Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - Xã hội

Sự khác biệt thực chất giữa quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội với quan

điểm của các nhà triết học trước C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là ở chỗ, lần đầu tiên C.Mác

giải thích trên quan điểm duy vật biện chứng về quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan

hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng

tầng. Khi phân kỳ các hình thái kinh tế - xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao, C.Mác dựa vào các loại

phương thức sản xuất; cách phân kỳ đó coi lịch sử là một quá trình tự nhiên. Khi tiên đoán về xã

hội tương lai, tuy C.Mác chưa chỉ rõ tính đặc thù về trình độ của lực lượng sản xuất trong chủ

nghĩa xã hội, nhưng ông cho rằng lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội phải cao hơn lực lượng

sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là quan điểm

khoa học.

pdf 9 trang kimcuc 5560
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - Xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - Xã hội

Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - Xã hội
 3 
Quan điểm của C.Mác 
về hình thái kinh tế - xã hội 
Nguyễn Ngọc Hà1, Trịnh Thị Hằng2 
1 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: nguyenngocha08@gmail.com 
2
 Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: diemhang2712@yahoo.com 
Nhận ngày 27 tháng 12 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 1 năm 2019. 
Tóm tắt: Sự khác biệt thực chất giữa quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội với quan 
điểm của các nhà triết học trước C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là ở chỗ, lần đầu tiên C.Mác 
giải thích trên quan điểm duy vật biện chứng về quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan 
hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng 
tầng. Khi phân kỳ các hình thái kinh tế - xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao, C.Mác dựa vào các loại 
phương thức sản xuất; cách phân kỳ đó coi lịch sử là một quá trình tự nhiên. Khi tiên đoán về xã 
hội tương lai, tuy C.Mác chưa chỉ rõ tính đặc thù về trình độ của lực lượng sản xuất trong chủ 
nghĩa xã hội, nhưng ông cho rằng lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội phải cao hơn lực lượng 
sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là quan điểm 
khoa học. 
Từ khóa: C.Mác, hình thái kinh tế - xã hội, phân kỳ lịch sử, lực lượng sản xuất. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: The essential difference between K.Marx's view of socio-economic formations and 
those of philosophers before him is that, he was the first to base on the perspective of dialectical 
materialism to explain the relationship between social being and social consciousness, the 
relationship between productive forces and production relations, and the relationship between 
infrastructure and superstructure. When dividing the periods of socio-economic formations in the 
order from low to high, K.Marx based on types of mode of production. The way of division 
regards history a natural process. When predicting the future society, although K.Marx did not 
specify the specificity of the level of productive forces in socialism, he said that the forces in 
socialism must be higher than those in capitalism. The view of K.Marx on socio-economic 
formations is a scientific one. 
Keywords: K.Marx, socio-economic formations, division of periods of history, productive forces. 
Subject classification: Philosophy 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
4 
1. Mở đầu 
Từ cuối những năm 1970, thế giới diễn ra 
nhiều sự kiện mới. Trong đó, các sự kiện 
nổi bật là sự cải cách (cải tổ, đổi mới) ở hầu 
hết các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng 
sản mất vai trò cầm quyền ở Liên Xô và các 
nước Đông Âu, thành tựu mới của cách 
mạng công nghiệp (cách mạng công nghiệp 
lần thứ tư), sự gia tăng của xu thế toàn cầu 
hóa, tính phức tạp mới trong quan hệ quốc 
tế. Những thay đổi đó đòi hỏi phải nhận 
thức sâu sắc hơn các vấn đề triết học mà 
trước đó nhiều người tưởng rằng đã được 
giải đáp thỏa đáng bởi chủ nghĩa Mác - 
Lênin. Quan điểm (hay học thuyết) của 
C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội (thường 
được gọi tắt là học thuyết hình thái kinh tế - 
xã hội) là cơ sở lý luận khoa học cho việc 
nhận thức các xã hội cụ thể, cho việc nhận 
thức về tính chất thời đại ngày nay và cho 
việc hoạch định chính sách và pháp luật của 
nhà nước. Tuy nhiên, quan điểm của C.Mác 
về hình thái kinh tế - xã hội cũng cần được 
nhận thức chính xác hơn, đồng thời cần 
được bổ sung và phát triển. Vậy, có những 
vấn đề nào liên quan đến hình thái kinh tế - 
xã hội mà C.Mác chưa lý giải hoặc lý giải 
chưa đầy đủ, và do đó cần được lý giải đầy 
đủ hơn? Vấn đề này đã được đề cập trong 
nhiều công trình. Bài viết này đề cập đến 3 
vấn đề: thực chất quan điểm của C.Mác về 
hình thái kinh tế - xã hội, quan điểm của 
C.Mác về thứ tự các hình thái kinh tế - xã 
hội, quan điểm của C.Mác về trình độ của 
lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội. 
