Quan điểm của đảng về động lực phát triển đất nước thời kì đổi mới

Động lực phát triển cách mạng là một nội dung cơ

bản trong lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Con người vừa

là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Cách

mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp

công nhân và nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức

bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham gia đông đảo của giai

cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo thành

những động lực to lớn của cách mạng. Dưới ánh sáng chủ

nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng

Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận

thức đầy đủ và sâu sắc hơn về động lực phát triển xã hội,

luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát

triển xã hội. Tuy nhiên, con người phải được đặt ở vị trí

trung tâm trong giải quyết các nhân tố: kết hợp hài hòa

các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc;

phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;

phát huy nhân tố con người; đổi mới tư duy, đổi mới tổ

chức, cơ chế, chính sách. tạo thành động lực tổng hợp

thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước

ta hiện nay.

pdf 5 trang kimcuc 8240
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của đảng về động lực phát triển đất nước thời kì đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của đảng về động lực phát triển đất nước thời kì đổi mới

Quan điểm của đảng về động lực phát triển đất nước thời kì đổi mới
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 5-9 
5 
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 
 THỜI KÌ ĐỔI MỚI 
Nguyễn Mạnh Chủng, Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng 
Nguyễn Văn Ghi - Trường Đại học Trần Quốc Tuấn 
Ngày nhận bài: 30/03/2017; ngày sửa chữa: 10/04/2017; ngày duyệt đăng: 19/04/2017. 
Abstract: Momentum for development of a country includes factors that drive contribution of 
individuals to the development of the fatherland. This is also the concern of Communist Party of 
Vietnam mentioned in many congresses. In this article, author overviews the viewpoints of the 
Party on the momentum of our nation in the reform period by analysing the guidelines of the Party 
through Party congresses since 1986. On that basis, the article also points out the role of the 
momentum for the development of our nation in the context of reform period and integration in 
Vietnam today. 
Keywords: Party, view, development, momentum, motivation, reform era. 
1. Mở đầu 
Động lực phát triển cách mạng là một nội dung cơ 
bản trong lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Con người vừa 
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Cách 
mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp 
công nhân và nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức 
bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham gia đông đảo của giai 
cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo thành 
những động lực to lớn của cách mạng. Dưới ánh sáng chủ 
nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng 
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận 
thức đầy đủ và sâu sắc hơn về động lực phát triển xã hội, 
luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát 
triển xã hội. Tuy nhiên, con người phải được đặt ở vị trí 
trung tâm trong giải quyết các nhân tố: kết hợp hài hòa 
các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; 
phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; 
phát huy nhân tố con người; đổi mới tư duy, đổi mới tổ 
chức, cơ chế, chính sách.. tạo thành động lực tổng hợp 
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước 
ta hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Quan điểm của Đảng về động lực phát triển đất 
nước qua các kì đại hội từ năm 1986 đến nay 
Trong lĩnh vực xã hội, động lực là nhân tố thúc đẩy 
con người (cá nhân, tập thể) hành động. Thiếu động lực, 
con người sẽ trở thành trì trệ, kém năng động, hiệu quả 
hoạt động thấp. Động lực phát triển xã hội là những 
nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển trong một thời kì nhất 
định, có động lực diễn ra trong một thời gian tương đối 
dài (đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai 
cấp) nhưng cũng có những động lực chỉ diễn ra trong 
thời gian ngắn (thí dụ nhu cầu giành độc lập dân tộc). 
Nhận thức động lực phát triển xã hội phải căn cứ vào 
các điều kiện cụ thể, khách quan; việc xác định đúng 
động lực là cơ sở khoa học để giai cấp cầm quyền chủ 
động tạo ra các nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững 
của đất nước. 
