vào tiềm năng của các dân 
tộc anh em để tiến lên phía trước. Sự xích lại gần 
nhau giữa các dân tộc trong cùng quốc gia có nghĩa 
là những tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó 
thâm nhập, giao thoa lẫn nhau, bổ sung hòa quyện 
để tạo thành những giá trị chung. Giá trị chung đó 
là kết quả đóng góp của các dân tộc, lại trở thành cơ 
sở để liên kết các dân tộc đó ở một trình độ cao hơn.
Phải làm sao cho sự giao thoa, hòa quyện đó 
không xóa bỏ sắc thái của từng dân tộc, không san 
bằng những đặc thù dân tộc; ngược lại, nó bảo lưu, 
giữ gìn và phát huy những tinh hoa, bản sắc của 
từng dân tộc. Mọi vi phạm quan hệ biện chứng giữa 
hai xu hướng khách quan nêu trên, như một số nước 
trước đây là xã hội chủ nghĩa đã chứng minh, bao 
giờ cũng dẫn tới những hậu quả tiêu cực. Từng quốc 
gia trên hành tinh đều phải tính toán thận trọng, tỉnh 
táo và nhạy bén trong hoạch định và thực hiện chiến 
lược phát triển của mình.
Thứ ba, cương lĩnh về vấn đề dân tộc của Lênin. 
Trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết” (từ 
tháng 2 đến tháng 5/1914) lần đầu tiên V.I.Lênin 
trình bày đầy đủ, chặt chẽ nội dung cương lĩnh dân 
tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc 
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các 
dân tộc lại: Đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa 
Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của 
nước Nga dạy cho công nhân” (V.I.Lênin: Toàn tập. 
Tập 25, 1980, tr.375).
Bình đẳng giữa các dân tộc, theo V.I.Lênin, thực 
chất là sự bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc về 
các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... 
phải được ghi nhận về pháp lý và quan trọng hơn 
là phải được thể hiện thực tế trong cuộc sống. Ông 
nhấn mạnh, sự bình đẳng dân tộc về kinh tế, bởi vì 
tách rời sự bình đẳng về kinh tế thì sự bình đẳng 
trên các lĩnh vực khác không được khẳng định đầy 
đủ và trong nhiều trường hợp biến thành khẩu hiệu 
và cuộc vận động mang tính chất nửa vời.
V.I.Lênin luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể 
khi xem xét, giải quyết vấn đề tự quyết trong phát 
triển các dân tộc. Trong thực tế, các dân tộc, quốc 
gia bị áp bức sẽ không có quyền bình đẳng về kinh 
tế, văn hóa, xã hội... Nếu không có quyền tự quyết, 
sẽ không có quyền bình đẳng về phát triển chính trị, 
kinh tế và văn hóa
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ 
nghĩa xã hội, mức độ bình đẳng giữa các dân tộc 
trong mỗi quốc gia tùy thuộc nhiều vào hình thức tổ 
chức nhà nước của quốc gia đó.
Thực tế, cách mạng hiện nay không bác bỏ 
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin, 
ngược lại còn cung cấp thêm những dữ liệu mới để 
xác nhận sự đúng đắn của cương lĩnh đó và đòi hỏi 
chi tiết hóa cương lĩnh đó, vận dụng sao cho phù 
hợp với điều kiện của mỗi dân tộc quốc gia trong 
thời đại ngày nay.
4.2. Sự vận dụng sáng tạo quan điểm của 
Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc 
được vận dụng vào nước ta thông qua Chủ tịch Hồ 
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng do 
Người sáng lập và rèn luyện). Tư tưởng chỉ đạo và 
phương pháp luận cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh 
khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói 
chung và lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc nói 
riêng là kết hợp tinh thần kiên định với phát triển 
sáng tạo. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin bắt 
đầu từ đọc và thấm nhuần nội dung cốt lõi trong “Sơ 
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân 
tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin.