2. Thực chất quan điểm của C.Mác về 
hình thái kinh tế - xã hội 
Trước khi đánh giá, nhận xét, bổ sung và 
phát triển quan điểm của C.Mác về hình 
thái kinh tế - xã hội, chúng ta cần hiểu đúng 
thực chất quan điểm của C.Mác về hình thái 
kinh tế - xã hội. Để xác định đúng thực chất 
quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - 
xã hội, thì cần làm rõ sự khác nhau giữa 
quan điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - 
xã hội với quan điểm của các nhà triết học 
xã hội trước đó về hình thái kinh tế - xã hội. 
Đối tượng nghiên cứu của C.Mác với tính 
cách nhà triết học xã hội và đối tượng 
nghiên cứu của các nhà triết học xã hội trước 
đó là giống nhau, đều là hình thái kinh tế - 
xã hội. Nhưng, quan điểm của C.Mác về đối 
tượng nghiên cứu này khác với quan điểm 
của các nhà triết học xã hội trước đó cũng về 
đối tượng nghiên cứu ấy. Mặc dù C.Mác là 
người lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ "hình 
thái kinh tế - xã hội”, nhưng ông không phải 
là người đầu tiên đưa ra quan điểm về đối 
tượng được gọi là hình thái kinh tế - xã hội. 
Khi nghiên cứu về xã hội, người nghiên cứu 
(dù sử dụng hay không sử dụng thuật ngữ 
hình thái kinh tế - xã hội) cũng phải đưa ra 
một quan điểm nào đó về đối tượng được gọi 
là hình thái kinh tế - xã hội. 
Khi nghiên cứu xã hội, các nhà nghiên 
cứu đều thấy rằng, ở bất kỳ một xã hội cụ 
thể nào cũng có hai quan hệ, đó là quan hệ 
giữa người với tự nhiên và quan hệ giữa 
người với người. Nói đến quan hệ giữa 
người với tự nhiên là nói đến năng lực 
chinh phục tự nhiên của con người. Năng 
lực chinh phục tự nhiên của con người được 
thể hiện ở sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. 
Trong lực lượng sản xuất, con người là yếu 
tố quyết định. Tuy nhiên, để xác định mức 
độ tiến bộ của lực lượng sản xuất thì chúng 
ta cần căn cứ vào sự tiến bộ của công cụ sản 
xuất (công cụ lao động); bởi vì sự tiến bộ 
của công cụ sản xuất là biểu hiện của năng 
lực chinh phục tự nhiên bởi con người. 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
5 
Công cụ sản xuất càng phát triển thì con 
người càng làm chủ tự nhiên; ngược lại, con 
người càng làm chủ tự nhiên thì công cụ 
sản xuất càng phát triển. Nói đến quan hệ 
giữa người với người là nói đến ba quan hệ: 
quan hệ giữa người với người về kinh tế 
(tức là quan hệ giữa người với người trong 
sản xuất, hay là quan hệ sản xuất, hoặc là 
quan hệ kinh tế), quan hệ giữa người với 
người về chính trị (tức là quan hệ chính trị), 
quan hệ giữa người với người về xã hội (tức 
là quan hệ xã hội). Lực lượng sản xuất, 
quan hệ giữa người với người về kinh tế, 
quan hệ giữa người với người về chính trị, 
quan hệ giữa người với người về xã hội là 4 
yếu tố cơ bản của xã hội, bốn yếu tố này có 
ảnh hưởng qua lại với nhau. Mỗi hình thái 
kinh tế - xã hội (hay mỗi hình thái của xã 
hội) là một giai đoạn xác định trong lịch sử; 
có 3 bộ phận gồm lực lượng sản xuất, quan 
hệ giữa người với người về kinh tế, quan hệ 
giữa người với người về xã hội. Ở một số 
hình thái kinh tế - xã hội còn có thêm quan 
hệ giữa người với người về chính trị. Khi 
nghiên cứu xã hội, vấn đề đặt ra không phải 
là xác định tên gọi của 4 bộ phận nói trên 
của xã hội, mà là xác định quan hệ giữa các 
bộ phận đó. 
