Quan điểm của một số quốc gia về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - Đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình

tiết khác nhau. Để pháp luật tố tụng hình sự nước ta về đối tượng chứng minh

được xây dựng theo hướng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp, cùng với việc phải nghiên cứu làm rõ đối tượng chứng minh trong vụ án

hình sự trên phương diện lý luận, cần phải nghiên cứu pháp luật tố tụng hình

sự của một số quốc gia trên thế giới và quan điểm của các nước về đối tượng

chứng minh, để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình

xây dựng và áp dụng pháp luật.

pdf 7 trang kimcuc 5760
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của một số quốc gia về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - Đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của một số quốc gia về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - Đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Quan điểm của một số quốc gia về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - Đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
54 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
1. Quan điểm của một số quốc gia về 
đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
Hiện nay, trên thế giới có bốn hệ thống 
luật cơ bản, đó là: Hệ thống luật chung 
(the common law family), hệ thống luật 
Châu Âu lục địa (the continental law), hệ 
thống luật Xã hội chủ nghĩa (XHCN) và 
hệ thống luật của các nước lựa chọn giải 
pháp trung gian (là sự pha trộn của hệ 
thống luật chung và hệ thống luật Châu 
Âu lục địa). Để có được quan điểm toàn 
diện về đối tượng chứng minh thì cần 
phải lựa chọn những nước có pháp luật 
là đại diện tiêu biểu cho mỗi hệ thống 
luật đang tồn tại để nghiên cứu. Xét tính 
chất tiêu biểu cho mỗi hệ thống luật mà 
tác giả lựa chọn pháp luật của các nước: 
Nga (đại diện cho hệ thống luật XHCN); 
Pháp (đại diện cho hệ thống luật Châu Âu 
lục địa); Anh, Mỹ (đại diện cho hệ thống 
luật chung) và Trung Quốc(1) (đại diện 
các nước lựa chọn giải pháp trung gian) 
để nghiên cứu về đối tượng chứng minh 
trong vụ án hình sự (VAHS). Pháp luật 
của mỗi nước là sự cụ thể hóa quan điểm, 
tư tưởng của nước đó về pháp luật, vì vậy, 
muốn thấy được quan điểm của các nước 
nêu trên về đối tượng chứng minh trong 
VAHS thì trước hết, cần phải xem xét vấn 
đề này được quy định như thế nào trong 
pháp luật của mỗi nước.
1.1. Đối tượng chứng minh trong pháp 
luật tố tụng hình sự Nga: Nghiên cứu Bộ 
luật tố tụng hình sự (TTHS) Nga năm 2001 
tác giả thấy, trong Bộ luật này có một điều 
luật quy định những vấn đề phải chứng 
minh trong VAHS, cụ thể là: 
Điều 73 Bộ luật TTHS Nga năm 2001 
quy định: “1/ Trong quá trình tố tụng 
* Thạc sĩ, Nghiên cứu sinh Khoa Luật - Đại học Quốc 
gia Hà Nội
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH 
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ - ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 
CHO VIỆT NAM
VŨ XUÂN THAO * 
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình 
tiết khác nhau. Để pháp luật tố tụng hình sự nước ta về đối tượng chứng minh 
được xây dựng theo hướng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư 
pháp, cùng với việc phải nghiên cứu làm rõ đối tượng chứng minh trong vụ án 
hình sự trên phương diện lý luận, cần phải nghiên cứu pháp luật tố tụng hình 
sự của một số quốc gia trên thế giới và quan điểm của các nước về đối tượng 
chứng minh, để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình 
xây dựng và áp dụng pháp luật.
Từ khóa: Đối tượng chứng minh, vụ án hình sự, tố tụng hình sự. 
Attestations in criminal cases include different events and details. In 
order to make our criminal law on attestations more perfectly that meets 
judicial reform requirements, it is necessary to study clearly on attestations 
in criminal cases not only in theoretical aspect but in some nations’ criminal 
laws and their viewpoints on attestations also. Then some experience can be 
learnt in the progress of building and applying laws in Vietnam.
Keywords: Attestations, criminal cases, criminal proceedings.
