Quá trình truyền năng lượng tăng cường giữa các chấm lượng tử carbon ở trạng thái rắn

Chấm lượng tử carbon (CQDs) với các ưu điểm như dễ tổng hợp với chi phí thấp và ít độc hại đã

và đang được nghiên cứu rộng rãi ở các khía cạnh như tổng hợp hay ứng dụng trong y - sinh. Mặc

dù vậy, tiềm năng ứng dụng của CQDs trong các thiết bị quang điện tử như đèn LED hữu cơ

(OLED), pin mặt trời hay cảm biến quang học chưa được làm sáng tỏ. Trong nghiên cứu này,

chúng tôi so sánh tính chất hấp thụ và phát xạ quang học của CQDs tổng hợp bằng phương pháp

phân hủy nhiệt hỗn hợp citric acid và ethylenediamine ở trạng thái lỏng và trạng thái rắn. So với

trạng thái lỏng, phổ hấp thụ của CQDs trạng thái rắn chuyển dịch đỏ 0,15 eV trong khi phổ phát xạ

chuyển dịch 0,4 eV. Tương tác π- π giữa các CQDs ở trạng thái rắn làm tăng mật độ trạng thái,

giảm khoảng cách giữa các CQDs và do đó làm tăng cường hiệu suất truyền năng lượng giữa các

CQDs. Kết quả này có thể mở ra khả năng ứng dụng CQDs trong các thiết bị quang điện tử sử

dụng màng mỏng CQDs ở trạng thái rắn.

pdf 5 trang kimcuc 4740
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình truyền năng lượng tăng cường giữa các chấm lượng tử carbon ở trạng thái rắn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình truyền năng lượng tăng cường giữa các chấm lượng tử carbon ở trạng thái rắn