Trước đổi mới, Đảng ta nhận thức động lực chủ yếu 
của sự phát triển đất nước là đấu tranh giai cấp. Xác định 
động lực như vậy là đúng với thời kì cách mạng dân tộc 
dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, khi điều kiện đất nước đã 
thay đổi, thì nhận thức như vậy chưa thật phù hợp, dẫn 
đến những sai lầm, kìm hãm sự phát triển đất nước. 
Trong thời kì đổi mới, Đảng ta đã có những nhận thức 
mới và xác định rõ quan điểm về những động lực phát 
triển đất nước. Bước vào thời kì đổi mới toàn diện đất 
nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đánh 
dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy lí luận của 
Đảng. Một trong những tư tưởng lớn bao trùm và xuyên 
suốt đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là tư tưởng 
Giải phóng sức sản xuất, giải phóng ý thức, tinh thần và 
mọi tiềm năng của xã hội để đổi mới toàn diện trên các 
lĩnh vực của đời sống gắn liền với cuộc vận động dân chủ 
hóa xã hội. 
Để thực hiện sự giải phóng ấy, Đảng đã nhấn mạnh tới 
lợi ích kinh tế, vật chất của cá nhân người lao động, đặc 
biệt lợi ích của nông dân và hộ nông dân trong lĩnh vực 
kinh tế nông nghiệp trên địa bàn nông thôn với quan điểm: 
“phải đổi mới cơ chế quản lí kinh tế với nội dung chủ yếu 
là xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, sửa đổi các chính 
sách đòn bẩy kinh tế, hình thành cơ chế kế hoạch hóa theo 
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đúng 
nguyên tắc tập trung dân chủ” [1; tr 61], tạo ra động lực 
mới để phát triển đất nước. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 5-9 
6 
Như vậy, có thể xem đây là sự khởi đầu của bước 
chuyển từ tư duy kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa tập trung 
quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa, thị trường và 
dân chủ hóa, chú trọng vào những đòn bẩy kinh tế để kích 
thích tính tích cực, chủ động của người lao động, sản xuất 
kinh doanh. Tư tưởng ấy thể hiện quan điểm thực tiễn - 
đời sống, coi trọng những tiền đề hiện thực để đi tới xã 
hội chủ nghĩa, mà mọi tiền đề đều xuất phát từ người lao 
động, nhằm đảm bảo đời sống và sự tồn tại hiện thực của 
mỗi người bằng những nhu cầu, lợi ích thường nhật hằng 
ngày. Đổi mới như một đường lối chiến lược của phát 
triển, sở dĩ nhanh chóng đi vào cuộc sống bởi nó đáp ứng 
đúng những nguyện vọng bức xúc, những đòi hỏi chính 
đáng của mọi người dân và mọi tầng lớp nhân dân, tạo 
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển đất nước. 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã 
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện quan trọng 
này, câu trả lời “chủ nghĩa xã hội là gì?”, “xã hội xã hội 
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội như thế 
nào?” đã lần đầu tiên được đề cập tới một cách có hệ 
thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của 
xã hội chủ nghĩa và 7 phương hướng xây dựng chủ nghĩa 
xã hội ở nước ta. 
Sáu đặc trưng đó chính là dấu hiệu (đặc điểm, tiêu 
chí) nhận biết bản chất - mục tiêu - động lực của chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng ta nêu ra, xuất phát từ 
thực tiễn đổi mới. Nhận thức 6 đặc trưng này trước hết là 
nhận thức được những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa 
xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên tính định 
hướng, tức là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới, 
nhưng đồng thời cũng là động lực và các nhân tố động 
lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội 
ở nước ta thông qua các đặc trưng, hoặc trực tiếp hoặc 
gián tiếp. Trong đó Đại hội nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội 
chủ nghĩa vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của 
công cuộc đổi mới xã hội ở nước ta” [2; tr 125]. 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đưa đất 
nước ta tiến vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 
Trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra một 
trong những nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công 
của Đảng trong hoạch định và thực hiện đường lối đổi 
mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của 
nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của 
Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, 
dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách 
mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay” 
[1; tr 460]. 
Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH, xây 
dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật 
chất - kĩ thuật hiện đại, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định 
quan điểm của Đại hội VII và bổ sung“khoa học và công 
nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [1; 