VŨ XUÂN THAO
55Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
đối với vụ án hình sự cần chứng minh: 1) 
Sự kiện phạm tội (thời gian, địa điểm, 
phương pháp và những tình tiết khác 
của việc thực hiện tội phạm); 2) Lỗi của 
người thực hiện tội phạm, hình thức lỗi 
và động cơ phạm tội; 3) Những tình tiết 
về nhân thân bị can; 4) Tính chất và mức 
độ thiệt hại do tội phạm gây ra; 5) Những 
tình tiết loại trừ tội phạm và hình phạt đối 
với hành vi; 6) Những tình tiết giảm nhẹ và 
tăng nặng trách nhiệm hình sự; 7) Những 
tình tiết có thể dẫn đến việc miễn truy cứu 
trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt. 2/ 
Cần xác định những tình tiết là điều kiện 
dẫn đến việc thực hiện tội phạm”(1).
Ngoài những sự kiện, tình tiết được 
liệt kê trong điều luật nêu trên, đối với 
những vụ án có chủ thể tội phạm là người 
chưa thành niên hay trong vụ án mà người 
thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm 
trong tình trạng không có năng lực trách 
nhiệm hình sự hoặc sau khi thực hiện tội 
phạm bị rơi vào tình trạng tâm thần thì 
các chủ thể TTHS phải chứng minh các 
tình tiết tương ứng được quy định trong 
các điều luật sau: 
Điều 421 Bộ luật TTHS Nga năm 2001 
quy định: “1/ Khi tiến hành điều tra và xét 
xử vụ án về tội phạm do người chưa thành 
niên thực hiện, cùng với việc chứng minh 
những tình tiết quy định tại Điều 73 Bộ 
luật này cần xác định: 1) Tuổi của người 
chưa thành niên ngày, tháng, năm sinh 
của họ; 2) Điều kiện sống và giáo dục của 
người chưa thành niên, mức độ phát triển 
về tâm sinh lý và những đặc điểm khác về 
nhân thân của họ; 3) Ảnh hưởng của người 
lớn đối với người chưa thành niên. 2/ Nếu 
tài liệu chứng minh về sự chậm phát triển 
tâm sinh lý không liên quan đến rối loạn 
tâm thần thì cần phải xác định xem người 
chưa thành niên có nhận thức đầy đủ về 
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội 
1  Đuma quốc gia liên bang Nga (2001), Bộ luật tố tụng 
hình sự liên bang Nga, Viện Khoa học kiểm sát – Viện 
Kiểm sát nhân dân tối cao dịch, Hà Nội, tr. 53-54.
của hành vi và điều khiển được hành vi 
của mình hay không”(2).
Điều 434 của Bộ luật này quy định: “Khi 
tiến hành điều tra đối với các vụ án về những 
người quy định tại Khoản 1, Điều 433 Bộ luật 
này thì Dự thẩm cần phải chứng minh các 
tình tiết sau: 1) Thời gian, địa điểm, phương 
pháp và những tình tiết khác của hành vi 
phạm tội; 2) Người đó có thực hiện hành vi 
bị luật hình sự cấm hay không; 3) Tính chất 
và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây 
ra; 4) Trước đó họ có bị bệnh tâm thần hay 
không, tính chất và mức độ bệnh tâm thần ở 
thời điểm thực hiện hành vi bị luật hình sự 
cấm hoặc trong thời gian tố tụng đối với vụ 
án; 5) Bệnh tâm thần của họ có liên quan đến 
sự nguy hiểm cho bản thân họ hoặc những 
người khác hoặc có khả năng gây ra những 
thiệt hại nghiêm trọng khác hay không”(3).
Ba điều luật nêu trên trực tiếp liệt kê 
những sự kiện, tình tiết phải chứng minh 
trong VAHS, trong đó Điều 73 Bộ luật 
TTHS Nga năm 2001 quy định những sự 
kiện, tình tiết phải chứng minh trong mọi 
vụ án; Điều 421 và Điều 434 của Bộ luật 
này quy định những sự kiện, tình tiết phải 
chứng minh thêm trong vụ án mà người 
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội 
có dấu hiệu riêng theo luật định. Ngoài 
ra, đối tượng chứng minh trong VAHS 
còn được quy định gián tiếp ở một số điều 
luật khác của Bộ luật này, chẳng hạn như: 
Điều 24, Điều 97, Khoản 9 Điều 352
1.2. Đối tượng chứng minh trong pháp 
luật tố tụng hình sự Pháp: Nghiên cứu Bộ 
luật TTHS Pháp năm 1996 tác giả thấy, 
trong Bộ luật này không có điều luật riêng 
quy định những vấn đề phải chứng minh 
trong VAHS. Tuy nhiên, vẫn có thể tìm 
thấy những sự kiện, tình tiết phải chứng 
minh được quy định gián tiếp trong một số 
điều luật của Bộ luật này, chẳng hạn như: 
Tại Khoản 1 và Khoản 5 Điều 81 Bộ 
luật TTHS Pháp năm 1996 quy định: “1. 