Quá trình truyền năng lượng tăng cường giữa các chấm lượng tử carbon ở trạng thái rắn
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(06): 419 - 423 
 Email: jst@tnu.edu.vn 419 
QUÁ TRÌNH TRUYỀN NĂNG LƯỢNG TĂNG CƯỜNG GIỮA CÁC CHẤM 
LƯỢNG TỬ CARBON Ở TRẠNG THÁI RẮN 
Mai Văn Tuấn1,2, Lê Thị Phương3, 
Vũ Anh Đức3, Nguyễn Xuân Bách3, Mai Xuân Dũng3* 
1Viện Vật lý Kỹ thuật - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, 
2Trường Đại học Điện lực Hà Nội, 3Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
TÓM TẮT 
Chấm lượng tử carbon (CQDs) với các ưu điểm như dễ tổng hợp với chi phí thấp và ít độc hại đã 
và đang được nghiên cứu rộng rãi ở các khía cạnh như tổng hợp hay ứng dụng trong y - sinh. Mặc 
dù vậy, tiềm năng ứng dụng của CQDs trong các thiết bị quang điện tử như đèn LED hữu cơ 
(OLED), pin mặt trời hay cảm biến quang học chưa được làm sáng tỏ. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi so sánh tính chất hấp thụ và phát xạ quang học của CQDs tổng hợp bằng phương pháp 
phân hủy nhiệt hỗn hợp citric acid và ethylenediamine ở trạng thái lỏng và trạng thái rắn. So với 
trạng thái lỏng, phổ hấp thụ của CQDs trạng thái rắn chuyển dịch đỏ 0,15 eV trong khi phổ phát xạ 
chuyển dịch 0,4 eV. Tương tác π- π giữa các CQDs ở trạng thái rắn làm tăng mật độ trạng thái, 
giảm khoảng cách giữa các CQDs và do đó làm tăng cường hiệu suất truyền năng lượng giữa các 
CQDs. Kết quả này có thể mở ra khả năng ứng dụng CQDs trong các thiết bị quang điện tử sử 
dụng màng mỏng CQDs ở trạng thái rắn. 
Từ khóa: Chấm lượng tử carbon; truyền năng lượng; phân hủy nhiệt; trạng thái rắn; tương tác π-π. 
Ngày nhận bài: 12/4/2020; Ngày hoàn thiện: 27/5/2020; Ngày đăng: 29/5/2020 
ENHANCED ENERGY TRANSFER IN CARBON QUANTUM DOT SOLIDS 
Mai Van Tuan1,2, Le Thi Phuong3, 
Vu Anh Duc3, Nguyen Xuan Bach3, Mai Xuan Dung3* 
1School of Engineering Physics, Hanoi University of Science and Technology, 
2Electric Power University, 3Hanoi Pedagogical University 2 
ABSTRACT 
Carbon quantum dots (CQDs) with noble properties such as low-cost, easy production in a large 
scale and non-toxicity have been widely investigated in the synthesis as well as bio-applications 
aspects. However, their potential application in important opto-electronic devices such as organic 
light emitting diodes (OLEDs), solar cells and light sensors has not been fully explored yet. In this 
report, we compared absorption and emission properties of CQDs that were prepared by pyrolysis 
of citric acid and ethylenediamine in solution and solid states. The absorption spectrum of CQD 
solid was red-shifted by about 0.15 eV while its emission spectrum was red-shifted by 0.4 eV as 
compared with those of solution CQDs. It has been demonstrated that π- π interactions increase the 
density of sate and reduce the interdistance among CQDs in solid state giving rise to enhancement 
in energy transfer efficiency. The results would pave a new path to the deployment of CQDs in 
optoelectronic devices where thin films of CQDs are essential. 
Keywords: Carbon quantum dots; energy transfer; pyrolysis; quantum dot solids; π-π 
interactions. 
Received: 12/4/2020; Revised: 27/5/2020; Published: 29/5/2020 
* Corresponding author. Email: xdmai@hpu2.edu.vn
Mai Văn Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(06): 419 - 423 
 Email: jst@tnu.edu.vn 420 
1. Giới thiệu 
Trong những năm gần đây, CQDs được quan 
tâm nghiên cứu trên các lĩnh vực như phương 
pháp tổng hợp [1]-[3], cơ chế hấp thụ và phát 
xạ huỳnh quang trong CQDs [4]-[7] và triển 
khai ứng dụng CQDs trong một số ứng dụng 
như cảm biến huỳnh quang [8], [9], y – sinh 
[10]-[12] và LEDs [2], [13], [14]. Trong các 
ứng dụng đó, CQDs ở trạng thái dung dịch 
hoặc composite [15]. Tuy nhiên, trong nhiều 
ứng dụng quan trọng CQDs ở trạng thái rắn 
như pin mặt trời, cảm biến huỳnh quang, 
OLEDs và bóng bán dẫn (TFTs). Ở trạng thái 
rắn các CQDs tương tác mạnh với nhau và 
thường được mô tả thông qua năng lượng 
tương tác: 
2
2 *
2
m E
x
h
he