Vấn đề xác định quan hệ giữa 4 bộ phận 
(yếu tố) của xã hội đã được C.Mác lý giải 
theo quan điểm mới so với các nhà triết học 
xã hội trước đó. Theo C.Mác, lực lượng sản 
xuất phát triển một cách tự nhiên và tuần tự 
từ thấp đến cao; sự thay đổi của lực lượng 
sản xuất sẽ kéo theo sự thay đổi của quan 
hệ sản xuất; sự thay đổi của quan hệ sản 
xuất sẽ kéo theo sự thay đổi của quan hệ 
chính trị và quan hệ xã hội. Nói cách khác, 
theo C.Mác, sự thay đổi của quan hệ chính 
trị và quan hệ xã hội có nhiều nguyên nhân, 
trong đó nguyên nhân suy cho cùng là sự 
thay đổi của quan hệ sản xuất; sự thay đổi 
của quan hệ sản xuất có nhiều nguyên nhân, 
trong đó nguyên nhân suy cho cùng là sự 
thay đổi của lực lượng sản xuất. Sự phát 
triển của lực lượng sản xuất là một quá 
trình lịch sử - tự nhiên; từ đó sự thay thế 
các hình thái kinh tế - xã hội cũng là một 
quá trình lịch sử - tự nhiên. 
Quan điểm trên đây của C.Mác về hình 
thái kinh tế - xã hội là đúng đắn và có tính 
cách mạng; bởi vì các nhà nghiên cứu xã hội 
trước đó không cho rằng, nguyên nhân suy 
cho cùng gây ra sự thay đổi của các quan hệ 
giữa người với người là sự thay đổi của lực 
lượng sản xuất, từ đó họ không cho rằng sự 
thay thế các hình thái kinh tế - xã hội là một 
quá trình lịch sử - tự nhiên. 
Một số người tuy đồng ý với quan điểm 
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội, 
nhưng khi chú giải quan điểm của C.Mác 
về hình thái kinh tế - xã hội lại sa đà vào 
việc giải thích thuật ngữ “hình thái kinh tế - 
xã hội”, mà không chú trọng giải thích thực 
chất cách mạng trong quan điểm của ông. 
Thực chất cách mạng trong quan điểm của 
C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội không 
phải là việc đề xuất mới các thuật ngữ như 
hình thái kinh tế - xã hội, lực lượng sản 
xuất, phương thức sản xuất, quan hệ sản 
xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, 
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mà là sự giải 
thích mới (trên quan điểm duy vật biện 
chứng) về quan hệ giữa lực lượng sản xuất 
với quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế với 
quan hệ chính trị và quan hệ xã hội, quan hệ 
giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Các 
nhà triết học trước C.Mác giải thích các 
quan hệ đó trên quan điểm duy tâm siêu 
hình, còn C.Mác giải thích chúng trên quan 
điểm duy vật biện chứng. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
6 
3. Quan điểm của C.Mác về thứ tự các 
hình thái kinh tế - xã hội 
Lịch sử của xã hội loài người từ trước đến 
nay (từ khi loài người hình thành cách đây 
hàng chục vạn năm), tuy có lúc suy thoái, 
nhưng nhìn chung là phát triển. Phân kỳ các 
giai đoạn lịch sử là phân kỳ các giai đoạn 
phát triển tất yếu của xã hội. Vậy, lịch sử 
của xã hội cần được phân kỳ như thế nào 
theo trình tự từ thấp đến cao? 
Theo các sách giáo khoa triết học mác-
xít ở Việt Nam hiện nay, lịch sử xã hội loài 
người đã có 4 hình thái kinh tế - xã hội 
(gồm: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản 
chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội chiếm 
hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong 
kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ 
nghĩa), và nhất định sẽ có hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ trải qua hai 
giai đoạn từ trình độ thấp lên trình độ cao 
hơn. Giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản chủ nghĩa (hay giai đoạn 
đầu của xã hội cộng sản) là chủ nghĩa xã 
hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa). Giữa xã 
hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ 
nghĩa là một thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ 
quá độ, nhà nước tư sản bị thay bằng nhà 
nước vô sản; nhà nước vô sản sẽ xóa bỏ chế 
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ cả giai 
cấp tư sản và giai cấp vô sản. Khi thời kỳ 
quá độ kết thúc, hình thái kinh tế - xã hội 
cộng sản chủ nghĩa sẽ hình thành. Khi hình 
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa 
hình thành, xã hội sẽ không còn giai cấp, 
không còn nhà nước, không còn chế độ tư 
hữu về tư liệu sản xuất, không còn áp bức 
và bóc lột, không còn tình trạng mất tự do. 