2  Tài liệu đd, tr. 185.
3  Tài liệu đd, tr. 190.
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ ĐỐI TƯỢNG...
56 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
Dự thẩm tiến hành mọi hoạt động điều tra 
cần thiết để xác định sự thật theo đúng quy 
định của pháp luật; 5. Dự thẩm trực tiếp 
hoặc giao cho Sĩ quan cảnh sát tư pháp, 
theo quy định của khoản 4, hoặc giao cho 
bất cứ người nào có thẩm quyền theo quy 
định của Chính phủ tiến hành điều tra 
nhân thân cũng như hoàn cảnh kinh tế, 
gia đình và xã hội của bị can”(1); Điều 94 
của Bộ luật quy định: “Việc khám xét được 
thực hiện tại bất cứ nơi nào có thể tìm ra 
những vật giúp cho xác định sự thật”(2); 
Điều 103 của Bộ luật quy định: “Người làm 
chứng tuyên thệ sẽ khai tất cả sự thật và 
chỉ khai sự thật. Dự thẩm hỏi họ, tên, tuổi, 
lý lịch, nghề nghiệp, chỗ ở của người làm 
chứng, hỏi xem người làm chứng có quan 
hệ bà con thân thuộc với các bên đương sự 
hay không, nếu có thì quan hệ giữa người 
làm chứng và bên đương sự ở mức độ nào. 
Câu hỏi và câu trả lời phải được ghi vào 
biên bản”(3); Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật 
quy định: “Trong lần hỏi cung đầu tiên, dự 
thẩm xác định căn cước của bị can”(4); 
Điều 176 của Bộ luật quy định: “Dự thẩm 
kiểm tra các yếu tố cấu thành tội phạm hiện 
hữu chống lại bị can để trên cơ sở đó xác 
định tội phạm”(5); Điều 177 của Bộ luật quy 
định: “Nếu các sự kiện xảy ra không cấu 
thành trọng tội, hoặc vi cảnh hoặc nếu 
chưa xác định được người phạm tội hoặc 
chưa đủ chứng cứ buộc tội bị can, thì dự 
thẩm ra quyết định miễn tố”(6); Khoản 1 
Điều 212 của Bộ luật quy định: “Nếu xét 
thấy các sự kiện, hoặc chưa tìm ra người 
phạm tội thì Tòa điều tra phúc thẩm 
tuyên bố đình chỉ điều tra”(7); Điều 348, 
349 của Bộ luật quy định: “Chủ tọa phiên 
1  Nghị viện Cộng hòa Pháp (1996), Bộ luật tố tụng hình 
sự nước Cộng hòa Pháp, (Nhà pháp luật Việt – Pháp 
dịch), NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55.
