Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng

Triết gia người Pháp Auguste Comte (1798 - 1857) là nhà sáng lập chủ nghĩa

thực chứng, đồng thời là một trong những người đặt nền móng cho ngành xã hội

học hiện đại. Cơ sở lý luận trong triết học thực chứng của Auguste Comte dựa

trên những thành tựu của các ngành khoa học cùng với thuyết “ba giai đoạn” do

ông đề xuất có ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học phương Tây thế kỷ XIX.

Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ quan điểm của ông về xã hội thực

chứng, cùng với những giá trị và hạn chế mang tính lịch sử.

pdf 13 trang kimcuc 6300
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng

Quan điểm của Auguste Comte về xã hội thực chứng
1 
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC 
QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
VỀ XÃ HỘI THỰC CHỨNG 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN* 
Triết gia người Pháp Auguste Comte (1798 - 1857) là nhà sáng lập chủ nghĩa 
thực chứng, đồng thời là một trong những người đặt nền móng cho ngành xã hội 
học hiện đại. Cơ sở lý luận trong triết học thực chứng của Auguste Comte dựa 
trên những thành tựu của các ngành khoa học cùng với thuyết “ba giai đoạn” do 
ông đề xuất có ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học phương Tây thế kỷ XIX. 
Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ quan điểm của ông về xã hội thực 
chứng, cùng với những giá trị và hạn chế mang tính lịch sử. 
Từ khóa: Auguste Comte, chủ nghĩa thực chứng, xã hội thực chứng, triết học 
phương Tây hiện đại 
Nhận bài ngày: 15/8/2019; đưa vào biên tập: 16/8/2019; phản biện: 19/8/2019; 
duyệt đăng: 4/10/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, 
Auguste Comte (1798 - 1857) là nhà 
triết học có ảnh hưởng lớn trong thế 
kỷ XIX. Ông được thừa nhận là người 
sáng lập chủ nghĩa thực chứng, đồng 
thời là một trong những người đặt nền 
móng cho ngành xã hội học hiện đại. 
Sống trong bối cảnh của nước Pháp 
sôi động bởi những phong trào cách 
mạng và sự trỗi dậy ngày càng mạnh 
mẽ của các thành tựu khoa học đóng 
vai trò quan trọng vào việc phát triển 
đời sống xã hội, A. Comte đã nỗ lực 
thống nhất các dòng chảy của tri thức 
khoa học để tìm kiếm những phương 
án nhằm tái thiết xã hội tương lai. Tinh 
thần ấy đã định hình nên một trường 
phái triết học mới, được các nhà khoa 
học và triết học kế thừa và phát triển 
tạo nên làn sóng mạnh mẽ, chi phối 
lịch sử tư tưởng Châu Âu trong suốt 
thế kỷ XIX. 
Trong sự nghiệp của mình A. Comte 
để lại nhiều tác phẩm, trong đó tiêu 
biểu nhất là hai tác phẩm Giáo trình 
triết học thực chứng (Cours De 
Philosophie Positive) gồm 6 tập, được 
*
 Trường Đại học Cần Thơ. 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
2 
xuất bản trong giai đoạn từ năm 1830 
đến 1842 và Hệ thống chính thể thực 
chứng (Système De Politique Positive) 
được xuất bản từ năm 1851 đến 1854, 
thể hiện rõ quá trình phát triển tư 
tưởng của ông. Nếu như tác phẩm 
Giáo trình triết học thực chứng là sự 
chuẩn bị về mặt lý luận triết học, thì 
tác phẩm Hệ thống chính thể thực 
chứng là sự hoàn thành chủ nghĩa 
thực chứng của ông. Trong tác phẩm 
này, ông trình bày ý tưởng về xã hội 
thực chứng. Theo đó, mô hình tổ chức 
xã hội lý tưởng của ông được phỏng 
theo mô hình tổ chức của giáo hội 
Công giáo La Mã. Theo A. Comte, 
trong chính thể này, các nhà công 
nghiệp và những người yêu nước có 
trách nhiệm đảm bảo sự thịnh vượng 
vật chất của xã hội, những người 
công nhân thể hiện những đức tính 
đạo đức vượt trội thông qua quyền lực 
hợp pháp để ngăn chặn sự lạm 
quyền, còn phụ nữ có một vai trò 
quan trọng tạo nên sự đoàn kết trong 
xã hội. Trên hết, chính thể thực chứng 
theo ông đề xuất là quản lý xã hội dựa 
trên cơ sở đạo đức của Nhân đạo 
giáo
(1)
 (Religion de L’ Humanité) – một 
hình thức tôn giáo thế tục mới do ông 
sáng lập – đề cao lòng vị tha của con 
người. 
Theo các nhà nghiên cứu, những gì 
mà A. Comte trình bày trong Hệ thống 
chính thể thực chứng là một bước thụt 
lùi về mặt tư tưởng của ông so với 
Giáo trình triết học thực chứng (M. 
