Quan điểm của Nhật Bản tại biển Đông và hàm ý đối với chiến lược của Trung Quốc

Quan điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là

duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh tự do hàng hải quốc tế. Các phương tiện truyền

thông toàn cầu đưa tin về các hoạt động cải tạo các bãi đá đơn phương của Trung

Quốc ở Trường Sa đã khiến Nhật Bản tỏ rõ thái độ của mình. Chính phủ Nhật Bản

đã nhanh chóng xác định các hành động của Trung Quốc là vi phạm UNCLOS và

coi chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là một nỗ lực nhằm thay đổi nguyên

trạng bằng vũ lực. Nhật Bản cũng ủng hộ lập trường của Mỹ đối với các hành động

phiêu lưu mạo hiểm quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông và các hoạt động thực

hiện quyền tự do hàng hải của Mỹ. Bất chấp những giới hạn quân sự của nước này,

Nhật Bản có thể tiến hành một số hành động hỗ trợ sự ổn định ở Biển Đông.(1) Mọi

bất đồng mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền trên biển phải được giải quyết dựa

trên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

pdf 11 trang kimcuc 6700
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của Nhật Bản tại biển Đông và hàm ý đối với chiến lược của Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của Nhật Bản tại biển Đông và hàm ý đối với chiến lược của Trung Quốc