2  Tài liệu đd, tr. 64.
3  Tài liệu đd, tr. 69.
4  Tài liệu đd, tr. 73.
5  Tài liệu đd, tr. 110.
6  Tài liệu đd, tr. 110.
7  Tài liệu đd, tr. 126.
tòa nêu các vấn đề mà Tòa đại hình và Bồi 
thẩm đoàn phải xem xét Mỗi tình tiết 
tăng nặng phải được nêu thành một vấn 
đề. Mỗi lí do miễn hay giảm hình phạt theo 
quy định của pháp luật cũng được nêu 
thành một vấn đề”(8); Điều 397 của Bộ luật 
quy định: “Nếu bị cáo được đưa ra Tòa tiến 
hành xét xử theo quy định tại các Điều 395 
và Điều 396 khoản 3 thì Chánh án Tòa tiến 
hành sẽ xác định căn cước của bị cáo sau 
khi thông báo cho Luật sư của bị cáo”(9); 
Điều 468 của Bộ luật quy định: “Nếu bị cáo 
được miễn hình phạt theo quy định của 
pháp luật thì Tòa án tuyên bố bị cáo có tội 
và miễn hình phạt cho bị cáo”(10)
1.3. Đối tượng chứng minh trong pháp 
luật tố tụng hình sự Anh: Nghiên cứu Luật 
Điều tra và Tố tụng hình sự Anh năm 1996 
thì thấy rằng, trong các quy định về TTHS 
không có điều luật riêng quy định những 
vấn đề phải chứng minh trong VAHS và 
cũng không tìm thấy điều luật nào quy 
định gián tiếp những sự kiện, tình tiết phải 
chứng minh. Nhưng trong các quy định 
về điều tra hình sự thì lại có một số điều 
luật quy định gián tiếp những vấn đề phải 
chứng minh trong VAHS, chẳng hạn như:
Khoản 4, Điều 1 quy định: “Vì mục 
đích của Điều này, điều tra hình sự là việc 
điều tra mà nhân viên cảnh sát hoặc người 
khác có trách nhiệm tiến hành để làm rõ: 
(a) liệu có thể cáo buộc một người về một 
tội, hoặc (b) liệu người bị cáo buộc có tội 
hay không”(11); Khoản 1, Điều 22 quy định: 
“Vì mục đích của Phần này, điều tra hình 
sự là điều tra do cảnh sát tiến hành nhằm 
làm rõ: (a) liệu có nên cáo buộc một người 
về một tội, hoặc (b) liệu người bị cáo buộc 
về một tội là có tội hay không”(12); Khoản 1, 
Điều 26 quy định: “Một người không phải 
8  Tài liệu đd, tr. 165.
9  Tài liệu đd, tr. 181.
10  Tài liệu đd, tr. 205.
11  Nghị viện Vương quốc Anh (1996), Luật Điều tra và tố 
tụng hình sự, Viện Khoa học kiểm sát – Viện Kiểm sát 
nhân dân tối cao dịch, Hà Nội, tr. 6.
12  Tài liệu đd, tr. 25.
VŨ XUÂN THAO
57Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
là một nhân viên cảnh sát được giao trách 
nhiệm tiến hành điều tra nhằm làm rõ: (a) 
liệu một người có bị cáo buộc về một tội 
phạm, hoặc (b) liệu một người bị cáo buộc 
về một tội là có tội hay không”(1); Khoản 2, 
Điều 27 quy định: “Vấn đề là việc tiết lộ tài 
liệu - (a) của một nhân viên cảnh sát hoặc 
người khác được giao trách nhiệm tiến 
hành điều tra nhằm làm rõ liệu một người 
có bị cáo buộc về một tội phạm hoặc liệu 
người bị cáo buộc về tội phạm là có tội hay 
không”(2); Khoản 3, 4, Điều 60 quy định: 
“(3) Khi một người bị cáo buộc về một tội 
theo điều này, trách nhiệm của người bào 
chữa phải chứng minh rằng vào thời điểm 
của tội phạm bị cáo buộc (a) người này 
không nhận thức được, và không bị nghi 
ngờ hoặc có lý do để nghi ngờ, là một lệnh 
theo điều 58(7) hoặc (8) có hiệu lực vào thời 
điểm đó, hoặc (b) người này không nhận 
thức được, và không bị nghi ngờ hoặc 
có lý do để nghi ngờ, việc ấn phẩm hoặc 
chương trình liên quan chính là, hoặc (có 
thể xảy ra) được bao gồm, cam kết được 
nói đến.”(3); Như vậy, ở Anh, đối tượng 
chứng minh trong VAHS không được quy 
định trong luật TTHS mà được quy định 
trong luật Điều tra hình sự với hình thức 
quy định gián tiếp.
1.4. Đối tượng chứng minh trong pháp 
luật tố tụng hình sự Mỹ: Tương tự như pháp 
luật TTHS Anh, pháp luật TTHS Mỹ không 
có điều luật riêng quy định những vấn đề 
phải chứng minh trong VAHS. Tuy nhiên, 
nghiên cứu Các nguyên tắc Liên bang về tố 
tụng hình sự Mỹ năm 2006 tác giả thấy, đối 
tượng chứng minh trong VAHS được quy 
định gián tiếp trong nội dung của một số 
nguyên tắc, chẳng hạn như: 