Cách phân kỳ của C.Mác về các giai 
đoạn phát triển của xã hội có sự khác biệt 
đôi chút so với cách phân kỳ nói trên. 
Trong Lời tựa “Góp phần phê phán khoa 
kinh tế chính trị” (viết năm 1859), C.Mác 
cho rằng: “Về đại thể, có thể coi các 
phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong 
kiến và tư sản hiện đại là những thời đại 
tiến triển dần dần của các hình thái kinh tế - 
xã hội. Các quan hệ sản xuất tư sản là hình 
thức đối kháng cuối cùng của quá trình sản 
xuất xã hội, đối kháng không theo ý nghĩa 
là đối kháng cá nhân, mà theo ý nghĩa là đối 
kháng nảy sinh từ trong những điều kiện 
sinh hoạt xã hội của các cá nhân; nhưng 
những lực lượng sản xuất phát triển trong 
xã hội tư sản đồng thời cũng tạo ra những 
điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng 
ấy. Cho nên với hình thái xã hội đó, thời kỳ 
tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc” 
[5, t.II, tr.638-639]. Vào năm 1859, C.Mác 
chỉ nói đến giai đoạn lịch sử thành văn của 
xã hội (chứ không nói đến giai đoạn lịch sử 
trước thành văn, hoặc giai đoạn lịch sử đầu 
tiên của loài người). “Hình thái kinh tế - xã 
hội” mà C.Mác nói ở đây cần được hiểu 
trước hết là hình thái kinh tế của xã hội 
(chứ không phải là hình thái chính trị của 
xã hội, cũng không phải là hình thái xã hội 
của xã hội). Tuy nhiên, hình thái kinh tế 
như thế nào thì hình thái chính trị và hình 
thái xã hội cũng sẽ như thế. Vì vậy, “hình 
thái kinh tế - xã hội” mà C.Mác nói ở đây 
cũng có thể được hiểu là hình thái của xã 
hội (gồm cả lực lượng sản xuất, quan hệ 
kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ xã hội). 
Với luận điểm trên, có thể cho rằng, C.Mác 
đã phân kỳ lịch sử thành 4 hình thái kinh tế 
- xã hội gồm: hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất Châu Á, hình 
thái kinh tế - xã hội dựa trên phương thức 
sản xuất cổ đại (phương thức sản xuất 
chiếm hữu nô lệ), hình thái kinh tế - xã hội 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
7 
dựa trên phương thức sản xuất phong kiến, 
hình thái kinh tế - xã hội dựa trên phương 
thức sản xuất tư sản hiện đại. Các hình thái 
kinh tế - xã hội này thuộc thời kỳ tiền sử 
của xã hội. Sau thời kỳ tiền sử của xã hội là 
thời kỳ văn minh của xã hội. Thời kỳ văn 
minh của xã hội là xã hội cộng sản. Như 
vậy theo C.Mác, lịch sử của xã hội loài 
người nếu tính đến cả thời kỳ ban đầu khi 
mới “thoát thai” từ động vật sẽ có 6 hình 
thái kinh tế - xã hội; đó là: hình thái kinh tế 
- xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thái 
kinh tế - xã hội dựa trên phương thức sản 
xuất Châu Á, hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất cổ đại (hình thái 
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ), hình thái 
kinh tế - xã hội dựa trên phương thức sản 
xuất phong kiến (hình thái kinh tế - xã hội 
phong kiến), hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất tư sản hiện đại 
(hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa), 
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ 
nghĩa. Cách phân kỳ lịch sử này của C.Mác 
về cơ bản phù hợp (chứ không phải hoàn 
toàn phù hợp) với cách phân kỳ của sách 
giáo khoa triết học mác-xít ở Việt Nam, vì 
C.Mác cho rằng phương thức sản xuất Châu 
Á là một loại phương thức sản xuất tồn tại 
sau phương thức sản xuất cộng sản nguyên 
thủy và trước phương thức sản xuất cổ đại. 