Đứng trên lập trường cộng sản để phân tích 
sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, từ 
năm 1923, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ 
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng 
được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có 
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản” (Hồ Chí 
Minh: Toàn tập. Tập 1, 1995, tr.416). Năm 1959, 
tổng kết một chặng đường vẻ vang mà đất nước đã 
trải qua Hồ Chí Minh lại viết: “Muốn cứu nước và 
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác 
con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh: Toàn 
tập. Tập 9, 1995, tr.314).
Hồ Chí Minh luôn kiên định lập trường Mác - 
Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn 
đề giai cấp: Vấn đề dân tộc luôn gắn bó với vấn đề 
giai cấp và phải được xem xét, giải quyết trên lập 
trường của giai cấp công nhân. Đồng thời, xuất phát 
từ tình hình thực tế nước ta, Người cũng nhấn mạnh 
tính độc lập tương đối, vị trí, vai trò vô cùng quan 
trọng của vấn đề dân tộc. Năm 1941, khi từ nước 
ngoài trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng 
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc tình 
hình trong nước và chỉ rõ: “Lúc này quyền lợi dân 
tộc giải phóng cao hơn hết. Chúng ta phải đoàn kết 
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu 
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” (Hồ Chí Mi ... hể 
kinh tế độc lập mang đặc trưng dân tộc hòa nhập 
vào môi trường kinh tế thế giới. Trong đổi mới bộ 
máy nhà nước, cần quan tâm đến công việc cải cách 
hành chính, cần quan tâm thích đáng đến việc kế 
thừa và phát huy mọi giá trị truyền thống của khoa 
học và nghệ thuật “trị quốc” của cha ông ta. Trong 
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, song song với 
nội dung giáo dục, rèn luyện về lập trường, ý thức 
giai cấp công nhân phải quan tâm đầy đủ đến nội 
dung giáo dục, rèn luyện về chủ nghĩa yêu nước. Ở 
nước ta, ý thức xã hội chủ nghĩa vừa là kết quả của 
sự phát triển ý thức giai cấp đến độ chín muồi, vừa 
là kết quả của sự phát triển ý thức dân tộc, tinh thần 
yêu nước đến độ thuần thục. Công việc cải cách 
giáo dục căn bản, toàn diện hiện nay phải làm sao 
tiếp thu được những tri thức giáo dục hiện đại của 
thế giới, nhưng trước hết phải kế thừa được những 
tinh hoa của nền giáo dục dân tộc có hàng ngàn năm 
lịch sử.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
34 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Hai là, V.I.Lênin đã phát hiện hai xu hướng 
khách quan của sự phát triển dân tộc. Hiện nay cần 
xem xét biểu hiện của hai xu hướng đó trong bối 
cảnh toàn cầu hóa và tìm cho được giải pháp phát 
huy những thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Xem xét dưới góc độ của vấn đề dân tộc, nét 
bao quát của giai đoạn lịch sử hiện nay so với giai 
đoạn của V.I.Lênin là toàn cầu hóa diễn ra với nhịp 
độ ngày càng tăng gây nên những tác động vừa tích 
cực vừa tiêu cực. Toàn cầu hóa gây nên tác động 
làm thu hẹp quyền lực, phạm vi, hiệu quả hoạt động 
của các nhà nước dân tộc, quốc gia, quá trình này 
gây nên tác động tiêu cực đối với nền độc lập và 
chủ quyền của dân tộc, quốc gia. Trong lĩnh vực 
tinh thần toàn cầu hóa có thể tác động như là sự 
đồng hóa cưỡng bức về văn hóa, làm mất bản sắc 
độc đáo của nền văn hóa dân tộc, quốc gia, đồng 
thời tạo điều kiện cho sự quốc tế hóa cả những hiện 
tượng phản văn hóa như các tệ nạn xã hội, mất an 
ninh trật tự
Ở nước ta cần vận dụng giải pháp tổng thể cho 
vấn đề này là: Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính 
sách mở cửa để hội nhập vào dòng vận động chung 
của nhân loại đang tiến lên phía trước, đồng thời có 
phương sách hữu hiệu giữ gìn, phát huy bản sắc của 
dân tộc, quốc gia, lấy nó làm nền tảng để giữ vững 
độc lập, chủ quyền, tránh nguy cơ bị đồng hóa do 
các thế lực lợi dụng xu hướng toàn cầu hóa gây nên. 