Bourdeau, 2018). Thậm chí, những 
mô tả về xã hội lý tưởng của ông “khá 
buồn cười, thể hiện sự chủ quan và 
bảo thủ” (Mai Sơn, 2007: 421). Song 
công trình này lại chính là sự thể hiện 
một cách thống nhất về mặt tư tưởng 
khi ông đề ra trong Kế hoạch nghiên 
cứu khoa học để tổ chức lại xã hội 
(Plan des travaux scientifiques nécessaires 
pour réorganiser la société) được viết 
từ hơn 30 năm trước đó, vào năm 
1822. Điều đó cho thấy khát vọng mà 
A. Comte luôn hướng đến trong suốt 
cuộc đời của mình là tìm kiếm một 
chính thể xã hội phát triển hài hòa hơn. 
Những đề xuất của A. Comte về xã 
hội trong giai đoạn thực chứng có ảnh 
hưởng rất lớn trong đời sống học 
thuật và chính trị, chẳng những trong 
nội bộ Châu Âu thời bấy giờ mà cả 
đến các nước Châu Mỹ - Latinh, thậm 
chí là các nước ở Châu Á. Những học 
giả và là chính trị gia theo chủ nghĩa 
thực chứng ở các quốc gia đã tuyên 
truyền và áp dụng các giá trị tư tưởng 
của ông nhằm phát triển xã hội(2). 
Nghiên cứu này góp phần làm rõ quan 
điểm của A. Comte về xã hội thực 
chứng, đồng thời chỉ ra những giá trị 
và hạn chế của nó. 
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA 
TƢ TƢỞNG A. COMTE VỀ XÃ HỘI 
THỰC CHỨNG 
2.1. Quan điểm của A. Comte về xã 
hội thực chứng 
Trước hết cần phải thấy rằng, quy luật 
ba giai đoạn phát triển gắn kết chặt 
chẽ với khát vọng tái thiết trật tự xã 
hội của A. Comte, điều mà bất kỳ một 
nhà tư tưởng nào sống trong xã hội 
đầy loạn lạc đều hướng đến. Nó như 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
3 
là một minh chứng cho sự tồn tại hợp 
lý của xã hội thực chứng mà ông đề 
xướng. Ông cho rằng, tư tưởng nhân 
loại phát triển qua 3 giai đoạn từ thần 
học, siêu hình đến thực chứng là một 
quy luật, do đó ông gọi nó là quy luật 
về 3 giai đoạn (Loi des trois états). Để 
chứng minh cho sự tồn tại của quy 
luật này, trong Giáo trình triết học thực 
chứng, ông đã chỉ ra sự hiện diện của 
quy luật này trong từng cá nhân cho 
đến cộng đồng và trong hầu khắp mọi 
lĩnh vực của tri thức con người, trong 
mỗi ngành khoa học, kể cả triết học, 
thậm chí nó “cũng ứng nghiệm cả 
trong lĩnh vực chính trị” (S.E. Stumpt, 
2004: 288). 
Theo A. Comte, lịch sử nhân loại thời 
cổ đại và trung cổ thuộc giai đoạn 
thần học, thời kỳ Khai sáng thuộc giai 
đoạn siêu hình, còn thời đại của ông 
(cuối thế kỷ XVIII - XIX) chính là sự 
khởi đầu của giai đoạn thực chứng. 
Mỗi giai đoạn có liên quan đến một 
hình thức tồn tại riêng biệt của một 
chế độ chính trị, xã hội. Giai đoạn thần 
học liên quan đến niềm tin vào thẩm 
quyền tuyệt đối và quyền thần thánh 
của vua chúa với một trật tự xã hội 
quân phiệt. Trong giai đoạn siêu hình, 
chế độ cũ bị chỉ trích là cực đoan, 
niềm tin vào quyền tự nhiên và quyền 
tự do cá nhân, quyền của các vua 
chúa và các linh mục được thay thế 
bằng sự cai trị của pháp luật và tương 
ứng với nó là các thiết chế chính trị 
thời Khai sáng ở Châu Âu từ thế kỷ 
thứ XIV đến thế kỷ XVIII (Lưu Phóng 
Đồng, 2004: 89). Cuối cùng, trong giai 
đoạn thực chứng, liên quan đến sự 
phát triển của xã hội công nghiệp, đời 
sống kinh tế của con người trở thành 
vấn đề trung tâm của xã hội. Trong 
giai đoạn này, hình thành nên một 
tầng lớp những nhà khoa học, họ xuất 
hiện để tổ chức và điều tiết xã hội 
công nghiệp một cách hợp lý hơn, và 
tương ứng với nó là chế độ chính trị 
thực chứng – “chính thể thực chứng”, 
mà A. Comte cho rằng, sẽ do chính 
ông và một số nhà khoa học đương 
thời khác xây dựng. 