Quan điểm của Nhật Bản tại biển Đông và hàm ý đối với chiến lược của Trung Quốc
88 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
QUAN ĐIỂM CỦA NHẬT BẢN TẠI BIỂN ĐÔNG
VÀ HÀM Ý ĐỐI VỚI CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
 Nguyễn Thanh Minh*
1. Quan điểm và mục tiêu của Nhật Bản đối với Biển Đông
Quan điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là 
duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh tự do hàng hải quốc tế. Các phương tiện truyền 
thông toàn cầu đưa tin về các hoạt động cải tạo các bãi đá đơn phương của Trung 
Quốc ở Trường Sa đã khiến Nhật Bản tỏ rõ thái độ của mình. Chính phủ Nhật Bản 
đã nhanh chóng xác định các hành động của Trung Quốc là vi phạm UNCLOS và 
coi chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là một nỗ lực nhằm thay đổi nguyên 
trạng bằng vũ lực. Nhật Bản cũng ủng hộ lập trường của Mỹ đối với các hành động 
phiêu lưu mạo hiểm quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông và các hoạt động thực 
hiện quyền tự do hàng hải của Mỹ. Bất chấp những giới hạn quân sự của nước này, 
Nhật Bản có thể tiến hành một số hành động hỗ trợ sự ổn định ở Biển Đông.(1) Mọi 
bất đồng mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền trên biển phải được giải quyết dựa 
trên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế bằng biện pháp hòa bình.(2)
1.1. Quan điểm của Nhật Bản về Biển Đông
Ngày 12/7/2016, sau khi Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế - PCA(3) ra 
phán quyết về vụ kiện Philippines với Trung Quốc liên quan tới tranh chấp ở Biển 
Đông, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Fumio Kishida ra tuyên bố, phán quyết 
của PCA là phán quyết cuối cùng và mang tính ràng buộc pháp lý, theo đó các bên 
liên quan phải tuân thủ phán quyết này. Ngoại trưởng Kishida nêu rõ: Nhật Bản 
kiên định ủng hộ việc tôn trọng quy định luật pháp và sử dụng các biện pháp hòa 
bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết các tranh chấp 
trên biển.(4)
Ngoài ra, trong cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị 
bên lề Hội nghị AMM 49, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida đã hối thúc Bắc 
Kinh chấp nhận và tuân thủ phán quyết của PCA, đồng thời bày tỏ quan ngại của 
Nhật Bản về tình hình Biển Đông hiện nay, hy vọng Trung Quốc sẽ tránh những 
hành động có thể làm leo thang căng thẳng tại vùng biển tranh chấp. Sách Trắng 
quốc phòng Nhật Bản năm 2016 nêu rõ các hoạt động hiện tại của Trung Quốc tại 
Biển Đông là cậy quyền, hành động đơn phương, hướng tới việc đặt các nước vào 
* Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam.
BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM
89Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
việc đã rồi trên vùng biển đang có sự tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và 
quyền tài phán. 
1.2. Mục tiêu cơ bản của Nhật Bản đối với Biển Đông
- Thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông: Thực tế cho thấy, Nhật Bản đã đưa 
ra lời kêu gọi các bên thực hiện nghiêm quyền tự do hàng hải, hàng không trên 
Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống sự xâm phạm chủ quyền của 
Trung Quốc tại các đảo, bãi đá, thúc đẩy ASEAN hóa, quốc tế hóa sâu rộng vấn 
đề Biển Đông trên các diễn đàn song phương và đa phương. Trong những chuyến 
thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều chủ động thảo 
luận các vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển 
Đông. Trong quan hệ ngoại giao với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ 
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông với Trung Quốc như 
Philippines, Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản đều kêu gọi xây dựng mạng lưới 
quan hệ với mắt xích là vấn đề biển. 
Ngoài các nước ASEAN, trong quan hệ với các nước có chung lợi ích trên 
Biển Đông như Australia, Ấn Độ, Anh, Nhật Bản luôn tìm sự đồng thuận thông 
qua việc chia sẻ các giá trị như tự do, dân chủ, pháp chế trên biển. Ngoài quan hệ 
song phương, gần như trong mọi diễn đàn quốc tế có thể tận dụng, Nhật Bản đều 
cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong các hội nghị G7, G20, Hội 
nghị cấp cao Đông Á - EAS,(5) hội nghị giữa Nhật Bản và các nước châu Á - Thái 
Bình Dương, Nhật Bản đưa vấn đề bảo vệ luật quốc tế,(6) bảo vệ tự do hàng hải, 
hàng không để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở 