Ngoài hai cách phân kỳ trên đây về lịch 
sử xã hội loài người, còn có 3 cách phân kỳ 
đáng chú ý sau. Thứ nhất, lịch sử xã hội 
loài ngýời ðã trải qua 2 giai đoạn: xã hội 
tiền công nghiệp, xã hội công nghiệp. Cách 
phân kỳ này không căn cứ vào quan hệ sản 
xuất, mà căn cứ vào tính chất công nghiệp 
hay không phải công nghiệp của lực lượng 
sản xuất. Khi có phát minh ra máy hơi nước 
(năm 1780), một số nước bắt đầu chuyển từ 
xã hội tiền công nghiệp (chỉ có sản xuất 
nông nghiệp) sang xã hội công nghiệp. 
Hiện nay, nhiều nước vẫn chưa phải là nước 
công nghiệp. Thứ hai, lịch sử xã hội loài 
người đã trải qua 4 giai đoạn: xã hội không 
có giai cấp lần thứ nhất, xã hội có giai cấp, 
xã hội không có giai cấp lần thứ hai, xã hội 
có giai cấp lần thứ hai. Cách phân kỳ này 
căn cứ vào việc có hay không có giai cấp. 
Ví dụ, xã hội Nga lúc đầu là xã hội không 
có giai cấp; từ thời cổ đại đến năm 1917 là 
xã hội có giai cấp; từ năm 1917 đến năm 
1985 là xã hội không có giai cấp lần thứ 
hai; từ năm 1985 (khi diễn ra công cuộc cải 
tổ) là xã hội có giai cấp lần thứ hai. Các 
nước Anh, Pháp và nhiều nước khác đang 
là xã hội có giai cấp lần thứ nhất. Thứ ba, 
lịch sử xã hội loài người đã trải qua 4 giai 
đoạn: xã hội không có chế độ tư hữu về tư 
liệu sản xuất lần thứ nhất, xã hội có chế độ 
tư hữu về tư liệu sản xuất lần thứ nhất, xã 
hội không có chế độ tư hữu về tư liệu sản 
xuất lần thứ hai, xã hội có chế độ tư hữu về 
tư liệu sản xuất lần thứ hai. Cách phân kỳ 
này căn cứ vào việc có hay không có chế 
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, và tương ứng 
với cách phân kỳ căn cứ vào việc có hay 
không có giai cấp; bởi vì khi không có chế 
độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì cũng 
không có giai cấp. Từ năm 1917, nước 
Nga bắt đầu chuyển từ xã hội có chế độ tư 
hữu về tư liệu sản xuất lần thứ nhất sang 
xã hội không có chế độ tư hữu về tư liệu 
sản xuất lần thứ hai; từ năm 1985, nước 
Nga lại bắt đầu chuyển từ xã hội không có 
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất lần thứ 
hai sang xã hội có chế độ tư hữu về tư liệu 
sản xuất lần thứ hai. 
Trên đây là 5 cách phân kỳ lịch sử. Mỗi 
cách phân kỳ lịch sử trong 5 cách phân kỳ 
ấy đều có ý nghĩa nhất định. Ngoài 5 cách 
phân kỳ đó, chúng ta có thể phân kỳ lịch sử 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
8 
theo một số cách khác tùy theo mục đích 
nhận thức cụ thể về lịch sử. Dù áp dụng 
cách phân kỳ nào thì cũng cần quán triệt 
nguyên tắc thống nhất lịch sử và lôgíc. 
Theo nguyên tắc này, bất kỳ sự vật nào 
cũng có lịch sử, tức là có quá trình sinh 
thành, phát triển và mất đi, quá trình đó tất 
yếu phải trải qua các giai đoạn nào đó giống 
như các giai đoạn phát triển tất yếu của một 
cơ thể sinh vật. Nói cách khác, lịch sử của 
bất kỳ sự vật nào cũng diễn ra có tính lôgíc. 
Tính lôgíc của lịch sử có nghĩa rằng, lịch sử 
là sự nối tiếp tất yếu của các các giai đoạn 
khác nhau, trong đó giai đoạn sau là sự phát 
triển hơn giai đoạn trước. 