Điểm 1, Khoản a, Nguyên tắc 4 quy 
định: “Khi thẩm phán ban hành lệnh bắt 
thì một lệnh bắt phải: (A) Bao gồm tên bị 
cáo hoặc, trường hợp không biết tên thì 
1  Tài liệu đd, tr. 30.
2  Tài liệu đd, tr. 31.
3  Tài liệu đd, tr. 62.
có một tên nào đó hoặc sự mô tả mà theo 
đó có thể xác định được bị cáo một cách 
chắc chắn; (B) Mô tả về tội phạm bị tố giác 
trong đơn”(4); Điểm 1, Khoản a, Nguyên tắc 
5 quy định về trình diện ban đầu như sau: 
“Nếu bị cáo bị bắt tại quận được cho là nơi 
đã xảy ra hành vi phạm tội: (A) Việc trình 
diện ban đầu phải ở tại quận đó; và (B) 
Nếu thẩm phán sơ thẩm không có mặt vì lý 
do chính đáng, việc trình diện ban đầu có 
thể tới một nhân viên tư pháp địa phương 
hoặc bang”(5). Điểm 2, Khoản a của nguyên 
tắc này quy định: “Nếu bị cáo bị bắt tại một 
quận khác với nơi được cho là đã xảy ra tội 
phạm, việc trình diện ban đầu phải: (A) Ở 
tại quận nơi tiến hành bắt; hoặc (B) tại quận 
kế bên nếu (i) việc trình diện có thể tiến 
hành kịp thời hơn”(6); Khoản e, Nguyên tắc 
5.1 quy định về xét hỏi sơ bộ: “ nếu thẩm 
phán sơ thẩm thấy có căn cứ là có hành 
vi phạm tội xảy ra và bị cáo đã thực hiện 
hành vi này, thẩm phán sơ thẩm phải ngay 
lập tức yêu cầu bị cáo có mặt để tiến hành 
các tiến hành tố tụng tiếp theo”(7). Khoản f 
nguyên tắc này quy định: “Nếu thẩm phán 
sơ thẩm thấy không có căn cứ để xác định 
có hành vi phạm tội xảy ra hoặc bị cáo đã 
thực hiện hành vi này, thẩm phán sơ thẩm 
phải bác đơn tố giác và trả tự do cho bị cáo. 
Việc trả tự do này không ảnh hưởng đến 
quyền của chính phủ trong việc truy tố bị 
cáo về cùng một tội đó sau này”(8); Điểm 6, 
Khoản a, Nguyên tắc 32.1 quy định: “Thẩm 
phán sơ thẩm có thể tha hoặc giam người 
theo quy định tại điều 3143 (a) chương 18 
Bộ luật Mỹ tạm hoãn các thủ tục tố tụng 
tiếp theo. Trách nhiệm chứng minh việc 
người này sẽ không chạy trốn hoặc gây 
nguy hiểm cho người khác hoặc cho cộng 
4  Nghị viện Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (2006), Các nguyên 
tắc liên bang về tố tụng hình sự, Viện Khoa học kiểm sát – 
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao dịch, Hà Nội, tr. 8.
5  Tài liệu đd, tr. 11.
6  Tài liệu đd, tr. 11.
7  Tài liệu đd, tr. 14.
8  Tài liệu đd, tr. 14.
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ ĐỐI TƯỢNG...
58 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
đồng thuộc về chính người đó”(1); Điểm 1, 
Khoản c, Nguyên tắc 32.1 quy định: “Trước 
khi sửa đổi các điều kiện cho việc tha có 
giám sát và quản chế, toà án phải tiến hành 
xét xử và người này có quyền có người bào 
chữa, có cơ hội đưa ra lời khai và trình bày 
tình tiết giảm nhẹ hình phạt”(2); Khoản c, 
Nguyên tắc 46 quy định: “Trách nhiệm 
chứng minh bị cáo sẽ không chạy trốn hoặc 
gây nguy hiểm cho người khác hoặc cho 
cộng đồng thuộc về bị cáo”(3)
1.5. Đối tượng chứng minh trong pháp 
luật tố tụng hình sự Trung Quốc: Nghiên cứu 
Bộ luật TTHS Trung Quốc năm 1996 thấy 
rằng, trong Bộ luật này không có điều luật 
riêng quy định những vấn đề phải chứng 
minh trong VAHS. Mặc dù không được 
quy định bởi một điều luật riêng nhưng 
đối tượng chứng minh trong VAHS vẫn 
được quy định gián tiếp trong một số điều 
luật của Bộ luật này. Chẳng hạn như: 
Điều 2 Bộ luật TTHS Trung Quốc 
1996 quy định: “Mục đích của Bộ luật 
tố tụng hình sự nước Cộng hoà nhân 
dân Trung Hoa là nhằm đảm bảo việc 
điều tra, làm sáng tỏ thực chất của tội 
phạm một cách chính xác, kịp thời”(4); 
Điều 15 của Bộ luật quy định: “Không 
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đã 
tiến hành điều tra thì phải đình chỉ vụ 
án, hoặc không truy tố, đình chỉ việc xét 
xử hoặc tuyên vô tội trong bất kỳ trường 
hợp nào sau đây: 1. Hành vi vi phạm 
rõ ràng là không đáng kể, không gây 
nguy hại lớn, và do đó không bị coi là 
tội phạm; 2. Đã hết thời hiệu truy cứu 
trách nhiệm hình sự; 3. Được miễn hình 
phạt theo một quyết định ân xá đặc biệt; 