Biển Đông vào chương trình hội nghị. Đồng thời lên tiếng yêu cầu các nước liên 
quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, ủng hộ việc 
nhanh chóng đề ra Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông - COC, phê phán 
hoạt động bồi đắp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc tại một số đảo đá ở quần 
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giúp các nước ASEAN đòi quyền lợi, nâng cao năng lực phòng thủ trên 
biển: Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ trang bị cho các nước liên quan trực tiếp tranh 
chấp ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines tăng cường khả năng cảnh báo trên 
biển của các nước này, xây dựng lực lượng tiền duyên kiềm chế Trung Quốc.(7) 
Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á - Đối thoại Shangri-La năm 2014, 
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố, phải chi viện trên thực tế để Việt Nam, 
Philippines, Malaysia xây dựng năng lực quân sự và chấp pháp trên biển. Nhằm 
nâng cao khả năng phòng thủ biển của các nước ASEAN, Nhật Bản đã kết hợp các 
khoản hỗ trợ như viện trợ phát triển chính thức - ODA, đào tạo nâng cao khả năng 
do Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản - JSDF(8) tổ chức, hợp tác về trang bị phòng thủ, 
để không ngừng trợ giúp các nước này. 
90 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Mặt khác, Nhật Bản thông qua các hình thức huấn luyện, diễn tập quân sự 
chung với các nước ASEAN để nâng cao khả năng quân sự và chấp pháp trên biển 
của các nước này, đồng thời giúp cho quân đội Nhật Bản thông thạo tình hình 
thực tế trong khu vực Biển Đông, nhằm thử nghiệm cho việc tuần tra, giám sát 
của Nhật Bản tại khu vực biển này. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2015, tàu chiến 
của Nhật Bản và Philippines nhiều lần tiến hành diễn tập chung tại vùng biển của 
Philippines. Tháng 8 năm 2015, Nhật Bản, Mỹ và Philippines tiến hành diễn tập 
cứu trợ nhân đạo tại vịnh Subic. Đối với Việt Nam, tháng 5 năm 2015 đã có 02 máy 
bay tuần tra trên biển P-3C của Nhật Bản lần đầu đến Đà Nẵng, tháng 11 năm 2015 
Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được nhận thức chung về việc tàu chiến của Nhật 
Bản có thể cập cảng Cam Ranh. Gần đây nhất, ngày 20/5/2017, tàu khu trục của 
Nhật Bản Sazanami 113 với khả năng phòng không, săn ngầm và chống tàu chiến 
mặt nước đối phương - đã cập cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) tham gia chương trình 
Đối tác Thái Bình Dương.
- Củng cố mối quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ: Nhật Bản coi quan hệ đồng 
minh Nhật - Mỹ là khuôn khổ cơ chế hợp pháp cho việc can dự quân sự vào Biển 
Đông. Tuy nhiên, xét trên phương diện là đồng minh chiến lược, Mỹ sẽ bảo vệ 
Nhật Bản trong bất kỳ tình huống nào, nếu Nhật Bản bị tấn công. Vấn đề Biển 
Đông giữa Mỹ và Nhật Bản có chung quan điểm là duy trì tự do hàng hải và hàng 
không quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chiến lược bảo đảm 
an ninh quốc gia của Nhật Bản chỉ rõ: Thắt chặt quan hệ đồng minh với Mỹ thông 
qua việc sửa đổi Văn bản Chỉ đạo hợp tác quốc phòng Nhật Bản - Mỹ vào tháng 
4/2015, với cơ chế mới tăng cường sự phối hợp một cách toàn diện, trong đó có cả 
việc đánh giá môi trường an ninh, lên kế hoạch ứng phó với mọi tình huống và kế 
hoạch phối hợp hành động thực tế, đồng thời mở rộng phương diện và phạm vi hợp 
tác quốc phòng. Bên cạnh đó, Nhật Bản khẳng định ủng hộ chiến lược tái cân bằng 
của Mỹ tại châu Á.(9) Ngay trước thềm chuyến thăm châu Á của Ngoại trưởng Rex 
Tillerson, chính quyền Tổng thống Trump tuyên bố chính sách tái cân bằng hay 
xoay trục của Mỹ tại khu vực sẽ có công thức mới. “Xoay trục, tái cân bằng đó 
là cụm từ được dùng để mô tả chính sách châu Á của chính quyền cũ. Tôi nghĩ các 
bạn có thể kỳ vọng chính quyền mới sẽ có công thức riêng”, quyền Trợ lý ngoại 
trưởng phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương Susan Thornton phát biểu trong cuộc 
họp báo hôm 14/3/2017. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chiến lược mới vẫn chưa được 
thảo luận chi tiết, thậm chí chính quyền Tổng thống Trump vẫn chưa hoàn toàn 
chắc chắn sẽ tìm ra công thức riêng.(10)
 Do đó, đảm bảo an ninh tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông là 
vấn đề cơ bản, không để bất cứ một thế lực nào tuyên bố vùng nhận diện phòng 