Khi xem xét cách phân kỳ của C.Mác về 
lịch sử xã hội loài người, ta cần chú ý 4 
điểm sau. Thứ nhất, xét về lịch sử, một số 
cộng đồng đã bước sang giai đoạn sau trong 
khi một số cộng đồng khác vẫn ở giai đoạn 
trước. Chẳng hạn, trên thế giới hiện nay, 
một số cộng đồng đang ở hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản nguyên thủy, hoặc đang ở 
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến; trong 
khi đó một số cộng đồng khác thì đang ở 
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; 
một số cộng đồng (như ở Châu Á) không có 
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, 
mà lại có phương thức sản xuất Châu Á và 
tương ứng có “hình thái kinh tế - xã hội dựa 
trên phương thức sản xuất Châu Á”; một số 
cộng đồng (như ở Châu Âu) không có hình 
thái kinh tế - xã hội dựa trên phương thức 
sản xuất Châu Á. Xét về lôgíc, mỗi hình 
thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn của 
lịch sử; thứ tự hình thành các hình thái kinh 
tế - xã hội nhìn chung là từ hình thái kinh tế 
- xã hội cộng sản nguyên thủy (dựa trên chế 
độ công hữu về tư liệu sản xuất) đến các 
hình thái kinh tế - xã hội dựa trên chế độ tư 
hữu về tư liệu sản xuất (“hình thái kinh tế - 
xã hội dựa trên phương thức sản xuất Châu 
Á”, hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô 
lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, 
hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa tư bản); 
và sẽ đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản 
chủ nghĩa (dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất). Như vậy, thứ tự thay thế hình 
thái kinh tế - xã hội tuy là một quá trình lịch 
sử - tự nhiên nhưng không giống nhau ở các 
cộng đồng khác nhau. Quá trình lịch sử - tự 
nhiên thể hiện ở chỗ, lịch sử của mọi cộng 
đồng đều đã và sẽ phải trải qua ba giai 
đoạn: xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất (giai đoạn 1), xã hội dựa trên 
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (giai đoạn 
2), xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất (giai đoạn 3). Giai đoạn 3 là 
sự lặp lại giai đoạn 1 nhưng ở trình độ cao 
hơn. Thứ hai, không có xã hội nào là giai 
đoạn cao tột cùng. Sự phát triển của xã hội 
thể hiện trước hết và chủ yếu ở sự phát triển 
của công cụ sản xuất; công cụ sản xuất phát 
triển dần dần và tự nhiên; điều đó kéo sự 
thay thế các quan hệ xã hội ở trình độ thấp 
bằng các quan hệ xã hội ở trình độ cao hơn; 
xã hội loài người không ngừng phát triển từ 
trình độ thấp hơn đến trình độ cao hơn theo 
sự phát triển không ngừng của công cụ sản 
xuất. Tiến trình 3 giai đoạn ở trên (xã hội 
không có chế độ tư hữu  xã hội có chế độ 
tư hữu  xã hội không có chế độ tư hữu) 
chỉ là một vòng khâu trong vô số vòng 
khâu. Xã hội không có chế độ tư hữu sau 
lần phủ định thứ hai không phải là giai đoạn 
tột cùng của xã hội. Xã hội loài người có 
giai đoạn khởi đầu (xã hội không có chế độ 
tư hữu) nhưng không có giai đoạn cuối 
cùng. Có thể hình dung tiến trình phát triển 
của xã hội loài người như sau: xã hội không 
có chế độ tư hữu  xã hội có chế độ tư hữu 
 xã hội không có chế độ tư hữu  xã hội 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
9 
có chế độ tư hữu  Tiến trình này là vô 
tận. Tiến trình này là một trường hợp biểu 
hiện của quy luật phủ định của phủ định 
(được nói đến trong lôgíc học của Hêgen). 
Xóa bỏ chế độ tư hữu và phục hồi chế độ tư 
hữu là hai lần phủ định. Phục hồi chế độ tư 
hữu là phủ định của phủ định chế độ tư hữu. 
Hai lần phủ định này là hai lần thay đổi 
theo chiều hướng phát triển. Xã hội ở giai 
đoạn sau cao hơn xã hội ở giai đoạn trước; 
xã hội ở giai đoạn sau lặp lại xã hội ở chu 
kỳ trước (vì đều có hoặc không có chế độ tư 
hữu) nhưng lại cao hơn xã hội ở chu kỳ 
trước. Mọi cộng đồng (bộ tộc, dân tộc, quốc 
gia, khu vực) đều đi theo tiến trình này. 