Trong tập 1 của tác phẩm Hệ thống 
chính thể thực chứng, với tiêu đề Tổng 
quan về chủ nghĩa thực chứng (Discours 
sur l’ensemble du positivisme), ông 
cho rằng, mô hình xã hội tương lai do 
ông đề xuất sẽ vượt trội hơn so với 
các chế độ cũ. Bởi vì, thứ nhất, nó 
dựa vào khoa học xã hội mới, tức xã 
hội học mà mục đích của nó là “tổ 
chức cho cuộc sống của con người” 
(A. Comte, 1908: 64, 139); thứ hai, do 
bản chất của chủ nghĩa thực chứng sẽ 
bảo tồn những gì tốt nhất trong các 
giai đoạn lịch sử. A. Comte (1908: 120) 
cho rằng: chủ nghĩa thực chứng là đại 
diện cho đỉnh cao của lịch sử, xã hội 
thực chứng sẽ dung hòa trật tự và đạo 
đức của xã hội Công giáo trong giai 
đoạn thần học với tinh thần cách 
mạng và sự tiến bộ đặc trưng của giai 
đoạn siêu hình. Về vai trò của nhà 
nước, A. Comte cho rằng, trong xã hội 
thực chứng quyền lực của nhà nước 
cũng phải được duy trì nhưng cần 
phải hạn chế và dần được thay thế 
bởi quyền lực tinh thần. Xã hội thực 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
4 
chứng cần phải dựa trên quyền lực 
tinh thần, đây chính là mục đích của 
chính thể thực chứng mà ông đang cố 
gắng xây dựng, chủ yếu quản lý xã 
hội trên cơ sở đạo đức của Nhân đạo 
giáo vì lợi ích của mọi người. Mục 
đích của chính thể thực chứng là thúc 
đẩy tự do, đó là quyền tự trị của con 
người. 
Mặc dù A. Comte không đưa ra một 
định nghĩa nào về xã hội thực chứng 
nhưng có thể thấy rằng xã hội thực 
chứng mà Comte đề xuất là một xã 
hội dựa trên sự tiến bộ của nền văn 
minh nhân loại, đặc biệt là sự tiến bộ 
của khoa học, nhất là sự ra đời của 
ngành xã hội học. Đó là một xã hội 
dựa trên sự kết hợp một cách hài hòa 
giữa trật tự và tiến bộ, ở đó con người 
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình 
một cách tự nguyện dựa trên nền tảng 
đạo đức mới là tình yêu thương con 
người. 
2.2. Các yếu tố cấu thành nền văn 
minh trong xã hội thực chứng 
Theo A. Comte, để xã hội đạt đến 
trình độ hay giai đoạn thực chứng thật 
sự thì bốn bộ phận cấu thành nền văn 
minh hiện đại phải lần lượt phát triển 
đạt đến trình độ thực chứng, khoa học 
theo thứ tự là: công nghiệp đến đầu 
tiên trong thời hiện đại và giúp đỡ để 
tiếp sinh lực cho những bộ phận còn 
lại mà trước hết là nghệ thuật, sau đó 
là khoa học và cuối cùng là triết học 
(M. Pickering, 1993: 655). Sở dĩ, ông 
đề xuất theo trật tự như trên bởi vì nó 
phù hợp với nguyên tắc phân loại 
khoa học do ông đề xuất(3). 
Đối với bộ phận thứ nhất, A. Comte tin 
rằng, chính công nghiệp là nền tảng 
của nền văn minh hiện đại, vì vậy nó 
phải được phát triển đầu tiên, hơn 
nữa công nghiệp liên quan đến những 
gì gọi là dễ dàng nhất, cụ thể nhất và 
đáp ứng được những nhu cầu vật 
chất thực tế của đa số người dân. Nó 
cải thiện trí thông minh và tính xã hội 
của con người, khuyến khích tính kỷ 
luật và sự hợp tác, tạo ra sự hài hòa 
giữa lợi ích cá nhân và xã hội, và tạo 
ra một xã hội công bằng hơn. A. 
Comte (1856: 754) cũng cho rằng, 
công nghiệp hóa không phải là ngẫu 
nhiên mà nó “là một quá trình tự 
nhiên”. Cũng giống như các yếu tố 
khác của nền văn minh hiện đại, nó 
xuất hiện và ứng dụng những thành 
tựu của các ngành khoa học để phát 
triển qua các giai đoạn và cuối cùng 
trở thành mục tiêu chính của nhà 
nước. Trong xã hội thực chứng, phân 
công lao động sẽ thúc đẩy sự phát 
triển sở trường và năng lực của cá 
nhân, cũng như góp phần vào sự 
đoàn kết con người với nhau, bằng 
cách tạo ra trong mỗi cá nhân ý thức 
về sự phụ thuộc của mình vào người 
khác. Dường như ở đây có sự tương 
đồng giữa A. Comte và K. Marx trong 
qua niệm về xã hội tương lai, tuy 
nhiên C. Mác còn đi xa hơn, không chỉ 
cho rằng trong xã hội tương lai con 
người được “làm theo năng lực” mà 
còn được “hưởng theo nhu cầu!” (C. 
Mác và Ph. Ăngghen, 2004: 36). 