− 
 
=
Ở đây h là hằng số Plank và  là tốc độ 
truyền điện tử giữa hai trạng thái cạnh nhau 
theo cơ chế xuyên hầm (tunneling); m* là 
khối lượng tương đối của electron trong 
CQDs; ΔE là sự sai lệch về năng lượng giữa 
trạng thái điện tử nói trên và Δx là khoảng 
cách chúng [16]. Từ hàm β có thể thấy 
khoảng cách Δx giữa các CQDs ảnh hưởng 
theo hàm mũ đến tương tác giữa các CQDs; 
tương tác này làm thay đổi cơ bản tính chất 
quang và điện tử của CQDs rắn. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh tính 
chất quang của CQDs ở trạng thái rắn với 
trạng thái dung dịch để làm sáng tỏ ảnh 
hưởng của tương tác CQD – CQD đến tính 
chất quang của chúng. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
CQDs được tổng hợp bằng phương pháp nhiệt 
phân hỗn hợp citric acid và ethylenediamine 
trong glycerol như mô tả trong nghiên cứu 
gần đây [1]. Để chế tạo chất rắn CQDs, dung 
dịch CQDs trong nước (50 mg/ml) được nhỏ 
giọt trên đế thạch anh rồi để khô trên đế nóng 
ở 100oC. Phổ hấp thụ của CQDs ở trạng thái 
dung dịch hay trạng thái rắn được đo trên máy 
UV-2450 (Shimadzu) và phổ huỳnh quang 
được đo trên máy Nanolog (Horiba). Phổ 
nhiễu xạ tia X của CQDs dạng rắn được đo 
trên máy D8 Advanced X-ray diffractometer. 
3. Kết quả và bàn luận 
200 250 300 350 400 450 500
 Wavelength (nm)
A
b
s
o
rb
a
n
c
e
 (
a
. 
.u
)
 160
o
C
 180
o
C
 200
o
C
 220
o
C
 240
o
C
a) b)
Hình 1. a) Phổ hấp thụ UV-Vis của sản phẩm thu 
được ở các nhiệt độ nhiệt phân khác nhau, thời 
gian nhiệt phân là 15 phút. b) Ảnh chụp dung dịch 
phản ứng thu được ở 220oC (dưới) hay 240oC 
(trên) sau các thời gian phản ứng khác nhau (từ 
trái qua phải: 1, 3, 6, 10, 20, 25 và 30 phút). 
Các nghiên cứu trước đây về sự hình thành 
CQDs khi thủy nhiệt hỗn hợp citric acid (CA) 
và ethylenediamine (EDA) cho thấy quá trình 
ngưng tụ nội phân tử giữa CA và EDA tạo 
thành dẫn xuất của citrazinic acid (F); các quá 
trình carbon hóa và ngưng tụ F sau đó xảy ra 
đồng thời tạo thành CQDs có chứa F trên bề 
mặt [1], [6], [17]. Trong nghiên cứu này, 
CQDs được tổng hợp bằng phương pháp phân 
hủy nhiệt CA và EDA trong glycerol. 
Phổ UV-Vis của hỗn hợp phản ứng như trên 
hình 1a có hai vùng hấp thụ: đỉnh hấp thụ đặc 
trưng của F xuất hiện ở khoảng 340 nm (đỉnh 
2) và vai hấp thụ ở 240 nm (đỉnh 1) đặc trưng 
cho sự chuyển dịch điện tử HOMO-LUMO 
của các hệ carbon liên hợp trong lõi của 
CQDs [1], [15], [18]. Cường độ hấp thụ ở 340 
nm cho biết nồng độ tổng của F ở trạng thái 
tự do và trên bề mặt của CQDs. Trên hình 1a, 
nồng độ của F tăng dần khi tăng nhiệt độ phản 
ứng từ 160oC lên 220oC rồi sau đó giảm dần 
khi tăng nhiệt độ phản ứng lên 240oC. Sự thay 
đổi này do F là sản phẩm trung gian trong quá 
trình hình thành CQDs. Ban đầu, F hình thành 
từ quá trình ngưng tụ nội phân tử giữa CA và 
EDA. Sau đó, F tham gia vào quá trình 
carbon hóa tạo thành CQDs. Tương tự như 
vậy, khi thực hiện phản ứng ở 220oC hay 
Mai Văn Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(06): 419 - 423 
 Email: jst@tnu.edu.vn 421 
240oC, nồng độ của F cũng tăng dần theo thời 
gian phản ứng, đạt giá trị cực đại rồi giảm dần 
khi nó tham gia vào quá trình carbon hóa tạo 
thành CQDs. Bằng trực quan có thể quan sát 
thấy màu của dung dịch chuyển từ vàng nhạt 
sang đen như tương ứng với hàm lượng 
CQDs tăng dần theo thời gian phản ứng như 
trên hình 1b. 
0 5 10 15 20 25 30
1.4
1.6
1.8
2.0
2.2
A
1
/A
2
Reaction time (m)
 A
1
/A
2
330
335
340
345
350
355
 