tr 741]. Quan điểm này một lần nữa được Đảng ta nhấn 
mạnh tại Đại hội lần thứ IX: “phát triển khoa học và công 
nghệ cùng với phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách 
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước” [1; tr 657]; “xây dựng nền 
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu 
vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội” [1; tr 659]. Tuy 
nhiên “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại 
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân 
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài 
hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi 
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của 
xã hội” [3; tr 122]. 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) tổng kết 
20 năm đổi mới, rút ra những bài học lớn, trong đó “phát 
huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, 
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong 
điều kiện mới” [4; tr 19], là một bài học quan trọng. Đồng 
thời, Đảng ta chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng 
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và 
đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối 
chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn 
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa 
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4; tr 40-41]. Quan điểm 
này được tiếp tục khẳng định ở Đại hội XI (2011): “Đại 
đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng 
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là 
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [5; tr 48]. Trong đó, 
lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc 
lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để 
tập hợp đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng 
cường đồng thuận xã hội. 
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016), trên 
cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh 
nghiệm của 30 năm đổi mới. Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục đổi 
mới tư duy, hoàn thiện cơ chế chính sách, tháo gỡ kịp 
thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm 
năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho 
sự phát triển nhanh và bền vững. Nhận thức đúng và xử 
lí tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới 
và hội nhập” [6; tr 76]. 
Như vậy, động lực phát triển đất nước ở Đại hội XII 
được tiếp cận một cách toàn diện và hệ thống hơn. Động 
lực phát triển xã hội của nước ta hiện nay thể hiện trên 
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Mỗi 
động lực có vị trí và vai trò độc lập tương đối, tạo thành 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 5-9 
7 
một tổng hợp lực thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và 
bền vững trong giai đoạn hiện nay. 
2.2. Vị trí, vai trò của các động lực thúc đẩy sự nghiệp 
đổi mới và hội nhập ở Việt Nam hiện nay 
Động lực phát triển xã hội là những nhân tố thúc đẩy 
xã hội phát triển trong một thời kì nhất định. Động lực có 
nhiều loại: trực tiếp, gián tiếp, chủ yếu, thứ yếu, bên 
trong, bên ngoài. Từng giai đoạn cụ thể, mỗi động lực có 
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội. 
Ở Việt Nam hiện nay, các nhân tố tạo thành động lực 
tổng hợp cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước 
bao gồm:“kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu 
nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại 
đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người...” 
[6; tr 76], mỗi nhân tố có một vị trí, vai trò khác nhau, 
cần được nhận thức đúng và phát huy hiệu quả. Cụ thể: 
- Động lực lợi ích. Vấn đề lợi ích với tư cách là tiêu điểm 
cơ bản nhất, then chốt nhất, quyết định nhất trong mọi mối 
quan hệ giai cấp, dân tộc, tôn giáo, quốc gia và quốc tế, làm 
thước đo hiệu quả việc thực hiện chiến lược Đại đoàn kết, 
trực tiếp tạo động lực cho đổi mới và hội nhập. 
Sự phát triển của xã hội là kết quả của những hoạt động 
có ý thức của con người đang theo đuổi những lợi ích nhất 
định. Theo đó, lợi ích là một động lực giữ vai trò đặc biệt 
quan trọng trong hoạt động của con người và trong sự phát 
triển xã hội. Lợi ích bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích 
tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi ích cá nhân 
và lợi ích tập thể... Lợi ích riêng, lợi ích vật chất là động lực 
trực tiếp cho mọi hoạt động của con người. 
Con người ở bất kì thời đại nào cũng hoạt động trước 
hết cho lợi ích của bản thân mình. Lợi ích cá nhân đóng 
vai trò trực tiếp, cơ sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt 
động tích cực của con người; là nhân tố quyết định trước 