Theo A. Comte, sau khi nhu cầu về 
vật chất được đảm bảo bởi sự phát 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
5 
triển của công nghiệp thì nhu cầu hợp 
lý tiếp theo của con người phải là nhu 
cầu về nghệ thuật. Ông cho rằng, 
công nghiệp và nghệ thuật có mối 
quan hệ chặt chẽ, cùng có lợi. Một 
mặt, công nghiệp giúp phổ biến nghệ 
thuật, nó kích thích hoạt động tinh 
thần của con người để họ có thể hiểu 
được nghệ thuật, và mang lại sự thoải 
mái và an toàn cần thiết cho việc 
thưởng thức chúng. Mặt khác, nghệ 
thuật phục vụ như là một sự khắc 
phục cho tình trạng nghèo nàn đáng 
xấu hổ của hoạt động công nghiệp, 
bằng cách khuyến khích hơn nữa tính 
vô tư của hoạt động tinh thần và làm 
thức tỉnh lòng vị tha nhờ tính sinh 
động của nghệ thuật. Theo ông nghệ 
thuật có liên quan đến bản chất của 
con người thông qua cảm xúc, suy 
nghĩ và hành động. Do đó, “nó có thể 
gây ảnh hưởng tốt đến mọi giai đoạn 
của sự tồn tại của con người, cho dù 
là cá nhân hay xã hội, nó mang lại 
niềm vui như nhau cho tất cả mọi 
người” (A. Comte, 1908: 319). 
Đối với sự phát triển của khoa học và 
triết học, A. Comte cho rằng, vào thời 
đại của ông các khoa học toán học, 
thiên văn học, vật lý, hóa học và sinh 
học đã phát triển đạt đến trình độ thực 
chứng, nhưng vẫn chưa thể trở thành 
nền tảng của triết học mới. Theo ông, 
sự phát triển của triết học hiện đại 
ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển 
khoa học. Một khi nghiên cứu về xã 
hội trở thành một khoa học, toàn bộ 
hệ thống kiến thức sẽ đạt đến trình độ 
thực chứng, “có nghĩa là hữu cơ, 
chính xác, chắc chắn, hữu ích và thực 
tế” (A. Comte, 1908: 63). Khi đó kiến 
thức sẽ đồng nhất và thống nhất, điều 
đó có nghĩa là tất cả các ngành khoa 
học sẽ có phương pháp thực chứng, 
khoa học và có một đối tượng nghiên 
cứu chung, đó là con người hay nói 
rộng hơn là xã hội. Tuy nhiên, theo A. 
Comte (1908: 367), điều này chỉ có 
thể xảy ra khi xã hội học được thành 
lập “và điều này được thực hiện bởi 
sự khám phá của tôi về quy luật phát 
triển lịch sử”. Một khi khoa học và triết 
học đạt đến trình độ thực chứng thì 
“các nhà khoa học cũng là nhà triết 
học và các triết gia trong tương lai sẽ 
trở thành những linh mục của Nhân 
đạo giáo; sự ảnh hưởng về đạo đức 
và trí tuệ của họ sẽ rộng lớn hơn và 
sâu sắc hơn so với bất kỳ chức tử tế 
nào trước đây” (A. Comte, 1908: 367). 
Căn cứ vào tính chất chung của 
những hoạt động của các nhóm xã hội 
nhằm phục vụ cho sự phát triển của 
các bộ phận cấu thành nền văn minh 
hiện đại nêu trên, A. Comte phân xã 
hội thành ba tầng lớp cơ bản, mà mỗi 
tầng lớp giữ vị trí và vai trò khác nhau: 
Thứ nhất, nhóm những nhà hoạt động 
lý luận bao gồm các nhà khoa học, 
triết học, nghệ sĩ và các nhà thơ. Đây 
là nhóm người có địa vị cao nhất và 
được tôn trọng nhất bởi những năng 
lực của họ về sự khái quát hóa, trừu 
tượng hóa; Thứ hai, nhóm những nhà 
hoạt động thẩm mỹ giải quyết những 
vấn đề mang tính cụ thể và chuyên 
biệt hơn; Thứ ba, nhóm những nhà 
hoạt động thực tiễn, gồm bốn thành 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
6 
phần theo thứ tự như sau: một là 
nhóm những người hoạt động trong 
lĩnh vực ngân hàng; hai là nhóm 
những người hoạt động trong lĩnh vực 
thương mại; ba là nhóm những nhà 
sản xuất công nghiệp và cuối cùng là 
nông dân (A. Comte, 1856: 776-777). 
 2.3. Những đặc điểm cơ bản của xã 
hội thực chứng 
Xã hội lý tưởng trong tương lai mà A. 
Comte (1908: 149) đề xuất trải qua hai 
giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là “giai 
đoạn trung gian” hay “thời kỳ chuyển 
đổi”, đây là thời kỳ tồn tại song song 
giữa quyền lực tạm thời và quyền lực 
tinh thần; giai đoạn thứ hai là giai 
đoạn xã hội đạt đến trình độ hay trạng 
thái thực chứng, thể hiện sự chiến 
thắng hoàn toàn của quyền lực tinh 
thần, “ý thức đoàn kết phổ quát được 
lan tỏa rộng rãi”, “các quốc gia không 
còn tồn tại riêng biệt, mà là một toàn 
thể thống nhất của Nhân loại”. 
Đặc điểm của xã hội thực chứng 
trong giai đoạn trung gian 
Về phương châm và chính sách 
Trong Giáo trình triết học thực chứng, 
sau khi phê phán quan điểm cho rằng 
“Trật tự và Tiến bộ là không thể dung 
hòa” của các học thuyết chính trị siêu 
hình, A. Comte cho rằng, “Trật tự và 
Tiến bộ là những điều kiện không thể 
thiếu trong giai đoạn của nền văn 
minh hiện đại... Trật tự thật sự không 
thể có được nếu nó không tương 
thích hoàn toàn với tiến bộ và không 
có sự tiến bộ tuyệt vời nào có thể 
được thực hiện nếu không có xu 
hướng củng cố trật tự. Bất kỳ một 
q ... 