Việc nước Nga xóa bỏ chế độ tư hữu (từ 
năm 1917) và phục hồi chế độ tư hữu (năm 
1985) là phù hợp với lôgíc trên. Không chỉ 
nước Nga mà các nước khác cũng sẽ như 
vậy. Thứ ba, lịch sử của một nước hoặc một 
khu vực cụ thể có thể bỏ qua một số giai 
đoạn trung gian nếu có sự giúp đỡ của các 
cộng đồng tiến bộ hơn. Ví dụ, một cộng 
đồng có thể chuyển từ xã hội nông nghiệp, 
bỏ qua xã hội công nghiệp bậc 1, tiến thẳng 
lên xã hội công nghiệp bậc 2; hoặc bỏ qua 
xã hội tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên xã 
hội cộng sản văn minh; thậm chí có thể từ 
xã hội cộng sản nguyên thủy tiến thẳng lên 
xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự bỏ qua đó là 
điều có thể nếu có sự giúp đỡ của các cộng 
đồng tiến bộ hơn. Thứ tư, thời kỳ quá độ từ 
hình thái kinh tế - xã hội này đến hình thái 
kinh tế - xã hội khác không phải là một 
hình thái kinh tế - xã hội, thời gian tồn tại 
của thời kỳ quá độ đó không lâu như thời 
gian tồn tại của một hình thái kinh tế - xã 
hội. C.Mác không dự đoán cụ thể về thời 
gian tồn tại của thời kỳ quá độ từ hình thái 
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình 
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Tuy nhiên, ông cũng không dự đoán nào 
cho rằng thời gian tồn tại của thời kỳ quá 
độ đó là hàng trăm năm (tức là lâu hơn cả 
thời gian tồn tại dự đoán của hình thái kinh 
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa). 
4. Quan điểm của C.Mác về trình độ của 
lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội 
C.Mác dự đoán rằng, xã hội tư bản chủ 
nghĩa nhất định sẽ mất đi, xã hội cộng sản 
nhất định sẽ hình thành. Hơn nữa, ông còn 
dự đoán rằng, có 3 giai đoạn khác nhau sau 
khi nhà nước tư sản mất đi. Đó là: thời kỳ 
quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội 
cộng sản, giai đoạn đầu của xã hội cộng sản 
(chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao của xã hội 
cộng sản. Thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản 
chủ nghĩa lên xã hội cộng sản vẫn có chế độ 
tư hữu, có kinh tế thị trường, có tình trạng 
người bóc lột người, có tồn tại hình thức 
phân phối không theo lao động, có bất 
công, có bất bình đẳng về thu nhập, có giai 
cấp, có nhà nước, có chế độ dân chủ, có sự 
cưỡng bức, có sự mất tự do. Tuy nhiên, 
trong thời kỳ quá độ, nhà nước tư sản được 
thay bằng nhà nước vô sản, chế độ dân chủ 
tư sản được thay bằng chế độ dân chủ vô 
sản, “chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ 
chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ 
hơn gấp triệu lần” [4, t.37, tr.312], giai cấp 
vô sản cưỡng bức giai cấp tư sản (chứ 
không phải giai cấp tư sản cưỡng bức giai 
cấp vô sản). 
Trong hệ thống quan điểm của C.Mác về 
hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội 
là một giai đoạn của xã hội cộng sản chủ 
nghĩa. Chủ nghĩa xã hội có chế độ công hữu 
về tư liệu sản xuất; không có nền kinh tế thị 
trường; thực hiện nguyên tắc phân phối 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
10 
theo lao động; không có tình trạng người 
bóc lột người, nhưng vẫn có tình trạng bất 
công; vẫn có tình trạng bất bình đẳng về thu 
nhập. Chủ nghĩa xã hội không có giai cấp, 
không có nhà nước, không có chế độ dân 
chủ, không có sự cưỡng bức, có tự do. Giai 
đoạn cao của xã hội cộng sản phát triển cao 
hơn chủ nghĩa xã hội về lực lượng sản xuất; 
thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu 
cầu (chứ không phải theo lao động). Chủ 
nghĩa xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư 
bản về lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội 
cũng có nền sản xuất công nghiệp như chủ 
nghĩa tư bản, nhưng nền sản xuất công 
nghiệp trong chủ nghĩa xã hội cao hơn nền 
sản xuất công nghiệp trong chủ nghĩa tư 
bản. Mặc dù cho rằng chủ nghĩa xã hội phát 
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về lực lượng 
sản xuất, nhưng C.Mác chưa chỉ ra sự khác 
biệt về trình độ giữa lực lượng sản xuất 
trong chủ nghĩa tư bản với lực lượng sản 
xuất trong chủ nghĩa xã hội; chưa chỉ ra sự 
khác biệt giữa nền sản xuất công nghiệp 
trong chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất 
công nghiệp trong chủ nghĩa xã hội. 