không(11) và đe dọa đến tự do hàng hải quốc tế. Sự phối hợp và hợp tác Nhật - Mỹ 
trong vấn đề Biển Đông còn biểu hiện ở việc giúp đỡ các nước hữu quan xây dựng 
91Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
năng lực phòng thủ. Ví dụ, nhằm giúp Philippines nâng cao khả năng đối phó với 
Trung Quốc trên biển, hai nước phân công rõ ràng, Mỹ chịu trách nhiệm cung cấp 
vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang Philippines, Nhật Bản cung cấp trang bị cho 
lực lượng chấp pháp bảo vệ bờ biển Philippines.
- Giành thế chủ động trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, kiềm chế 
Trung Quốc trên nhiều phương diện: Nhật Bản và Trung Quốc có tranh chấp lâu 
dài ở biển Hoa Đông, đặc biệt là quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản cho rằng, 
nếu Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông thì sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đối với 
tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Mục đích chiến lược của Nhật Bản là 
hình thành thế phối hợp tác chiến hai cánh Biển Đông và biển Hoa Đông, gây cản 
trở cho Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Hoa Đông. Bên cạnh 
đó, Nhật Bản cũng mong muốn việc hỗ trợ các nước ASEAN đòi quyền lợi ở Biển 
Đông, để đổi lại sự ủng hộ của các nước này đối với Nhật Bản trong vấn đề biển 
Hoa Đông. Tạo mối liên kết với các nước Đông Nam Á trong vấn đề tranh chấp 
trên biển, Nhật Bản muốn Trung Quốc phải đối phó đồng thời trên cả hai mặt trận 
biển Hoa Đông và Biển Đông. Đồng thời đây cũng được cho là hành động kiềm 
chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản muốn 
nhân vấn đề Biển Đông, tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN đòi quyền lợi ở 
Biển Đông, đẩy mạnh viện trợ cho các nước này về kinh tế và quân sự, qua đó nâng 
cao hơn nữa ảnh hưởng của mình trong khu vực, từng bước gia tăng sự phụ thuộc 
chiến lược của các nước vào Nhật Bản, qua đó xây dựng liên minh chiến lược biển 
do Nhật Bản dẫn dắt để đối phó với Trung Quốc. Nhật Bản xác định tầm quan 
trọng của Biển Đông và thực hiện hợp tác an ninh truyền thống đối với các nước 
ASEAN, nhất là các nước xung quanh Biển Đông, chính vì vậy, ngày 01/7/2014, 
Chính phủ Nhật Bản thông qua nghị quyết dỡ bỏ những rào cản hiến pháp từng 
ngăn quân đội nước này tham chiến ở nước ngoài kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 
2. Động thái này của Nội các Nhật Bản cho phép nước này thực thi quyền phòng 
vệ tập thể hoặc hỗ trợ các quốc gia có quan hệ gần gũi khi bị tấn công. Bộ Quốc 
phòng Nhật Bản sẵn sàng cử lực lượng hỗ trợ quân đội các nước ASEAN xây dựng 
năng lực để có thể kiềm chế việc Trung Quốc không ngừng đẩy mạnh hoạt động 
tại Biển Đông.(12)
- Nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á: 
Một mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông chính là 
tăng cường sự ảnh hưởng của nước này vào khu vực Biển Đông, nâng cao quyền 
phát ngôn và khả năng can dự của mình đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng 
hình ảnh nước lớn ở khu vực. Những năm qua, cùng với sự đột phá không ngừng 
của Nhật Bản đối với hiến pháp hòa bình, đặc biệt là sau khi nới lỏng nguyên tắc 
xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã tích cực bán vũ khí cho các nước Đông Nam Á, một 
92 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
mặt nâng cao thực lực quân sự của nước này, giúp đối phó với Trung Quốc đang 
không ngừng trỗi dậy, mặt khác thông qua việc bán vũ khí, không ngừng củng cố, 
nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực này. 
Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm 2016,(13) Thủ tướng Nhật 
Bản Shinzo Abe nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự trên biển dựa trên luật pháp 
quốc tế. Thủ tướng Shinzo Abe cho rằng: Trong nhiều tháng trở lại đây, trên Biển 
Đông và biển Hoa Đông, Nhật Bản lo ngại sâu sắc về những hoạt động đơn phương 
thay đổi hiện trạng tiếp tục diễn ra. Kiểm soát theo luật là nguyên tắc chung phải 
được quán triệt trong cộng đồng quốc tế, các bên liên quan cần kiềm chế các hành 
động gia tăng căng thẳng khu vực, nên theo đuổi giải quyết hòa bình dựa trên luật 
pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.(14)
2. Biện pháp can dự của Nhật Bản vào khu vực Biển Đông
2.1. Mở rộng sự hiện diện và củng cố quan hệ quốc phòng