4. Tội phạm bị xử lý dựa trên cơ sở khiếu 
nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật 
1  Tài liệu đd, tr. 72.
2  Tài liệu đd, tr. 74.
3  Tài liệu đd, tr. 95.
4  Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1996), Bộ 
luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, 
Viện Khoa học kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 
dịch, Hà Nội, tr. 3.
hình sự, nhưng không có khiếu nại, tố 
cáo hoặc đã rút khiếu nại, tố cáo; 5. Nghị 
can hoặc bị cáo đã chết; 6. Miễn truy 
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định 
của các luật khác”(5); Điều 42 của Bộ luật 
quy định: “Mọi tình tiết chứng minh sự 
thật của vụ án đều là chứng cứ. Chứng 
cứ gồm 7 loại dưới đây: 1) Vật chứng, 
tài liệu làm chứng; 2) Lời khai của người 
làm chứng; 3) Lời khai của người bị hại; 
4) Lời khai và lời bào chữa của nghị can, 
bị cáo; 5) Kết luận giám định; 6) Biên bản 
khám nghiệm, điều tra; 7) Tài liệu âm 
thanh, hình ảnh”(6); Điều 137 của Bộ luật 
quy định: “Khi thẩm tra các vụ án, Viện 
kiểm sát nhân dân phải làm rõ những 
điểm sau: 1) Tình tiết, sự việc phạm tội 
có rõ ràng hay không, chứng cứ có đáng 
tin cậy và đầy đủ hay không, việc buộc 
tội và tính chất của tội phạm có được 
xác định đúng hay không; 2) Có bỏ lọt 
hành vi phạm tội và người phải truy cứu 
trách nhiệm hình sự nào không; 3) Liệu 
vụ án có thuộc trường hợp không đến 
mức cần thiết phải truy cứu trách nhiệm 
hình sự hay không; 4) Liệu vụ án có liên 
quan đến vụ kiện dân sự hay không; 
và 5) Liệu hoạt động điều tra vụ án có 
được tiến hành hợp pháp không”(7); 
Những điều luật nêu trên trong Bộ luật 
TTHS Trung Quốc năm 1996 đã thể 
hiện gián tiếp những vấn đề phải chứng 
minh trong VAHS. Chẳng hạn như: Để 
đạt được mục đích đặt ra tại Điều 2 của 
Bộ luật này thì các chủ thể TTHS phải 
xác định và chứng minh tất cả những 
sự kiện, tình tiết của vụ án, trên cơ sở 
đó mới có thể làm sáng tỏ thực chất 
của tội phạm. Hoặc để có căn cứ không 
truy cứu TNHS người phạm tội hoặc 
ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ 
xét xử thì các cơ quan có thẩm quyền 
THTT phải chứng minh được một trong 
5  Tài liệu đd, tr. 5-6.
6  Tài liệu đd, tr. 13.
7  Tài liệu đd, tr. 39.
VŨ XUÂN THAO
59Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
những tình tiết quy định tại Điều 15 của 
Bộ luật này;
Từ việc nghiên cứu pháp luật TTHS 
của các nước nêu trên, chúng tôi thấy 
quan điểm của các nước về đối tượng 
chứng minh trong VAHS như sau:
Một là, các nước đều quy định những 
vấn đề phải chứng minh trong VAHS 
trong pháp luật nước mình nhưng nội 
dung và cách thức quy định giữa các nước 
có sự khác nhau. 