2
 P
e
a
k
 2
 p
o
s
it
io
n
 (
n
m
)
Hình 2. Sự thay đổi về vị trí của đỉnh hấp thụ đặc 
trưng của F (λ2) và tỷ lệ độ hấp thụ giữa vai hấp 
thụ ở 240 nm và đỉnh ở ~340 nm theo thời gian 
phản ứng ở nhiệt độ 240oC 
Ngoài sự thay đổi về độ hấp thụ của F theo 
thời gian phản ứng, vị trí của đỉnh 2 (λ2) và tỷ 
lệ độ hấp thụ giữa đỉnh 1 và đỉnh 2 (A1/A2) 
tăng dần như trên hình 2. Sự tăng lên của 
A1/A2 chứng tỏ sự tăng lên về hàm lượng của 
các hệ carbon liên hợp C sp2 trong khi λ2 tăng 
dần là chỉ dấu cho thấy có sự hình thành liên 
kết hóa học trực tiếp giữa F và các hệ liên hợp 
[1]. Như vậy, khi phân hủy nhiệt hỗn hợp tiên 
chất CA và EDA trong glycerol, F hình thành 
qua quá trình ngưng tụ nội phân tử giữa CA 
và EDA; đồng thời tham gia vào quá trình 
carbon hóa cùng với các polyamide của tiền 
chất để hình thành CQDs. Trong quá trình 
carbon hóa, song song với sự hình thành các 
hệ carbon liên hợp, nhóm chức F có liên kết 
trực tiếp với các hệ carbon này. Cơ chế hình 
thành CQDs với các nhóm chức quang hoạt F 
trên bề mặt khi phân hủy nhiệt hỗn hợp CA 
và EDA trong glycerol tương tự như sự hình 
thành CQDs bằng phương pháp thủy nhiệt đã 
công bố trước đây [2]-[5]. CQDs thu được sau 
quá trình làm sạch có dạng hình cầu với đường 
kính trung bình khoảng 4 nm [6]. Chúng tôi lưu 
ý rằng, xu hướng dịch chuyển của λ2 và tỷ lệ 
A1/A2 như trên hình 2 cũng xảy ra khi thực hiện 
tổng ở nhiệt độ thấp hơn (200oC, 220oC) nhưng 
ở khoảng thời gian dài hơn. 
Để chế tạo CQDs rắn, chúng tôi tiến hành 
tổng hợp CQDs ở 220oC và tiến hành các quá 
trình làm sạch như công bố trước đây [1]. 
CQDs rắn được chế tạo bằng cách nhỏ giọt 
dung dịch CQDs (nồng độ 30 mg/ml) trên đế 
(kính, thạch anh) rồi làm khô ở 80oC. Phổ 
nhiễu xạ tia X của CQDs rắn (hình 3), xuất 
hiện một đỉnh nhiễu xạ rộng có cực đại ở góc 
2θ ≈21,8o được xác định là đỉnh nhiễu xạ từ 
họ mặt (002) của cấu trúc graphite [22]. Tuy 
nhiên, hằng số mạng d002 = 4,14Å của CQDs 
ở đây lớn hơn so với d002 = 3,35Å của cấu 
trúc graphite. Các nhóm chức trên bề mặt 
CQDs như -OH, -COOH, -CONH- [1] là 
nguyên nhân làm giãn khoảng cách xếp khít 
π-π giữa các CQDs. 
10 20 30 40 50 60 70
In
te
n
s
it
y
 (
a
. 
u
)
2 (deg)
4.14 Å
Hình 3. Phổ nhiễu xạ của CQDs rắn
250 300 350 400 450 500
A
b
so
rb
a
n
ce
 (
a
. 
u
)
Wavelength (nm)
350 400 450 500 550 600 650
N
o
rm
a
liz
e
d
 P
L
 I
n
te
n
si
ty
Wavelength (nm)
250 300 350 400 450 500
P
L
 I
n
te
n
si
ty
 (
a
. 
u
)
Wavelength (nm)
a) b) c)
Hình 4. a) Phổ hấp thụ; b) Phổ kích thích huỳnh quang ở 520 nm và c) Phổ huỳnh quang (khi kích thích ở 
355 nm) của CQDs ở trạng thái dung dịch (hình tròn rỗng) và trạng thái rắn (hình tròn tô kín) 
Mai Văn Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(06): 419 - 423 
 Email: jst@tnu.edu.vn 422 
Phổ UV-Vis, phổ kích thích huỳnh quang 
(PLE) và phổ phát xạ huỳnh quang (PL) của 