Đầu tiên, Nhật Bản mở rộng sự hiện diện ở Biển Đông thông qua các sáng 
kiến như: Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản(15) gọi tắt là JMSDF tới thăm các 
quốc gia thành viên ASEAN hoặc tham gia các cuộc tập trận song phương, đa 
phương. Trong tháng 3 năm 2016, một tàu của JMSDF đã cập cảng Malaysia 
để tham gia những đợt tập trận huấn luyện thân thiện với lực lượng hải quân 
Malaysia. Tiếp theo, tháng 4 năm 2016 tàu ngầm Oyashio cùng tàu khu trục Ariake 
và Setogiri đã cập cảng tại vịnh Subic của Philippines trong chuyến thăm đầu tiên 
trong vòng 15 năm qua. Tiếp đó, Ariake và Setogiri cũng lần đầu tiên tới vịnh Cam 
Ranh của Việt Nam. Trong khoảng thời gian đó, tàu khu trục cỡ lớn Ise lần đầu tiên 
vượt qua Biển Đông, tham gia hoạt động đánh giá các hạm đội quốc tế và tập trận 
đa phương ở vùng biển của Indonesia.
Ngày 13/7/2016, cuộc tập trận chung giữa Cảnh sát biển Nhật Bản JCG(16) và 
Cảnh sát biển của Philippines PCG(17) đã diễn ra ngoài khơi vịnh Manila, đúng một 
ngày sau khi PCA công bố phán quyết về việc Philippines khởi kiện Trung Quốc về 
những tuyên bố chủ quyền phi lý tại Biển Đông. Dù quan điểm của hai nước về cuộc 
tập trận là không nhằm vào Trung Quốc và vấn đề Biển Đông, nhưng tính thời điểm 
của nó cho thấy rõ ràng đây là một phản ứng có liên quan. Bên cạnh đó, JMSDF 
cũng đã tham gia tập trận cùng Mỹ và Australia vào tháng 2 năm 2016 ở vùng biển 
của Singapore, và vào tháng 4 năm 2016 ở vùng biển lân cận của Indonesia.
Thực tế cho thấy, Nhật Bản cũng đang tiến hành các bước đi nhằm tăng cường 
sự hiện diện trong khu vực thông qua các hoạt động khác như tham gia các khuôn 
khổ đa phương. Điển hình là việc Nhật Bản đã cử một đội ngũ khá lớn Lực lượng 
phòng vệ quốc gia(18) tham gia vào cuộc tập trận an ninh hàng hải chung được tổ 
chức bởi Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng gọi tắt là ADMM+(19) 
93Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
diễn ra ở vùng biển và không phận giữa Brunei và Singapore. Ngoài việc mở rộng 
sự hiện diện, Nhật Bản còn tăng cường quan hệ đối tác với các nước ASEAN thông 
qua hỗ trợ xây dựng năng lực và hợp tác về thiết bị quốc phòng. Trong bài phát 
biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế - CSIS(20) tại Washington ngày 
15/9/2016, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Tomoni Inada cho biết, Nhật Bản sẽ 
tăng cường can dự vào Biển Đông thông qua việc tuần tra chung với Mỹ và tập trận 
song phương, đa phương với các nước trong khu vực.
2.2. Hỗ trợ vũ khí và trang bị cho các nước trong khu vực
Nhật Bản quyết định thông qua viện trợ ODA để cung cấp cho Philippines 
12 tàu chiến, trong đó có tàu tuần tra cỡ lớn 1.000 tấn, nhằm giúp Philippines nâng 
cao năng lực bảo vệ trên biển. Tháng 7/2016, Nhật Bản cũng lần đầu tiên hỗ trợ 
Philippines bảo trì động cơ diesel cho tàu hải quân. Ngày 18/8/2016, Philippines 
đã nhận được 10 tàu tuần duyên của Nhật Bản.
Ngày 31/7/2014, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định cung cấp cho Việt Nam 
06 tàu, trong đó gồm 02 tàu kiểm ngư của Cơ quan Ngư nghiệp Nhật Bản và 04 
tàu còn lại là tàu đánh cá thương mại, theo như một phần trong gói viện trợ không 
hoàn lại. Ngoài ra, Nhật Bản cũng sẽ cung cấp xuồng cứu sinh và các trang bị, thiết 
bị khác, trị giá 500 triệu yên cho Việt Nam. Ngoài việc chuyển giao 06 tàu đã qua 
sử dụng, Nhật Bản còn tiến hành đàm phán về việc cung cấp tàu mới cho Hải quân 
Việt Nam trong tương lai gần. 
Tại Lễ kỷ niệm 63 năm ngày thành lập Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tối ngày 
07/7/2017, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Kunio Umede 
nhấn mạnh tháng 6 năm 2017, tại Hội đàm cấp cao giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân 
Phúc và Thủ tướng Shinzo Abe, hai nước đã khẳng định tăng cường phối hợp hơn 
nữa trên cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh với tư cách là các đối tác tin cậy cùng chia 
sẻ nhiều lợi ích chiến lược chung. Nhật Bản và Việt Nam đã và đang triển khai các 
nội dung hợp tác sâu rộng trên các lĩnh vực như trao đổi đoàn cấp cao, nhất là đoàn 
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tham vấn cán bộ thực hiện, hỗ trợ nâng cao năng lực, 
hợp tác trang bị, công nghệ quốc phòng.(21)
3. Tác động đối với Trung Quốc
Trong xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh và vừa kiềm chế lẫn nhau, thì quan 