để tạo điều kiện thuận lợi cho giao 
dịch công nghiệp; thành lập trường 
học phương Tây, là nơi đào tạo và 
cung cấp đội ngũ giáo sĩ tự nguyện, 
những người sẽ thuyết giảng giáo lý 
thực chứng ở khắp mọi nơi. Theo A. 
Comte, với vai trò ngày càng lớn 
mạnh của Ủy ban Thực chứng, việc 
tuyên truyền và phổ biến chủ nghĩa 
thực chứng ra toàn thế giới gồm 5 giai 
đoạn và có thể được thực hiện triệt để 
trong khoảng thời gian hai thế kỷ. Ông 
cũng đề xuất tạo ra một lá cờ chung 
cho Cộng hòa phương Tây với nền 
màu xanh lá cây, trên đó biểu thị 
phương châm của chủ nghĩa thực 
chứng. Một bên của lá cờ sẽ là 
phương châm chính trị và khoa học - 
Trật tự và Tiến bộ, còn bên kia là 
phương châm đạo đức và thẩm mỹ -
Sống vì mọi người. Theo ông, trên cơ 
sở của lá cờ này với những thay đổi 
nhỏ sẽ là quốc kỳ cho mỗi quốc gia. 
Đặc điểm của xã hội trong trạng 
thái thực chứng 
Trong tập 4 của tác phẩm Hệ thống 
chính thể thực chứng với chủ đề 
“Tổng hợp về tương lai của con 
người” (Tableau synthétique de 
l'esprit humain) mô tả chi tiết về các 
đặc điểm của xã hội thực chứng. 
Thứ nhất, về đặc điểm và vai trò nhà 
nước 
A. Comte (1854: 435) cho rằng trong 
tương lai, “quyền lực nhà nước sẽ 
ngày càng dựa trên quyền lực tinh 
thần nhiều hơn so với quyền lực tạm 
thời”. Theo ông, quyền lực tạm thời 
của nhà nước được duy trì để đảm 
bảo cho các hoạt động xã hội bình 
thường nhằm hướng đến phục vụ đời 
sống vật chất của công dân và nó dần 
phải được hạn chế và “hành động của 
nó cần được sửa đổi bởi quyền lực 
tinh thần” (A. Comte, 1908: 396). 
Dường như quan điểm này của ông 
có sự tương đồng với các nhà xã hội 
như Charles Fourier(4) và Étienne 
Cabet
(5)
, thậm chí cũng gần với quan 
điểm về “nhà nước tự tiêu vong” của 
C. Mác (M. Pickering, 2009: 365). Còn 
quyền lực tinh thần không chỉ cung 
cấp một ảnh hưởng nhất định đối với 
quyền lực tạm thời mà còn giúp tạo ra 
sự đoàn kết xã hội bằng cách hình 
thành niềm tin và cảm xúc của con 
người thông qua giáo dục. A. Comte 
(1908: 405) cho rằng: “Sự cần thiết 
của quyền lực tinh thần là để nghiên 
cứu và giảng dạy những quy luật của 
những hiện tượng xã hội và những 
nguyên tắc đạo đức, do đó quyền lực 
tinh thần sẽ cai trị con người bằng 
cách thuyết phục, thay vì bắt buộc”. 
Thứ hai, về vai trò của các tầng lớp xã 
hội 
Về vai trò của phụ nữ, A. Comte (1854: 
304) cho rằng, họ là cầu nối cho mối 
quan hệ giữa con người và nhân loại, 
là người bạn đồng hành tốt nhất và là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
9 
đối tượng phù hợp nhất đảm nhận vai 
trò giáo dục con cái và sửa đổi hành vi 
đạo đức cho xã hội. Theo ông, họ cần 
phải được xếp ở vị trí cao nhất trong 
xã hội vì họ đại diện cho sự nhân cách 
hóa một cách thuần khiết và đơn giản 
nhất của tình yêu thương nhân loại. 
Về vai trò của người lao động và nhà 
tư bản, theo A. Comte, xã hội thực 
chứng sẽ là một xã hội có trật tự, 
người giàu sẽ chăm sóc người nghèo, 
người nghèo sẽ tôn trọng người giàu. 
Các nhà tư bản với trách nhiệm đảm 
bảo sự thịnh vượng vật chất của xã 
hội; chăm sóc và bảo trợ tầng lớp 
thấp hơn là hạnh phúc của họ. Trong 
khi đó, người lao động, mặc dù họ bị 
buộc phải phục tùng, nhưng họ là 
người giàu có về cảm xúc tình cảm và 
hạnh phúc hơn so với những người 
bảo trợ cho họ, bởi vì các nhà tư bản 
phải chịu trách nhiệm bảo vệ họ (A. 
Comte, 1854: 332-333). Nhà tư bản 
trong vai trò của mình thúc đẩy phát 
triển hệ thống công nghiệp, có thể 
giúp người lao động dễ dàng thay đổi 
công việc và tìm được việc làm được 
trả lương cao ở bất cứ đâu trên thế 
giới. Với việc làm được đảm bảo hơn, 
mức lương cao hơn và giáo dục tốt 
hơn, người lao động sẽ hạnh phúc và 
có thể cống hiến hết mình để cải thiện 
bản thân và đạo đức (A. Comte, 1854: 
341-342). 