hết, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội. Lợi ích chung 
của xã hội được thực hiện thông qua lợi ích của mỗi cá 
nhân, cộng đồng cụ thể, có ý nghĩa hướng vào giải quyết 
những nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp lại thành 
cộng đồng xã hội, đóng vai trò là điều kiện và định hướng 
cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. 
Vì thế, hiện nay để tạo động lực cho sự phát triển đất 
nước, cần phải có cơ chế và chính sách giải quyết tốt mối 
quan hệ lợi ích. Kết hợp hài hòa lợi ích chung và lợi ích 
riêng, lợi ích cá nhân, tập thể và Nhà nước ...; quan tâm 
lợi ích thiết thân của người lao động; bảo đảm lợi ích và 
phương thức thực hiện lợi ích công bằng, hợp lí cho mọi 
người, cho chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế. Đồng thời, kiên 
quyết đấu tranh chống các lợi ích bất chính, phi pháp, “lợi 
ích nhóm”. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có những 
chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp trong giải 
quyết vấn đề lợi ích. Điều 32, Hiến pháp 2013 quy định: 
“Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của 
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, 
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức 
kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế 
được pháp luật bảo hộ” [7; tr 20]. Nghị quyết Đại hội XII 
của Đảng chỉ rõ: “giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa 
các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao 
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ 
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của 
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân” [6; tr 153]. Đồng 
thời “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên 
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, bình 
đẳng cùng có lợi” trong quan hệ quốc tế. 
Với quan điểm trên, Đảng ta đã giải quyết mối quan 
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội, giữa 
lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa quốc gia và quốc tế 
một cách phù hợp, đúng mức và cần thiết. 
- Động lực dân chủ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được 
coi là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, 
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ là một động lực to 
lớn, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ cá nhân và cộng đồng. 
Điều đó thể hiện ở chỗ: thứ nhất, nhân dân lao động được 
làm chủ, phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của mình 
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; thứ 
hai, sức lao động được giải phóng, mọi tiềm năng của đất 
nước được phát huy, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn 
cho sự phát triển đất nước. 
Thực hiện dân chủ phải bảo đảm tốt các quyền con 
người, quyền công dân được ghi trong Hiến pháp năm 
2013; đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong toàn xã hội, 
trước hết là dân chủ trong Đảng; dân chủ phải gắn với kỉ 
luật, kỉ cương, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật; 
“Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên 
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm nhân 
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra 
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân 
dân” [6; tr 38]. Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, 
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [6; tr 39]. 
- Động lực lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Lòng 
yêu nước, tinh thần dân tộc là một giá trị bền vững, là 
nhân tố quan trọng hàng đầu tác động sâu sắc đến đời 
sống văn hóa tinh thần và đã trở thành truyền thống, bản 
lĩnh Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát 
triển của dân tộc qua các thời kì lịch sử; là cơ sở vững 
chắc gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức 
mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 5-9 
8 
Sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc nếu 
được nhân lên trong giai đoạn hiện nay, sẽ giúp thực lực 
quốc gia Việt Nam mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực: + Về 
chính trị, yêu nước giúp toàn dân xây dựng khối đại đoàn 
kết để phát triển đất nước; sẵn sàng đương đầu mọi khó 
khăn, thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài..; + Về kinh 
tế, yêu nước gắn với yêu đồng bào là phấn đấu phát triển 
kinh tế vì lợi ích cộng đồng, quốc gia; ưu tiên dùng hàng 
Việt Nam cũng là thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát 
triển..; + Về văn hóa, đó là bảo tồn và phát huy bản sắc 
văn hóa dân tộc; là sống nghĩa tình với nhau, xứng với 
hai chữ “đồng bào”; tiếp thu một cách chủ động và lành 