Hai là, có hai hình thức quy định 
những vấn đề phải chứng minh trong 
VAHS, đó là: 
i) Có điều luật riêng quy định những 
vấn đề phải chứng minh trong VAHS 
trong luật TTHS (Nga). Nội dung của 
điều luật là sự liệt kê những sự kiện, tình 
tiết của vụ án mà các chủ thể TTHS phải 
chứng minh, như: Có sự kiện phạm tội 
xảy ra hay không; Lỗi của người thực hiện 
tội phạm, hình thức lỗi và động cơ phạm 
tội; Những tình tiết về nhân thân bị can; 
Tính chất và mức độ thiệt hại do tội phạm 
gây ra; Những tình tiết loại trừ tội phạm 
và hình phạt đối với hành vi; Những tình 
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm 
hình sự;
ii) Không có điều luật riêng quy định 
những vấn đề phải chứng minh trong 
VAHS (Pháp, Anh, Mỹ, Trung Quốc). 
Mặc dù không được thiết kế bởi một 
điều luật riêng nhưng ở những quốc gia 
này, đối tượng chứng minh trong VAHS 
vẫn được quy định gián tiếp trong một 
số điều luật cụ thể của luật TTHS hoặc 
luật khác. 
Với cách quy định này, rõ ràng là 
muốn xác định được nơi trình diện ban 
đầu của bị cáo thì người hoặc cơ quan có 
thẩm quyền phải chứng minh được nơi bị 
cáo thực hiện hành vi phạm tội. 
Có nhiều lý do để giải thích cho 
sự khác nhau về cách thức ghi nhận 
đối tượng chứng minh trong pháp luật 
TTHS giữa các nước. Song, theo tác giả, 
lý do cơ bản để giải thích cho sự khác 
nhau này là do quan điểm của mỗi nước 
trong việc nhấn mạnh vai trò con người 
hay công cụ pháp luật trong việc chứng 
minh tội phạm. Để tiến hành các hoạt 
động TTHS nói chung và hoạt động xác 
định đối tượng chứng minh nói riêng thì 
ở quốc gia nào cũng cần phải có hai yếu 
tố, đó là con người và công cụ pháp luật 
nhưng sự nhìn nhận, đánh giá về vai trò 
của hai yếu tố này giữa các nước có sự 
khác nhau. Ở những nước nghiêng về 
vai trò của con người đối với hoạt động 
TTHS thì ở những nước đó, pháp luật 
TTHS không có điều luật riêng quy định 
những vấn đề phải chứng minh trong 
VAHS để những người có trách nhiệm 
chứng minh VAHS được chủ động 
trong việc điều tra, thu thập, đánh giá 
chứng cứ chứng minh tội phạm, miễn là 
các hoạt động đó không trái với những 
nguyên tắc được đặt ra trong pháp luật 
TTHS (Anh, Mỹ). Trái lại, ở những 
nước nhấn mạnh vai trò của pháp luật 
đối với việc chứng minh VAHS thì ở 
những nước đó, pháp luật TTHS có điều 
luật riêng quy định những vấn đề phải 
chứng minh trong VAHS để làm căn cứ 
cho việc xác định đối tượng chứng minh 
cũng như phạm vi chứng minh VAHS, 
đồng thời định hướng cho hoạt động 
điều tra, thu thập chứng cứ của các chủ 
thể TTHS (Nga).
2. Đánh giá và bài học kinh nghiệm 
cho Việt Nam
Bộ luật TTHS đầu tiên của nước ta 
(Bộ luật TTHS năm 1988) được ban hành 
một phần dựa trên sự tổng kết kinh 
nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư 
pháp hình sự trong nước và phần lớn là 
do kết quả của quá trình học hỏi, tiếp 
thu kinh nghiệm lập pháp của các nước 
XHCN, đặc biệt Liên Xô. Các Bộ luật 
TTHS của nước ta sau này (Bộ luật TTHS 
năm 2003, Bộ luật TTHS năm 2015) được 
ban hành trên cơ sở có sự kế thừa các 
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ ĐỐI TƯỢNG...
60 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
quy định của Bộ luật TTHS trước đó. 
Điều này lý giải tại sao pháp luật TTHS 
nước ta nói chung và đối tượng chứng 
minh trong VAHS nói riêng thuộc hệ 
thống luật XHCN và có sự tương đồng 
với pháp luật TTHS Liên Xô (nay là Liên 
bang Nga) cả về nội dung và cách thức 
quy định. 