Cần tìm cách thức hữu hiệu để phổ cập nhận thức 
đó trong toàn dân.
Ba là, từ vận dụng lý luận của Lênin trong vấn 
đề dân tộc, giải phóng dân tộc và tư tưởng chiến 
lược đại đoàn kết, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh 
đã xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn 
đề dân tộc thiểu số ở nước ta, chỉ ra một số nội dung 
cần vận dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh 
tế quốc tế
Trong vấn đề dân tộc, quan điểm của Đảng, Nhà 
nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúng ta cần nhận 
thức đúng và khơi dậy những tiềm năng to lớn ở 
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi để 
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững 
chắc thực hiện bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp 
nhau cùng phát triển. Trong đó chỉ ra 5 điểm lớn về 
xây dựng văn hóa dân tộc như sau: (1) Xây dựng 
tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. (2) Xây dựng 
luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 
(3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan 
đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. (4) Xây 
dựng chính trị: Dân quyền. (5) Xây dựng kinh tế” 
(Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 3, 1995a, tr.431).
Trong vấn đề dân tộc, Đảng, Nhà nước và Chủ 
tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm sâu sắc về vấn 
đề cán bộ vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhằm 
thực hiện các dân tộc đoàn kết, tôn trọng, bình đẳng, 
giúp nhau cùng phát triển. Trong công tác xây dựng 
Đảng cũng như trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng 
của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm 
đến vấn đề cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ 
là tiền vốn của đoàn thể”, “Cán bộ là cái gốc của 
mọi công việc”, “Cán bộ quyết định mọi việc”. Từ 
những luận điểm ấy, có thể thấy rõ cán bộ là một 
trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết 
định sự thành bại của cách mạng nói chung và của 
việc thực hiện chiến lược đại đoàn kết, bình đẳng, 
tôn trọng giúp nhau cùng phát triển.
Trong giải quyết vấn đề dân tộc, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh yêu cầu Đảng thường xuyên đặc biệt quan 
tâm đến việc đào tạo cán bộ và nhất là cán bộ dân 
tộc thiểu số “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, 
thì “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. 
Việc đó không được làm qua loa, đại khái. Đó là 
công việc mà Đảng phải bỏ nhiều công sức, phải 
được tiến hành “chu đáo, công phu”. “Đảng phải 
nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng 
những cây cối quý báu”. Giống cây có tốt, có quý 
đến mấy nhưng nếu không được vun trồng, chăm 
sóc cẩn thận thì cũng không tránh khỏi sâu bệnh, 
úng hạn, rất dễ bị thui chột, cằn cỗi, không thể phát 
triển, không thể đơm hoa kết trái.
Trong suốt quá trình thực hiện đường lối đổi mới 
đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ 
trương cụ thể về vấn đề dân tộc, giải quyết tốt vấn 
đề dân tộc thiểu số và miền núi. Đáng chú ý nhất 
là Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/03/2003 của 
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Hội 
nghị lần thứ bảy về công tác dân tộc. Tại Hội nghị 
này, Trung ương đã chỉ ra những thực trạng yếu 
kém, khuyết điểm và tồn tại ở vùng dân tộc thiểu số 
và miền núi và xác định một số quan điểm sau đây:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề 
chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề 
cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình 
đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển, 
cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên 
quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, 
xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân 
tộc thiểu số và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế 
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính 
sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn 
nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc 
thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc 
văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự 
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt 
Nam thống nhất.
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các 
vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trước hết, tập 
trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá 
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
35Volume 9, Issue 2
đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, 
thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững 
môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự 
lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời 
tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và 
sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc 
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của 
các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thể chế hóa Nghị quyết của Đảng về vấn đề 
dân tộc, ngày 12/3/2013, Thủ tướng Chính phủ phê 
duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. 
Ngày 18/11/2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 
số 88/2019/QH14 về phê duyệt đề án tổng thể phát 
triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu 
số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Đảng và Nhà 
nước ta đã có sự đầu tư thích đáng cho sự phát triển 
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và môi 
trường ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi từng 
bước phát triển mạnh mẽ.