mạnh các giá trị văn hóa của nhân loại,..; + Về đối ngoại, 
tinh thần yêu nước góp phần nâng cao vị thế Việt Nam 
trên trường quốc tế.. Trong Báo cáo tổng kết 30 năm đổi 
mới Đảng ta đã chỉ rõ: “Hơn bao giờ hết, phải phát huy 
cao độ lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, nêu 
cao ý chí và bản lĩnh dân tộc, giữ vững độc lập, chủ 
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đoàn kết toàn 
Đảng, toàn dân vì sự phát triển đất nước” [8; tr 22]. 
- Động lực sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Phát huy 
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động viên đến mức 
cao nhất sức mạnh của tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân 
tộc, tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, người trong Đảng 
và người ngoài Đảng, đồng bào trong nước và người Việt 
Nam ở nước ngoài để xây dựng và phát triển đất nước. 
Đại đoàn kết toàn dân tộc được coi là động lực chủ yếu 
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân 
dân, sức mạnh của nhân dân được nâng lên khi được quy 
tụ, tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, sự nỗ lực của mỗi 
thành viên hướng vào cùng một mục tiêu. 
“Mẫu số chung” quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn 
dân tộc hiện nay là nhằm hướng tới độc lập dân tộc và 
chủ nghĩa xã hội. Cái đứng trên tất cả các giai cấp, tầng 
lớp, gia đình, cá nhân là nền độc lập, tự do của Tổ quốc 
gắn chặt với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo 
vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giải quyết một 
cách hài hoà quan hệ giữa nước ta với các nước theo tinh 
thần tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào 
công việc nội bộ của nhau, các bên cùng có lợi, “không 
gây thù oán với một ai”, như Bác Hồ chỉ rõ. Tất cả phải 
vì sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đó 
chính là hình thức mới, là nội dung và tính chất của cuộc 
đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay. Nói khái quát, thực 
hiện đại đoàn kết hiện nay chính là sự tập hợp và giải 
quyết thành công mọi nhân tố với mọi mối quan hệ khác 
nhau trong sự thống nhất, quy tụ tất cả các lợi ích khác 
nhau bằng sự tương đồng để đưa đất nước phát triển 
đúng hướng xã hội chủ nghĩa nhanh, mạnh và bền 
vững. Sự thống nhất đó là nền độc lập tự do của dân tộc; 
điểm tương đồng đó, là sinh mệnh của chủ nghĩa xã hội. 
Vì thế, Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: cơ sở để 
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vì “mục tiêu 
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống 
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng sự 
khác biệt không trái với lợi ích quốc gia - dân tộc” [6; tr 
158]. Đồng thời “giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa 
các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp chính đáng của nhân dân” [6; tr 159]. 
- Động lực văn hóa mà trung tâm, cốt lõi là phát huy 
nhân tố con người. Con người có trí tuệ, năng lực, sáng 
tạo, có phẩm chất đạo đức, nhân cách, trung thực nhân ái. 
Đây là cốt văn hóa, tạo ra động lực nội sinh quan trọng của 
quá trình phát triển. Văn hóa là động lực phát triển xã hội 
vì: một mặt, văn hóa liên quan đến phát triển con người, 
môi trường xã hội. Một đất nước không thể phát triển bền 
vững nếu những con người, cộng đồng xã hội thiếu văn 
hóa (học vấn, nhân cách, lối sống... phù hợp với chuẩn 
mực của xã hội, thời đại). Mặt khác, văn hóa là sự phản 
ánh, kết tinh truyền thống dân tộc, chiều dài lịch sử: “Văn 
hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng 
tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của 
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và 
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới.. Văn 
hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh 
Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” [9; tr 
40] . Văn hóa ngày nay còn là một lĩnh vực của kinh tế, 
phát triển văn hóa, công nghiệp văn hóa là một ngành sản 
xuất mang lại lợi nhuận cao. Suy đến cùng, mọi sự phát 
triển đều phải hướng đến cá nhân và cộng đồng với những 
chuẩn mực nhân văn, tiến bộ (con người, xã hội văn hóa). 
Do đó, Đại hội XII Đảng ta nhấn mạnh “Xây dựng nền văn 
hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng 
đến chân - thiện - mĩ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân 
văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền 
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh 
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh” [6; tr 126]. 
- Tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, cơ chế, 
chính sách, tạo môi trường thuận lợi, quản lí KT-XH một 