Từ những nghiên cứu nêu trên cho 
thấy, các nước hiện nay đều quy định đối 
tượng chứng minh trong pháp luật nước 
mình nhưng về nội dung và hình thức 
quy định giữa các nước có sự khác nhau. 
Có những nước đối tượng chứng minh 
được thiết kế bằng một điều luật riêng 
trong pháp luật TTHS (Nga), có những 
nước vấn đề này lại được quy định gián 
tiếp trong một số điều luật của pháp 
luật TTHS (Pháp, Mỹ, Trung Quốc) hoặc 
pháp luật Điều tra hình sự (Anh) để điều 
chỉnh các hoạt động tố tụng cụ thể; và 
trong mỗi cách quy định sẽ có những ưu, 
nhược điểm nhất định. Chẳng hạn như, ở 
cách quy định thứ nhất, pháp luật TTHS 
có điều luật riêng quy định những vấn 
đề phải chứng minh trong VAHS có ưu 
điểm là giúp các chủ thể TTHS có nhận 
thức thống nhất về đối tượng chứng 
minh, nắm rõ nội dung đối tượng chứng 
minh trong VAHS gồm những vấn đề gì, 
song cách quy định này cũng tạo thành 
khuôn mẫu buộc các chủ thể TTHS phải 
tuân theo, Cách quy định thứ hai có 
ưu điểm là tạo sự chủ động cho các chủ 
thể TTHS trong việc chứng minh vụ án 
nhưng lại đòi hỏi các chủ thể TTHS phải 
có trình độ am hiểu pháp luật cao Ở 
nước ta, pháp luật trong lĩnh vực tư pháp 
hình sự nói chung, pháp luật TTHS nói 
riêng được ban hành chủ yếu dựa trên sự 
kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp 
của Liên Xô, theo đó, Bộ luật TTHS đầu 
tiên của nước ta được ban hành có điều 
luật riêng quy định những vấn đề phải 
chứng minh trong VAHS và quy định 
này được kế thừa trong các Bộ luật TTHS 
sau đó. Lịch sử đã lựa chọn theo cách thứ 
nhất, pháp luật TTHS có điều luật riêng 
quy định những vấn đề phải chứng minh 
trong VAHS thì Nhà nước ta cần phải 
hoàn thiện để quy định này trở thành căn 
cứ pháp lý quan trọng, đảm bảo sự nhận 
thức thống nhất về mặt nội dung giữa 
các chủ thể TTHS, các giai đoạn tố tụng, 
tạo thành các bảng kiểm, các yêu cầu, các 
định hướng, sự lôgic mà hoạt động điều 
tra, truy tố, xét xử phải làm rõ, tạo sợi chỉ 
đỏ xuyên suốt các bước, các giai đoạn của 
quá trình chứng minh VAHS.
Trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo 
yêu cầu hội nhập quốc tế trong công tác 
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, 
Nhà nước ta đã thừa nhận pháp nhân 
thương mại là chủ thể tội phạm và có 
những quy định cụ thể bổ sung vào BLHS. 
Theo đó, Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã 
được bổ sung thêm quy định về những 
vấn đề phải chứng minh khi tiến hành tố 
tụng đối với pháp nhân bị buộc tội (Điều 
441 Bộ luật TTHS năm 2015). Tuy nhiên, 
việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân là 
một trong những nội dung mới vừa được 
bổ sung vào BLHS năm 2015, do đó về lý 
luận cũng như thực tiễn TTHS, chúng ta 
chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xác 
định đối tượng chứng minh trong VAHS 
có chủ thể tội phạm là pháp nhân. Trên 
thế giới hiện nay có những nước chưa đặt 
ra vấn đề truy cứu TNHS đối với pháp 
nhân (Nga) nhưng cũng đã có khá nhiều 
nước thừa nhận pháp nhân là chủ thể tội 
phạm từ khá sớm như: Pháp, Anh, Mỹ, 
và có nhiều kinh nghiệm TTHS trong lĩnh 
vực này, do đó, chúng ta cần phải học hỏi, 
tiếp thu kinh nghiệm lập pháp cũng như 
kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh, xử lý tội 
phạm của những quốc gia này để bổ sung, 
hoàn thiện pháp luật TTHS, trong đó bao 
gồm cả vấn đề đối tượng chứng minh 
trong VAHS có pháp nhân là chủ thể bị 
cáo buộc phạm tội./.

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_mot_so_quoc_gia_ve_doi_tuong_chung_minh_trong.pdf