điểm của Nhật Bản đối với Biển Đông sẽ có những tác động nhất định đối với 
Trung Quốc trên nhiều giác độ khác nhau.
3.1. Tác động đối với ngoại giao
Vấn đề Biển Đông là một trong những nguyên nhân tác động đến lòng tin 
chính trị giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN. Việc giải quyết vấn đề Biển 
94 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Đông một cách công bằng, hợp lý sẽ trở thành mắt xích quan trọng để hai bên 
tăng cường lòng tin chính trị và triển khai quan hệ hợp tác an ninh trong khuôn 
khổ Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc - ASEAN. Để giải quyết vấn đề Biển 
Đông một cách hòa bình, Trung Quốc đã đưa ra tư tưởng tiếp cận kép với nội dung 
cơ bản nhất quán từ trước đến nay của Trung Quốc là giải quyết song phương 
với những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc và Trung Quốc cùng 
ASEAN gìn giữ hòa bình ở khu vực Biển Đông.
3.2. Tác động đối với quân sự
Là một cường quốc về công nghệ trên thế giới và là cường quốc biển tại khu 
vực châu Á-Thái Bình Dương, sự giúp đỡ của Nhật Bản về trang bị và kỹ thuật 
quân sự cho các nước như Philippines, Việt Nam cũng như việc huấn luyện, tiến 
hành diễn tập quân sự chung sẽ tăng cường khả năng quân sự của các nước này, 
gia tăng xu thế nâng cao sức mạnh quốc phòng của các nước có liên quan đến Biển 
Đông trong khu vực Đông Nam Á, qua đó gia tăng áp lực an ninh quân sự đối với 
Trung Quốc. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia của Nhật Bản quy định, Nhật 
Bản sẽ đứng trên quan điểm chủ nghĩa hòa bình tích cực, thông qua trang bị phòng 
thủ linh hoạt, tích cực tham gia hợp tác quốc tế và đóng góp cho hòa bình khu 
vực, thay thế 3 nguyên tắc xuất khẩu vũ khí bằng 3 nguyên tắc chuyển giao công 
nghệ và trang bị phòng thủ, nâng cao sức mạnh quân sự Nhật Bản thông qua trang 
bị vũ khí sử dụng linh hoạt, khiến Nhật Bản có thể chuyển giao trang bị quân sự 
thuận tiện hơn, không chỉ cho Philippines mà còn các nước khác trong khu vực 
Biển Đông như Indonesia v.v(22) Cùng với việc nới lỏng quy định cấm xuất khẩu 
vũ khí, các quan chức của Nhật Bản cũng cam kết rằng, việc xuất khẩu vũ khí của 
nước này sẽ được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm số vũ khí đó không rơi vào tay các 
nhóm khủng bố hay được chuyển đến các khu vực đang có chiến tranh. Theo quy 
định này, Nhật Bản chỉ có thể xuất khẩu vũ khí cho các nước, nếu số vũ khí đó 
được sử dụng vào việc gìn giữ hòa bình và hỗ trợ nhân đạo, như trong trường hợp 
thực hiện các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Theo các nhà quan 
sát, với các cơ sở công nghiệp và công nghệ tiên tiến, Nhật Bản chắc chắn sẽ trở 
thành quốc gia xuất khẩu vũ khí hiện đại đáng kể và là đối thủ đáng gờm trong lĩnh 
vực chế tạo, xuất khẩu vũ khí trên thế giới. (23) Điều này sẽ thúc đẩy chạy đua quân 
sự tại khu vực Biển Đông. Bên cạnh đó, Biển Đông có ý nghĩa địa kinh tế vô cùng 
quan trọng đối với an ninh thương mại trên biển của Trung Quốc. Mặc dù phương 
hướng chính sách và biện pháp thực hiện của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông 
sẽ góp phần đảm bảo an ninh hàng hải, duy trì hòa bình, nhưng quan điểm và sự 
can dự của Nhật Bản chắc chắn làm Trung Quốc quan ngại do những khác biệt 
giữa hai bên.
95Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
3.3. Kiềm chế việc hiện thực hóa “Con đường Tơ lụa trên biển” của Trung Quốc 
Về chiến lược, việc Nhật Bản can thiệp vào giải quyết các tranh chấp chủ 
quyền ở Biển Đông cũng như can dự ngày càng sâu vào vấn đề này là nhằm kiềm 
chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Đông Nam Á là khu vực nằm trong trục “Con 
đường Tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”, có vai trò quan trọng đối với việc triển khai 
xây dựng con đường này cũng như sáng kiến “Một vành đai - Một con đường” 
của Trung Quốc. Việc Nhật Bản nêu thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc từ hành 
động thực tiễn của Trung Quốc trên Biển Đông và biển Hoa Đông trong các nước 
ASEAN sẽ làm giảm lòng tin của các nước này với Trung Quốc, đồng thời có 
tác động đến việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - 
ASEAN. Trong bối cảnh vùng biển Hoa Đông đang có tranh chấp chủ quyền giữa 
Nhật Bản và Trung Quốc ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, việc tranh chấp khó đi 