5. Thảo luận
 Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc 
trong thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế 
được nhiều học giả quan tâm, trao đổi và bàn luận. 
Theo chúng tôi rất cần quan tâm đến một số nội 
dung sau đây:
Thứ nhất, thời đại ngày nay là thời đại các dân 
tộc bị áp bức vùng dậy, phá tan xiềng xích nô dịch 
và giành lấy quyền tự quyết định vận mệnh của dân 
tộc mình, bao gồm trong đó quyền tự lựa chọn chế 
độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, 
quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đó là xu 
hướng mỗi dân tộc đi tới tự chủ, phồn vinh mà có 
người gọi là xu hướng “ly tâm”. Xu hướng này biểu 
hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức 
mạnh chống chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực 
dân mới dưới mọi biểu hiện, làm tan rã những khối 
liên hiệp giả hiệu mà thực chất là tấm bình phong 
để chủ nghĩa đế quốc, thực dân áp bức, bóc lột các 
dân tộc, quốc gia còn lạc hậu. Xu hướng này cũng 
biểu hiện trong cuộc đấu tranh của một số dân tộc, 
hiện đang còn là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, 
phân biệt chủng tộc, vẫn đang bị coi là đối tượng 
của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước 
tư bản.
Thứ hai, trong thời đại ngày nay, cùng với xu 
hướng “ly tâm” vừa nêu, còn có lực “hướng tâm” 
đang tác động mạnh mẽ, lôi kéo, hấp dẫn các dân 
tộc xích lại gần nhau. Lực hướng tâm đó biểu hiện 
thành sức mạnh hàn gắn lại sự chia cắt ở một số 
quốc gia, trả lại nguyên trạng sự thống nhất đã được 
hình thành trong lịch sử. Lực hướng tâm đó tạo nên 
sức hút, sự vẫy gọi các dân tộc, quốc gia tham gia 
vào các liên minh được hình thành trên cơ sở những 
lợi ích chung. Có những lợi ích mang tính khu vực, 
dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về 
môi trường thiên nhiên, tương đồng về một số giá trị 
văn hóa, trùng hợp nhau trong lịch sử và hiện tại về 
cuộc đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài... làm tiền đề 
cho sự liên minh giữa các dân tộc, các quốc gia. Từ 
đầu những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, thực 
tế đã chứng minh, xu hướng “tập đoàn hóa” ở các 
khu vực tăng lên rõ rệt không chỉ do tác động của 
những lợi ích kinh tế (các dân tộc, quốc gia trong 
khu vực muốn dựa vào nhau để vượt qua những khó 
khăn trước mắt về tiền vốn, kinh nghiệm, trình độ 
và khả năng áp dụng khoa học công nghệ... để phát 
triển kinh tế với tốc độ nhanh) mà còn do sự thúc 
đẩy của các lợi ích chính trị (các dân tộc, quốc gia 
này muốn tìm ở khối liên minh khu vực một chỗ 
dựa mong đối phó với sức ép của một thế lực nào 
đó ở bên ngoài khu vực). Sau nữa, lực “hướng tâm” 
đó tạo nên sức hút toàn cầu, tập trung sự chú ý của 
các dân tộc, quốc gia vào việc giải quyết những vấn 
đề to lớn và cấp bách chung của cả nhân loại như 
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt, 
chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái, khắc 
phục hậu quả của sự biến đổi khí hậu, khắc phục 
nạn đói còn xảy ra thường xuyên ở nhiều nước trên 
thế giới, kế hoạch hóa sự phát triển dân số và bảo 
vệ sức khỏe .
Thứ ba, việc thực hiện quyền bình đẳng và tự 
quyết dân tộc được nhiều học giả quan tâm. Việc 
thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc 
không chỉ phụ thuộc vào sự đoàn kết, thống nhất 
giai cấp công nhân các dân tộc trong từng dân tộc 
mà còn phụ thuộc vào sự đoàn kết giai cấp công 
nhân trên toàn thế giới vẫn còn tính thời sự. Chỉ 
có đứng trên lập trường của giai cấp công nhân 
mới khắc phục được triệt để thái độ và tâm lý kỳ 
thị và thù hằn giữa các dân tộc. Cũng từ đó mới 
đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong 
cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ 
nghĩa xã hội.