Thứ ba, quan niệm về giáo dục 
A. Comte cho rằng, giáo dục giữ vai 
trò quan trọng trong xã hội thực chứng, 
giúp con người có thể sửa đổi hành vi 
của mình, giảm sự bất đồng và gắn 
kết con người với nhau, đặc biệt giáo 
dục sẽ thúc đẩy quyền lực tinh thần 
trong chức năng chính trị và tôn giáo. 
Theo ông, giáo dục cần phải được 
phổ biến cho toàn xã hội và có quyền 
tự do trong giảng dạy. Ông cũng đề ra 
một chương trình giáo dục khá chi tiết 
cho từng cá nhân trong xã hội. Theo 
đó, giáo dục trước tiên là tình cảm, 
sau đó là thẩm mỹ, lý thuyết và thực 
tiễn, và rộng hơn nữa là lịch sử của 
nền văn minh. Đầu tiên là phụ nữ 
trong vai trò người mẹ sẽ chăm sóc 
giáo dục tình cảm và thẩm mỹ cho trẻ 
trước tuổi dậy thì, ở tuổi 14. Tiếp theo, 
các linh mục sẽ dạy các môn khoa 
học cho độ tuổi từ 14 đến 21. Sau đó, 
các nhà giáo dục có kinh nghiệm ở 
những ngành nghề khác nhau sẽ 
hướng dẫn môn học mang tính thực 
tiễn để đáp ứng nhu cầu việc làm của 
một thế giới năng động cho độ tuổi 
sau tuổi 21 (A. Comte, 1854: 368). 
3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ 
TƢỞNG A. COMTE VỀ XÃ HỘI 
THỰC CHỨNG 
Có thể thấy rằng quan điểm về xã hội 
thực chứng của A. Comte còn hạn 
chế nhất định do lịch sử xã hội quy 
định, nhưng những đề xuất của ông 
vẫn có những giá trị nhất định đáng để 
suy ngẫm. 
Thứ nhất, với mong muốn dùng tri 
thức khoa học để thúc đẩy tiến bộ xã 
hội, đặc biệt là xã hội học do ông đề 
xuất để xây dựng một trật tự xã hội 
mới, tinh thần ấy đã tạo nên một trào 
lưu xã hội thật sự, ảnh hưởng sâu sắc 
đến những nhà xã hội học sau này. 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
10 
Việc đề xuất ngành khoa học mới này 
là tiền đề quan trọng giúp cho những 
nhà khoa học xã hội tiếp tục nghiên 
cứu và đi sâu vào từng lĩnh vực của 
đời sống xã hội đạt được những thành 
quả nhất định. Cũng chính vì thế mà A. 
Comte được thừa nhận là một trong 
những người đặt nền móng cho 
ngành xã hội học hiện đại. 
Thứ hai, việc đề xuất xây dựng một xã 
hội mới dựa trên phương châm “Trật 
tự và Tiến bộ” của A. Comte, một mặt 
phù hợp trong điều kiện hiện tại của 
xã hội đầy biến động phức tạp, mặt 
khác nó cũng phù hợp với xu hướng 
của nền chính trị hiện đại. Theo ông, 
một xã hội nếu muốn có sự tiến bộ thì 
không thể không có trật tự và sự tiến 
bộ hoàn hảo có xu hướng củng cố trật 
tự. Hơn nữa, theo ông tiến bộ không 
chỉ có nghĩa là nâng cao đời sống vật 
chất mà còn là đời sống tinh thần của 
xã hội, đặc biệt là sự tiến hóa về đạo 
đức. Quan điểm này có sự ảnh hưởng 
nhất định đối với phong trào cải tổ 
chính trị của các quốc gia. Hiện nay 
phương châm này vẫn còn được in 
trên quốc kỳ của Brazil, một quốc gia 
chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của ông 
thời kỳ bấy giờ. 
Thứ ba, trong xã hội thực chứng, A. 
Comte đề xuất sự giải phóng phụ nữ, 
đề cao vai trò ưu việt của họ trong 
việc giáo dục con cái và sửa đổi hành 
vi đạo đức cho xã hội và xếp họ ở vị 
trí đầu tiên trong xã hội tương lai. 
Quan điểm này của ông đã truyền 
cảm hứng cho phong trào nữ quyền 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
Thứ tư, trong quan điểm về giáo dục, 
A. Comte cho rằng, ngoài việc giáo 
dục tri thức bách khoa thì việc giáo 
dục đạo đức giữ vai trò quan trọng 
trong việc tổ chức xây dựng xã hội 
mới. Đặc biệt ông cho rằng, giáo dục 
tình cảm và thẩm mỹ cho trẻ trước 
tuổi dậy thì giữ vai trò quyết định trong 
việc định hình nhân cách con người, 
quan điểm này đến nay vẫn còn 
nguyên giá trị đối với giáo dục các 
nước, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, 
Comte còn là một trong những người 
đầu tiên cổ xúy cho nền giáo dục đại 
chúng và quyền tự do trong giảng dạy. 