đến giải quyết dứt điểm vì hai bên đều khẳng định chủ quyền. Chính vì vậy, Nhật 
Bản tăng cường hợp tác với ASEAN, nhất là những nước có liên quan ở Biển Đông 
để kiềm chế việc Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết các tranh chấp chủ quyền về 
biển đảo ở cả hai khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông. Mặt khác, Nhật Bản cũng 
khẳng định vai trò của mình đối với khu vực Đông Nam Á, thông qua chính sách 
viện trợ không hoàn lại các trang thiết bị cho những lực lượng hoạt động trên biển 
của các nước thành viên ASEAN, và như vậy Nhật Bản không mong muốn vị trí 
của mình bị giảm sút trước sự cạnh tranh của Trung Quốc. 
Kết luận
Khu vực Biển Đông là địa bàn chiến lược quan trọng để các nước lớn tranh 
giành ảnh hưởng và kiềm chế lẫn nhau trong quá trình cùng hợp tác và cạnh tranh. 
Sự can dự của Nhật Bản vào vấn đề Biển Đông và tác động đối với Trung Quốc 
trong quá trình triển khai thực hiện chiến lược cường quốc biển là ví dụ điển hình. 
Trong bối cảnh hiện nay, Nhật Bản liên tục đẩy mạnh hợp tác an ninh, quốc phòng 
với các thành viên của ASEAN. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản đều đặn 
củng cố quan hệ với các quốc gia ASEAN dưới hình thức trao đổi quốc phòng, chủ 
yếu tập trung vào các cuộc tham vấn cấp cao và đàm phán cấp sự vụ, cùng các cuộc 
đối thoại an ninh song phương nhằm mục đích tạo dựng lòng tin và nâng cao tính 
minh bạch. Tuy nhiên, thời gian gần đây, Nhật Bản đã chuyển tới một mức độ cao 
hơn của hợp tác gồm các cuộc tập trận song phương và những thỏa thuận về thiết 
bị quốc phòng với các quốc gia thành viên ASEAN. 
Sau cuộc họp của các Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên giữa Nhật Bản và 
các nước ASEAN vào tháng 11/2014, khối ASEAN hiện đang trở thành một trong 
những đối tác khu vực chủ chốt của Nhật Bản về các vấn đề an ninh, sau Mỹ, 
Australia, Hàn Quốc và Ấn Độ. Những đặc trưng của ngoại giao quốc phòng Nhật 
96 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
Bản áp dụng với ASEAN có thể gói gọn trong ba điểm sau đây: mở rộng sự hiện 
diện, tăng cường quan hệ đối tác và chia sẻ các chuẩn mực và quy tắc chung thông 
qua những quan hệ đối tác này. Cụ thể là Nhật Bản tăng cường viện trợ những trang 
thiết bị, phương tiện tàu tuần tra, tổ chức đào tạo, tập huấn tại Nhật Bản đối với lực 
lượng chấp pháp và hải quân của các nước ASEAN để thực hiện năng lực kiểm tra, 
kiểm soát trên biển. Thách thức khác là sự hạn chế rất lớn về năng lực trên không 
- trên biển của các nước Đông Nam Á ven biển. Một ý tưởng nhằm giúp cải thiện 
vấn đề này sẽ là xây dựng một mạng lưới hoạt động chung trong khu vực, nhờ đó 
các bên tham gia ven biển cung cấp thông tin trên không-trên biển, Nhật Bản và 
Mỹ cung cấp thông tin vệ tinh và thông tin từ bên ngoài. Tất cả các quốc gia tham 
gia sẽ lấy thông tin miễn phí từ mạng lưới này. Nếu hoàn thành, đây có thể trở 
thành một công cụ chủ chốt nhằm cải thiện khả năng hoạt động khu vực của các 
quốc gia tham gia và có thể khuyến khích họ có những hành động hợp tác và phối 
hợp chống lại hành vi gây hấn của bất kỳ quốc gia nào. Để giúp phát triển những 
khả năng này, Nhật Bản và Mỹ cần phải cùng nhau hỗ trợ việc xây dựng năng lực 
của các nước Đông Nam Á ven biển.(24)
 N T M
CHÚ THÍCH
(1) 
ban-o-bien-dong. Cập nhật ngày 08 tháng 4 năm 2016.
(2) “Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có 
thể đe dọa đến hoà bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết 
tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử 
dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác 
tùy theo sự lựa chọn của mình”. Trích khoản 1, Điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
(3) Permanent Court of Arbitration - PCA-Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế.
(4) 
quyet-cua-toa-trong-tai-thuong-truc-482939. Cập nhật ngày 12 tháng 7 năm 2016. 
(5) East Asian Community.
(6) Thủ tướng Shinzo Abe hoan nghênh Trung Quốc và ASEAN tổ chức đối thoại xung quanh 
vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Ông bày tỏ hy vọng lời nói của Trung Quốc rằng sẽ không 
quân sự hóa trên biển tại Hội nghị Đông Á diễn ra vào năm 2015 trở thành hiện thực, đối 
thoại nên được tổ chức làm tiền đề duy trì sự tự kiềm chế và phi quân sự hóa theo luật pháp 
quốc tế. Hơn nữa, Thủ tướng Shinzo Abe cho rằng phán quyết của Tòa Trọng tài không 