6. Kết luận 
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đã 
được V.I.Lênin chỉ ra rằng: Trong các cuộc cách 
mạng việc giải quyết đúng đắn quan hệ giữa dân tộc 
và giai cấp, hai xu hướng khách quan trong sự phát 
triển dân tộc; đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực 
đoan và cần thực hiện tốt cương lĩnh về vấn đề dân 
tộc đó là việc làm của những người cộng sản trong 
thực hiện các cuộc cách mạng. Đảng Cộng sản Việt 
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách 
mạng Việt Nam, đã vận dụng lý luận của Lênin một 
cách sáng tạo trong vấn đề dân tộc và giải phóng 
dân tộc và từ tư tưởng chiến lược - đại đoàn kết dân 
tộc trong các cuộc cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch 
Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí và tầm quan 
trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta, chỉ ra những nội 
dung cần vận dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập 
kinh tế quốc tế: “Bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, 
giúp nhau cùng phát triển” giữa các dân tộc.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
36 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Tài liệu tham khảo
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Tập 4. (1995). 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
Các Dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ 20. (2003). 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
Cảnh, T. Q. (2005). Phát huy vai trò đội ngũ trí 
thức các dân tộc thiểu số nước ta trong sự 
nghiêp cách mạng hiện nay. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia.
Cảnh, T. Q. (2016). Quản lý xã hội về dân tộc. 
Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cảnh, T. Q., & Huỳnh, T. Đ. (2008). Tư tưởng 
Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính 
nhà nước Việt Nam. Nxb. Thống kê.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân tộc. (1990). 
Nxb. Khoa học Xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 1. (1995). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 3. (1995a). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 3. (1995b). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. (1995). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 9. (1995). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 9. (1996). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 9. (2000). Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hồ Chí Minh về các dân tộc trong đại gia đình 
dân tộc Việt Nam. (2000). Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia.
Mấy vấn đề về dân tộc thiểu số ở nước ta. (2007). 
Tạp Chí Lý Luận Chính Trị, số 5.
Quốc hội. (2006). Điều lệ Đảng cộng sản Việt 
Nam. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 449/QĐ-
TTg ngày 12/03/2013 của Thủ tướng Chính 
phủ về Phê duyệt Chiến lược công tác dân 
tộc đến năm 2020. , (2013).
V.I.Lênin: Toàn tập. Tập 24. (1980). Nxb. Tiến Bộ.
V.I.Lênin: Toàn tập. Tập 25. (1980). Nxb. Tiến Bộ.
V.I.Lênin: Toàn tập. Tập 30. (1981). Nxb. Tiến Bộ.
V.I.LENIN’S VIEWPOINTS ON ETHNIC ISSUES, SOLVING 
ETHNIC ISSUES AND THE CREATIVE APPLICATION OF 
V.I.LENIN’S VIEWPOINTS TO THE PRACTICE OF THE VIETNAM 
REVOLUTION
Trinh Quang Canh
Vietnam Academy for Ethnic Minorities
Email: canhtq@hvdt.edu.vn
Received: 15/3/2020 
Reviewed: 25/5/2020
Revised: 30/5/2020
Accepted: 09/6/2020
Released: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/414
Abstract
The paper analyzes theoretical and practical values in Lenin's 
viewpoins on ethnic issues and resolves ethnic issues on the world 
revolutionary movement; at the same time, it also clearly shows 
the creative application of Lenin's viewpoins of the Communist 
Party of Vietnam to the Vietnam revolution cause, contribute to 
the criticism of wrong and reactionaries viewpoins and denial of 
the revolutionary, scientific and humanistic nature of Marxism - 
Leninism in the current period.
Keywords
Ethnic issues; Solving ethnic issues; Relations between ethnicity 
and class; V.I.Lênin.

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_v_i_lenin_ve_van_de_dan_toc_giai_quyet_van_de.pdf