Mặc dù có những giá trị nêu trên, 
nhưng quan điểm của A. Comte về 
chính thể thực chứng cũng cho thấy 
rõ những hạn chế nhất định. 
Một là, xã hội thực chứng của A. 
Comte còn có sự phân biệt đẳng cấp 
và mang tính biện hộ chính trị. “Tính 
chất biện hộ chính trị” (Đinh Ngọc 
Thạch và cộng sự, 2013: 148) và 
phân biệt đẳng cấp trong quan điểm 
về xã hội thực chứng của ông một mặt 
được thể hiện trong việc đề xuất phân 
chia xã hội thành ba tầng lớp cơ bản, 
mà mỗi tầng lớp giữ vị trí và vai trò 
khác nhau trong xã hội; mặt khác 
thông qua việc kêu gọi sự phục tùng 
của các tầng lớp thấp hơn như là việc 
thực hiện bổn phận đạo đức. Hơn nữa 
ông phủ nhận các phong trào cách 
mạng xã hội và đề xuất khẩu hiệu 
“Trật tự và Tiến bộ”. 
Hai là, xã hội thực chứng của A. 
Comte mang tính chủ quan và không 
tưởng. Việc đề xuất xã hội thực chứng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
11 
của ông dựa trên cơ sở lý luận luật ba 
giai đoạn có sự gượng ép một cách 
nhất định, mang tính chủ quan và 
thiếu cơ sở để chứng minh. Mặc dù 
ông đưa ra nhiều dẫn chứng về mặt 
lịch sử để chứng minh, nhưng theo 
tác giả Lưu Phóng Đồng (2004: 90), 
“đó chỉ là một số ví dụ miêu tả mang 
tính hiện tượng chủ nghĩa đối với sự 
phát triển tư tưởng loài người, chưa 
phản ánh chính xác quy luật của sự 
phát triển ấy”. Còn theo Cardinal 
Mercier
(6)
 (1917: 20), “luật giả định 
của ông về ba giai đoạn chỉ là một hệ 
quả của một định đề không được 
chứng minh; hoặc đó là một kinh 
nghiệm và ngoài sự quan sát về lịch 
sử thì nó hoàn toàn không có giá trị”. 
Tính chủ quan trong học thuyết của 
ông còn thể hiện thông qua phương 
pháp dự báo của ông. Châm ngôn mà 
A. Comte yêu thích là “từ khoa học 
đến dự báo”. Sau khi chuẩn bị về lý 
luận khoa học trong Giáo trình triết 
học thực chứng, ông đi đến dự báo 
tương lai về sự thống trị của xã hội 
học và đạo đức; các ngành khoa học 
sẽ thống nhất đối tượng nghiên cứu là 
nhân loại và sẽ trở nên đạo đức hơn. 
Vì thế xã hội thực chứng mà ông đề 
xuất xây dựng trong Hệ thống chính 
thể thực chứng, công trình thứ hai của 
mình hoàn toàn dựa vào những 
nguyên tắc đạo đức, đặc biệt là dựa 
vào tình cảm vị tha của con người, 
cũng vì thế mà nó thiếu đi tính thực 
tiễn để có thể tồn tại được. 
Ba là, trật tự xã hội và đạo đức mà A. 
Comte hướng đến được phỏng theo 
mô hình trật tự và đạo đức của xã hội 
Công giáo thời kỳ phát triển cực thịnh 
ở Châu Âu, điều đó cho thấy tư tưởng 
của ông quá phiến diện và lạc hậu so 
với tư tưởng của các nhà triết học 
đương thời. Còn nhân đạo giáo do 
ông sáng lập, được xem là cơ sở nền 
tảng chuẩn bị cho sự thành công của 
xã hội thực chứng trong tương lai 
cũng không thể thu hút được công 
chúng và bị các nhà tư tưởng đương 
thời phê phán. 
4. KẾT LUẬN 
Sống trong bối cảnh xã hội biến động 
đầy phức tạp, A. Comte đã cố gắng 
hợp nhất những dòng chảy của tri 
thức với khát vọng nhằm tái thiết một 
trật tự xã hội mới dựa trên những 
thành tựu văn minh của nhân loại. Tuy 
có những hạn chế mang tính lịch sử 
và lập trường giai cấp được các nhà 
triết học sau ông đã chỉ ra, song quan 
điểm của ông về những bộ phận cấu 
thành nền văn minh và phương châm 
“trật tự và tiến bộ” trong tiến trình xây 
dựng xã hội thực chứng là sự kế thừa 
những giá trị lịch sử của nhân loại, có 
sự phù hợp nhất định trong điều kiện 
lịch sử và xu hướng của nền chính trị 
hiện đại. Ngoài ra những đề xuất của 
ông về vai trò của phụ nữ, đạo đức và 
giáo dục, đặc biệt là quan điểm về 
quyền tự do, tự trị của con người có 
ảnh hưởng lớn đến đời sống học 
thuật và chính trị xã hội hiện thời, góp 
phần vào tiến trình phát triển lịch sử 
của nhân loại. 