công nhận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong đường 9 đoạn trên Biển Đông sẽ ràng 
buộc Trung Quốc và Philippines, hai bên tuân thủ phán quyết và giải quyết xung đột một 
cách hòa bình.
(7) Xem thêm: Nguyễn Thanh Minh, “Chính sách hiện đại hóa lực lượng hải quân của một số 
nước Đông Nam Á trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2017.
(8) Japan Self Denfense Force. 
97Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
(9) 
cua-Nhat-Ban-Nhung-tac-dong-doi.aspx.
(10) 
post728814.html. Cập nhật ngày 16/3/2017.
(11) Cho đến thời điểm năm 2016, hệ thống quy phạm pháp lý quốc tế chưa có quy định về vùng 
nhận diện phòng không, nhưng trong thực tiễn ở một số khu vực và thời điểm lịch sử nhất 
định đã có tuyên bố về vùng nhận diện phòng không.
(12) Thông tin Khoa học quân sự, Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự, Bộ Quốc phòng số ra 
ngày 10/10/2014, tr.12.
(13) Trong hai ngày 07 và 08 tháng 9 năm 2016, Hội nghị cấp cao ASEAN và Hội nghị Thượng 
đỉnh Đông Á đã diễn ra tại Viêng Chăn, Lào.
(14) 
contents_list-items_045.
(15) Japan Maritime Self-Defense Force.
(16) Japanese Coast Guard.
(17) Philippines Coast Guard.
(18) Lực lượng của Nhật Bản đứng thứ ba trong các nước tham gia tập trận.
(19) ASEAN Defence Minister’ s Meeting - Plus.
(20) Center for Strategic and International Studies.
(21) 
bien-20170708002425145.htm. Cập nhật ngày 08 tháng 7 năm 2017.
(22) 
ban/5234.html. Cập nhật ngày 21 tháng 3 năm 2014.
(23) 
ban/5234.html.
(24) 
ban-o-bien-dong. Cập nhật ngày 08 tháng 4 năm 2016.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Minh, “Nhìn lại chặng đường tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật 
Biển quốc tế năm 1982 của Việt Nam giai đoạn 1994 - 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 
số 2/2016.
2. Nguyễn Thanh Minh, “Quá trình phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu 
vực Biển Đông”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7/2016.
3. “Nhật Bản can dự vào vấn đề Biển Đông: Xu hướng phát triển và mục tiêu chiến lược”. 
Vietnam+, ngày 03/9/2016.
4. “Nhật Bản: Phán quyết của PCA về Biển Đông có tính ràng buộc pháp lý”. Thông tấn xã Việt 
Nam, ngày 01/9/2016.
5. Marwyn S. Samuels (1982), Tranh chấp Biển Đông, Methuen, New York and London.
6. Nguyễn Q. Thắng (2008), Hoàng Sa - Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc 
tế, Nxb Tri thức.
98 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137) . 2017
7. Nguyễn Toàn Thắng (2009), “Vấn đề thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế”, Chuyên đề thuộc 
đề tài nghiên cứu cấp nhà nước: Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần 
đảo Trường Sa - Hoàng Sa do Trung tâm Luật Biển và Hàng hải Quốc tế chủ trì.
 8. Nguyễn Thanh Minh, “Chính sách hiện đại hóa lực lượng hải quân của một số nước Đông 
Nam Á trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2017.
TÓM TẮT
Về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông, Nhật Bản là 
quốc gia không liên quan trực tiếp, tuy nhiên Biển Đông có vai trò quan trọng trong tuyến hàng 
hải huyết mạch từ Trung Đông đến lãnh hải Nhật Bản. Do vậy, trong thời gian gần đây, Nhật Bản 
liên tục thể hiện quan điểm kiên quyết, nhất quán về vấn đề Biển Đông và tạo ra những thách 
thức mới cho Trung Quốc, đặc biệt là tham vọng trỗi dậy của Trung Quốc qua chiến lược Con 
đường Tơ lụa trên biển thế kỷ XXI. Bài viết nhằm góp phần làm rõ hơn sự can dự của Nhật Bản 
vào vấn đề Biển Đông và tác động của việc can dự đối với Trung Quốc trong quá trình triển khai 
thực hiện chiến lược cường quốc biển.
ABSTRACT
JAPAN’S STANCE ON THE EAST SEA AND ITS IMPLICATION 
TOWARD CHINESE STRATEGY
Japan has no direct involvement in the disputes on the historic rights, sovereign rights, 
and jurisdiction in the East Sea, but the Sea takes an important role in providing abloodline sea 
route from the Middle East to Japanese territorial waters. Consequently, during these days Japan 
constantly expressed its firm and consistent stance on the East Sea issue and created new 
challenges to China, especially to China’s rising ambition by the strategy of the 21st Century 
Maritime Silk Road. The article aims to make clear Japanese involvement to the East Sea issue 
and its effect on China’s maritime strategy.

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_nhat_ban_tai_bien_dong_va_ham_y_doi_voi_chien.pdf