CQDs ở trạng thái dung dịch và trạng thái rắn 
được trình bày trên hình 4. Có thể thấy, phổ 
UV-Vis và phổ PLE đều có đỉnh ở ~350 nm; 
điều này chứng tỏ sự phát xạ của CQDs xuất 
phát chủ yếu từ quá trình kích thích nhóm 
chức quang hoạt bề mặt F. So với trạng thái 
dung dịch, đỉnh hấp thụ của CQDs ở trạng 
thái rắn rộng hơn và vị trí cực đại chuyển dịch 
về phía sóng dài khoảng 0,15 eV (từ 345 đến 
360 nm). Tương tự như vậy, đỉnh phổ PLE, 
khi theo dõi ở bước sóng 520 nm (Hình 4b), 
cũng chuyển dịch khoảng 0,23 eV, từ 355 nm 
(trạng thái dung dịch) đến 380 nm (trạng thái 
rắn). Đặc biệt, phổ PL của CQDs ở trạng thái 
rắn bị chuyển dịch về phía sóng dài khoảng 
0,4 eV, từ 445 nm đến 520 nm. 
Dung dịch CQDs CQDs rắn
E1 E2 < E1
250 300 350 400 450 500 550 600 650
A
b
s
o
rb
a
n
c
e
 (
a
. 
u
)
Wavelength (nm)
 P
L
 I
n
te
n
s
it
y
 (
a
. 
u
)
a) b)
Hình 5. a) Mô hình tương tác giữa CQDs ở trạng 
thái rắn làm phân hóa các mức năng lượng; b) sự 
xen phủ giữa phổ hấp thụ và phát xạ của CQDs. 
Sự thay đổi trong tính chất quang của CQDs 
trạng thái rắn so với trạng thái dung dịch có 
thể được giải thích do (1) tương tác π-π giữa 
CQDs ở trạng thái rắn và (2) do sự tăng 
cường trong quá trình truyền năng lượng giữa 
các CQDs. Khi các hệ liên hợp xếp chồng lên 
nhau dựa vào tương tác π-π, tương tác điện tử 
giữa các obital phân tử π tạo thành các trạng 
thái điện tử mới có năng lượng cao hơn hoặc 
thấp hơn so với năng lượng của obital phân tử 
cũ [23]. Tương tự, khi CQDs ở trạng thái rắn, 
các CQDs xếp chồng lên nhau dựa vào tương 
tác π-π như trình bày ở trên hình 3 dẫn tới sự 
phân hóa các mức năng lượng đồng thời làm 
hẹp lại khoảng cách HOMO-LUMO như mô tả 
trên mô hình 5a. Điều này giải thích tại sao đỉnh 
hấp thụ và định kích thích phát xạ chuyển dịch 
về vùng bước sóng dài hơn (Hình 4a, b). 
Ngoài ra, CQDs hấp thụ đáng kể ở vùng trên 
380 nm, đặc biệt ở trạng thái rắn. Do đó, ánh 
sáng phát xạ từ một CQD sẽ phần nào bị hấp 
thụ bởi các CQDs ở bên cạnh như biểu diễn 
bởi vùng xen phủ giữa phổ hấp thụ và phổ 
phát xạ trên hình 5b. Quá trình truyền năng 
lượng giữa các CQDs không đáng kể ở trạng 
thái dung dịch do các CQDs nằm cách xa 
nhau. Ở trạng thái rắn, các CQDs nằm gần 
nhau, khoảng 4,14Å (Hình 3), quá trình 
truyền năng lượng trở nên hiệu quả vì hiệu 
suất truyền năng lượng tỷ lệ với 1/r6 (r là 
khoảng cách giữa tâm cho và tâm nhận năng 
lượng). Quá trình truyền năng lượng làm cho 
cường độ phát xạ ở vùng sóng ngắn (< 500 
nm) giảm trong khi cường độ phát xạ ở vùng 
sóng dài ít bị ảnh hưởng. Kết quả là phổ phát 
xạ của CQDs rắn chuyển dịch đáng kể về phía 
sóng dài so với phổ của CQDs ở trạng thái 
dung dịch (Hình 4c). 
4. Kết luận 
Phân tích sự thay đổi về phổ hấp thụ của sản 
phẩm phản ứng phân hủy nhiệt hỗn hợp CA 
và EDA cho thấy sự hình thành CQDs có 
chứa các nhóm chức quang hoạt F trên bề mặt 