cách khoa học, minh bạch và đề cao trách nhiệm giải 
trình, để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Kịp thời 
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi 
tiềm năng của đất nước, xóa bỏ các rào cản, cơ chế kìm 
hãm sản xuất kinh doanh để huy động các nguồn lực vật 
chất, tinh thần trong nhân dân. Tinh thần đổi mới và phát 
triển được Đại hội XII đề cập với quan điểm: xây dựng 
một nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước kiến 
tạo và phát triển, một nhà nước phục vụ, “Mọi đường lối 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 426 (Kì 2 - 3/2018), tr 5-9 
9 
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà 
nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích 
chính đáng của người dân...” [6; tr 169]. 
Các động lực trên tạo thành một hệ động lực tổng 
hợp tác động lẫn nhau, thúc đẩy tiến trình đổi mới và 
hội nhập quốc tế của đất nước, trong đó, đổi mới và hội 
nhập quốc tế là động lực tổng quát thúc đẩy sự phát 
triển đất nước nhanh và bền vững hiện nay. 
3. Kết luận 
Như vậy, nhận thức đúng động lực để phát triển đất 
nước luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc 
biệt trong thời kì đổi mới toàn diện đất nước. Đảng ta 
ngày càng nhận thức đúng các nhân tố động lực, tạo 
thành động lực tổng hợp cho sự phát triển đất nước, nhằm 
hướng tới xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, 
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005). Văn kiện Đại hội 
Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NXB 
Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ VII. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[7] Quốc hội (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành trung 
ương Đảng, Ban chỉ đạo tổng kết (2016). Báo cáo 
tổng kết một vấn đề lí luận - thực tiễn qua 30 năm đổi 
mới (1986-2016). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Văn kiện Hội nghị 
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. 
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[10] Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí 
Minh (2011). Quá trình đổi mới tư duy lí luận của 
Đảng từ năm 1986 đến nay. NXB Chính trị Quốc gia 
- Sự thật. 
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA 
(Tiếp theo trang 62) 
hướng đến triết lí ĐG như là hoạt động học, xác định mục 
tiêu KT, ĐG không chỉ ở lĩnh vực kĩ năng mà còn KT, ĐG 
cả lĩnh vực tình cảm - thái độ và hoàn thiện hình thức ĐG 
quá trình, kết hợp ĐG truyền thống và ĐG năng lực. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-
NĐ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản toàn diện 
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 
[2] Pinar W. F - Reynolds, W. M. - Slattery, P. - Taubman, 
P. M. (1995). Understanding curriculum: An 
introduction to the study of historical and contemporary 
curriculum discourses. New York: Peter Lang. 
[3] Airasian, P. W. (1999). Assessment in the Classroom: A 
Concise Approach. Pearson College Division Publisher. 
[4] Linn, R. L. - Miller, M. D. (2005). Measurement and 
assessment in teaching (9th ed.) UpperSaddle River, NJ: 
Prentice Hall. 
[5] Stassen, L.A.S - Doherty, K. - Poe, M. (2001). COURSE-
Based Review and assessment - methods for 
understanding student learning. University of 
Massachusetts Amherst. Massachusetts. 
[6] Lloyd-Jones, R. - Bray, E. (1986). Assessment: From 
Principles to Action. Macmillan, London. 
[7] Statterly, D. (1989). Assessment in Schools. Basil 
Blackwell, Oxford. 
[8] Nguyễn Công Khanh - Nguyễn Vũ Bích Hiền (2014). Tài 
liệu kiểm tra, đánh giá trong giáo dục. Cục nhà giáo và 
cán bộ quản lí cơ sở giáo dục, Hà Nội. 
[9] Earl, Lorna M. (2006). Rethinking classroom assessment 
with purpose in mind: Assessment for learning, 
assessment as learning, assessment of learning. School 
Programs Division. Government of Manitoba. 
[10] Trần Thị Mai Hanh (2017). Đổi mới kiểm tra, đánh giá 
kết quả học tập trong đào tạo từ xa theo hướng tiếp cận 
năng lực. Tạp chí Giáo dục, số 413, tr 15-17. 
[11] Nguyễn Đức Chính (2010). Đánh giá thực kết quả học 
tập trong giáo dục đại học và đào tạo nguồn nhân lực. 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[12] Falchikov, N. (2004). Improving assessment through 
student involvement: Practical solutions for higher and 
further education teaching and learning. London: 
Routledge. 
[13] Nguyễn Thanh Sơn (2015). Đổi mới kiểm tra, đánh giá 
kết quả học tập của sinh viên theo hướng tiếp cận năng 
lực nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra. Trường Đại học Yersin 
Đà Lạt.

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_dang_ve_dong_luc_phat_trien_dat_nuoc_thoi_ki_d.pdf