Đối với Việt Nam hiện nay, trong quá 
trình hội nhập quốc tế, việc nghiên 
 NGUYỄN THÀNH NHÂN – QUAN ĐIỂM CỦA AUGUSTE COMTE 
12 
cứu, tiếp cận và tham khảo những học 
thuyết chính trị xã hội mang giá trị phổ 
quát từ các nước phát triển, trong đó 
có quan điểm về xã hội thực chứng 
của A. Comte là một trong những 
cách góp phần làm phong phú nền 
văn hóa của dân tộc, thúc đẩy đất 
nước phát triển.  
CHÚ THÍCH 
(1) 
Nhân đạo giáo là một tôn giáo thế tục thể hiện sự sùng kính nhân loại do chính A. Comte 
sáng lập. Nó có hệ thống tín ngưỡng và nghi lễ hoàn chỉnh, có nghi thức tế lễ và những bí 
tích, có cả những linh mục và giáo hoàng. Nhân đạo giáo dựa trên các nền tảng chính là: 
lòng vị tha, trật tự và tiến bộ. 
(2) 
Theo Mary Pickering, sau khi A. Comte qua đời, các tạp chí nghiên cứu về chủ nghĩa thực 
chứng lần lượt ra đời làm cho tư tưởng của ông có sự ảnh hưởng mạnh mẽ tại Pháp, Anh, 
Brazil, Nhật. 
(3) 
Trong nguyên tắc phân loại khoa học của mình, A. Comte cho rằng khoa học nào mang 
tính trừu tượng cao và những hiện tượng của nó càng đơn giản thì nó sẽ sớm đạt đến trình 
độ thực chứng và sự ra đời của nó sẽ sớm hơn các khoa học khác và ngược lại. Theo ông, 
có 6 khoa học được xếp theo thứ tự, trừu tượng nhất đến cụ thể nhất là toán học, thiên văn 
học, vật lý học, hóa học, sinh lý học và cuối cùng là xã hội học. 
(4) 
Charles Fourier (1772 - 1837) là một nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa nổi tiếng của Pháp 
nửa đầu thế kỷ XIX. Những học thuyết của ông trở thành một trong những tiền đề lý luận 
quan trọng để xây dựng học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học sau này. 
(5) 
Étienne Cabet (1788 - 1856) là một nhà triết học và nhà xã hội không tưởng người Pháp, 
người sáng lập ra phong trào Ician. Cabet trở thành người ủng hộ xã hội chủ nghĩa phổ biến 
nhất trong thời đại của ông. 
(6) 
Cardinal Mercier – Hồng y Mercier tên thật là Désiré-Joseph Mercier (1851 - 1926) là nhà 
giáo dục người Bỉ, hồng y, và một nhà lãnh đạo phong trào phục hưng triết học của Thomas 
Aquinas trong thế kỷ XIX. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bourdeau, M. 2018. “Auguste Comte. The Stanford Encyclopedia of Philosophy”. 
https://plato.stanford.edu/entries/comte/, truy cập ngày 20/6/2019. 
2. Comte, A. 1854. Système de politique positive ou Traité de sociologie instituant la 
religion de l'Humanité (Tome quatrième et dernier, contenant le Tableau synthétique de 
l'avenir humain). Paris: Carilian-Gœury et V. Dalmont. 
3. Comte, A. 1856. The Positive Philosophy (H. Martineau dịch). New York: Canvil 
Blanchard. 
4. Comte, A. 1908. A General View of Positivism. Translated by J. H. Bridges. London: 
George Routledge & Sons Limited. 
5. Đinh Ngọc Thạch (chủ nhiệm), Nguyễn Trọng Nghĩa, Doãn Chính. 2013. Các khuynh 
hướng chủ đạo trong triết học phương Tây hiện đại. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại 
học Quốc gia TPHCM. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
13 
6. https://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89tienne_Cabet, truy cập ngày 9/8/2019. 
7. 
cong-nhan-quoc-te/cac-lanh-tu-va-cac-nha-lanh-dao-noi-tieng/charles-fourier-1772-
1837-3059, truy cập ngày 9/8/2019. 
8. Lưu Phóng Đồng (Lê Khánh Trường dịch). 2004. Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - 
Triết học phương Tây hiện đại. Hà Nội: Nxb. Lý luận Chính trị. 
9. C. Mác và Ph. Ăngghen. 2004. Toàn tập, tập 19. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
10. Mai Sơn. 2007. 101 triết gia. Hà Nội: Nxb. Tri thức. 
11. Mercier, C. 1917. A Manual of Modern Scholastic Philosophy (Vol. 2). London: 
Kegan Paul, Trench, Trubner & Co. 
12. Morichère, B. (Phan Quang Định dịch). 2010. Triết học Tây phương từ khởi nguyên 
đến đương đại. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 
13. Pickering, M. 1993. Auguste Comte: An Intellectual Biography (Vol. 1). Cambridge: 
Cambridge University Press. 
14. Pickering, M. 2009. Auguste Comte: An Intellectual Biography (Vol. 3). Cambridge: 
Cambridge University Press. 
15. Stumpt, S.E (Đỗ Văn Thuấn - Lưu Văn Hy dịch). 2004. Lịch sử triết học và các luận 
đề. Hà Nội: Nxb. Lao động. 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_auguste_comte_ve_xa_hoi_thuc_chung.pdf