tương tự như sự hình thành của CQDs theo 
phương pháp thủy nhiệt. Ở trạng thái rắn, 
tương tác π-π làm các CQDs xếp chồng lên 
nhau tương tự cấu trúc graphite, đồng thời 
làm phân hóa các mức năng lượng ban đầu 
của CQDs; do đó dẫn tới sự chuyển dịch đỏ 
của cực đại hấp thụ. Bên cạnh đó, quá trình 
truyền năng lượng giữa các CQDs được tăng 
cường ở trạng thái rắn làm chuyển dịch vùng 
phát xạ khoảng 0,4 eV. Ảnh hưởng của tương 
tác giữa các CQDs đến tính chất quang học 
của CQDs ở trạng thái rắn có ý nghĩa quan 
trọng khi triển khai ứng dụng CQDs trong các 
ứng dụng quang điện tử như OLED hay pin 
mặt trời. 
Lời cám ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ từ nguồn kinh 
phí Khoa học Công nghệ của Trường ĐHSP 
Hà Nội 2 cho đề tài mã số: C.2020-SP2-01. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. X. D. Mai, T. K. C Trinh, T. C. Nguyen, and 
V. T. Ta, “Scalable synthesis of highly 
photoluminescence carbon quantum dots,” 
Mater. Lett., vol. 268, p. 127595, Jun. 2020. 
Mai Văn Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(06): 419 - 423 
 Email: jst@tnu.edu.vn 423 
[2]. F. Yuan et al., “Engineering triangular carbon 
quantum dots with unprecedented narrow 
bandwidth emission for multicolored LEDs,” 
Nat. Commun., vol. 9, no. 1, pp. 1-11, 2018. 
[3]. K. Jiang et al., “Red, green, and blue 
luminescence by carbon dots: Full-color 
emission tuning and multicolor cellular 
imaging,” Angew. Chemie - Int. Ed., vol. 54, 
no. 18, pp. 5360-5363, 2015. 
[4]. F. Ehrat et al., “Tracking the Source of Carbon 
Dot Photoluminescence: Aromatic Domains 
versus Molecular Fluorophores,” Nano Lett., 
vol. 17, no. 12, pp. 7710-7716, 2017. 
[5]. T. T. Meiling et al., “Photophysics and 
Chemistry of Nitrogen-Doped Carbon 
Nanodots with High Photoluminescence 
Quantum Yield,” J. Phys. Chem. C, vol. 122, 
no. 18, pp. 10217-10230, 2018. 
[6]. M. Shamsipur, A. Barati, A. A. Taherpour, 
and M. Jamshidi, “Resolving the Multiple 
Emission Centers in Carbon Dots: From 
Fluorophore Molecular States to Aromatic 
Domain States and Carbon-Core States,” J. 
Phys. Chem. Lett., vol. 9, no. 15, pp. 4189-
4198, Aug. 2018. 
[7]. T. H. T. Dang, V. T. Mai, Q. T. Le, N. H. 
Duong, and X. D. Mai, “Post-decorated surface 
fluorophores enhance the photoluminescence of 
carbon quantum dots,” Chem. Phys., vol. 527, 
no. July, p. 110503, 2019. 
[8]. S. Zhu et al., “Highly photoluminescent 
carbon dots for multicolor patterning, sensors, 
and bioimaging,” Angew. Chemie - Int. Ed., 
vol. 52, no. 14, pp. 3953-3957, 2013. 
[9]. R. Hu, L. Li, and W. J. Jin, “Controlling 
speciation of nitrogen in nitrogen-doped 
carbon dots by ferric ion catalysis for 
enhancing fluorescence,” Carbon N. Y., vol. 
111, pp. 133-141, 2017. 
[10]. S. K. Bhunia, A. Saha, A. R. Maity, S. C. 
Ray, and N. R. Jana, “Carbon nanoparticle-