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã 
làm cho xã hội phong kiến mất đi và xã hội 
tư bản chủ nghĩa hình thành. Vào thời của 
C.Mác, mới chỉ có cách mạng công nghiệp 
lần thứ nhất. Cách mạng công nghiệp hiện 
nay đã là cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Vào giữa thế kỷ XX, khi Liên Xô còn là 
cường quốc, nhiều người mác-xít cho rằng, 
trình độ của nền sản xuất công nghiệp lúc 
đó (tức là sản xuất công nghiệp dựa trên 
thành tựu của cách mạng công nghiệp lần 
thứ ba) đã không tương thích với quan hệ 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cách mạng công 
nghiệp phát triển không ngừng. Tiếp theo 
cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là cách mạng 
công nghiệp 5.0, rồi cách mạng công 
nghiệp 6.0, và cứ thế mãi. Khó có thể dự 
đoán chính xác rằng đến cách mạng công 
nghiệp lần thứ bao nhiêu thì quan hệ sản 
xuất tư bản chủ nghĩa sẽ cạn kiệt sức sống, 
nhường chỗ cho quan hệ sản xuất xã hội 
chủ nghĩa. Vì vậy, nếu còn sống, C.Mác 
cũng sẽ bổ sung nhận thức mới về hình thái 
kinh tế - xã hội, theo đó quan hệ sản xuất tư 
bản chủ nghĩa có khả năng đổi mới để 
tương thích với cách mạng công nghiệp 4.0. 
5. Kết luận 
Khi nghiên cứu học thuyết đó, chúng ta cần 
chú ý đến thực chất quan điểm của C.Mác, 
chứ không phải chú ý đến các thuật ngữ 
mới được C.Mác đưa ra. Cách mà C.Mác 
phân loại phương thức sản xuất và phân kỳ 
lịch sử tương ứng với các phương thức sản 
xuất, tuy không áp dụng cho mọi cộng 
đồng, nhưng là một cách phân loại khoa 
học vì cách đó dựa trên nguyên tắc coi lịch 
sử là một quá trình tự nhiên. Mặc dù C.Mác 
chưa chỉ rõ tính đặc thù về trình độ của lực 
lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội, 
nhưng ông dự đoán rằng lực lượng sản xuất 
trong chủ nghĩa xã hội phải cao hơn lực 
lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. 
Ngày nay, với bao biến cố lịch sử, quan 
điểm của C.Mác về hình thái kinh tế - xã 
hội từ thế kỷ XXI cần phải được bổ sung và 
phát triển hơn nữa. Mặc dù vậy, quan điểm 
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn 
là quan điểm khoa học, vì về thực chất đó là 
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Bản chất 
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Nguyễn Ngọc Hà, Trịnh Thị Hằng 
11 
[2] Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ 
Sĩ Quý (Đồng chủ biên) (1997), Những 
quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen - 
V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ 
quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Chí Dũng (2015), “Học thuyết của 
C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới ánh sáng 
thời đại ngày nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt 
Nam, số 2. 
[3] Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên) (2010), Chủ 
nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của 
chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
[4] V.I.Lênin (1976 - 1981), Toàn tập, t.16, t.17, 
t.33, t.36, 37, t.39, t.42, t.43, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva. 
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1984), Tuyển tập, Gồm 
sáu tập, t.I, t.V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2001), Tiến lên 
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[7] Trần Văn Phòng (2013), “Có phải học thuyết 
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai 
lầm?”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8. 
[8] Dương Văn Thịnh (2016), “Về học thuyết hình 
thái kinh tế - xã hội của C.Mác”, Tạp chí Khoa 
học xã hội Việt Nam, số 5. 
[9] Hà Đăng (2011), Từ bỏ chủ nghĩa xã hội là 
một sai lầm lớn, 
dien-bien-hoa-binh/tu-bo-chu-nghia-xa-hoi-la-
mot-sai-lam-lon-522845, truy cập ngày 
20/12/2018 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_c_mac_ve_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi.pdf