based fluorescent bioimaging probes,” Sci 
Rep., vol. 3, p.1473, 2013. 
[11]. F. Yang et al., “Toward Structurally 
Defined Carbon Dots as Ultracompact 
Fluorescent Probes,” ACS Nano, vol. 8, no. 5, 
pp. 4522-4529, 2014. 
[12]. M. J. Molaei, “Carbon quantum dots and 
their biomedical and therapeutic applications: 
A review,” RSC Adv., vol. 9, no. 12, pp. 
6460–6481, 2019. 
[13]. B. Cui et al., “The use of carbon quantum 
dots as fluorescent materials in white LEDs,” 
Xinxing Tan Cailiao/New Carbon Mater., vol. 
32, no. 5, pp. 385-401, 2017. 
[14]. W. U. Khan, D. Wang, and Y. Wang, 
“Highly Green Emissive Nitrogen-Doped 
Carbon Dots with Excellent Thermal Stability 
for Bioimaging and Solid-State LED,” Inorg. 
Chem., vol. 57, no. 24, pp. 15229-15239, 2018. 
[15]. Q. B. Hoang, V. T. Mai, D. K. Nguyen, 
D. Q. Truong, and X. D. Mai, “Crosslinking 
induced photoluminescence quenching in 
polyvinyl alcohol-carbon quantum dot 
composite,” Mater. Today Chem., vol. 12, pp. 
166-172, Jun. 2019. 
[16]. D. V. Talapin, J. S. Lee, M. V. 
Kovalenko, and E. V. Shevchenko, “Prospects 
of colloidal nanocrystals for electronic and 
optoelectronic applications,” Chem. Rev., vol. 
110, no. 1, pp. 389-458, 2010. 
[17]. J. B. Essner, J. A. Kist, L. Polo-Parada, and 
G. A. Baker, “Artifacts and Errors Associated 
with the Ubiquitous Presence of Fluorescent 
Impurities in Carbon Nanodots,” Chem. Mater., 
vol. 30, no. 6, pp. 1878-1887, 2018. 
[18]. A. Sharma, T. Gadly, S. Neogy, S. K. 
Ghosh, and M. Kumbhakar, “Molecular Origin 
and Self-Assembly of Fluorescent Carbon 
Nanodots in Polar Solvents,” J. Phys. Chem. 
Lett., vol. 8, no. 5, pp. 1044-1052, 2017. 
[19]. X. D. Mai, H. N. Tran, T. H. Bui, “ab initio 
calculations to clarify the optical properties of 
carbon quantum dots,” HPU2 Journal of 
Science, vol. 56, no. 8, pp. 24-31, 2018. 
[20]. Y. Song et al., “Investigation from 
chemical structure to photoluminescent 
mechanism: A type of carbon dots from the 
pyrolysis of citric acid and an amine,” J. 
Mater. Chem. C, vol. 3, no. 23, pp. 5976-
5984, 2015. 
[21]. M. Shamsipur, A. Barati, A. A. 
Taherpour, and M. Jamshidi, “Resolving the 
Multiple Emission Centers in Carbon Dots: 
From Fluorophore Molecular States to 
Aromatic Domain States and Carbon-Core 
States,” J. Phys. Chem. Lett., vol. 9, no. 15, 
pp. 4189-4198, 2018. 
[22]. M. Li, C. Hu, C. Yu, S. Wang, P. Zhang, 
and J. Qiu, “Organic amine-grafted carbon 
quantum dots with tailored surface and 
enhanced photoluminescence properties,” 
Carbon N. Y., vol. 91, pp. 291-297, 2015. 
[23]. R. Zhao, and R. Q. Zhang, “A new insight 
into π-π Stacking involving remarkable orbital 
interactions,” Phys. Chem. Chem. Phys., vol. 
18, no. 36, pp. 25452–25457, 2016. 

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_truyen_nang_luong_tang_cuong_giua_cac_cham_luong_t.pdf