Quá trình phát triển lý luận về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam (từ đại hội VI đến nay)

Từ Đại hội VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng

phát triển lý luận về nội dung và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó

có lý luận về hệ thống chính trị. Qua gần 30 năm đổi mới, hệ thống chính trị Việt

Nam ngày càng được hoàn thiện; Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng được tổ chức hợp lý hơn, hoạt động hiệu

quả hơn; cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ ngày

càng phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm ổn định chính trị,

giữ vững an ninh, quốc phòng, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước.

pdf 10 trang kimcuc 10040
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình phát triển lý luận về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam (từ đại hội VI đến nay)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình phát triển lý luận về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam (từ đại hội VI đến nay)

Quá trình phát triển lý luận về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam (từ đại hội VI đến nay)
Quá trình phát triển lý luận... 
 3 
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG 
CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
 (TỪ ĐẠI HỘI VI ĐẾN NAY) 
NGUYỄN VĂN HUYÊN * 
Tóm tắt: Từ Đại hội VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng 
phát triển lý luận về nội dung và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó 
có lý luận về hệ thống chính trị. Qua gần 30 năm đổi mới, hệ thống chính trị Việt 
Nam ngày càng được hoàn thiện; Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các 
đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng được tổ chức hợp lý hơn, hoạt động hiệu 
quả hơn; cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ ngày 
càng phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm ổn định chính trị, 
giữ vững an ninh, quốc phòng, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước. 
Từ khóa: Lý luận; hệ thống chính trị; Đảng Cộng sản Việt Nam; chính trị; 
đổi mới hệ thống chính trị. 
1. Mở đầu 
 Một nội dung quan trọng trong 
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản 
Việt Nam từ Đại hội VI đến nay là đổi 
mới nhận thức lý luận về nội dung, 
phương thức hoạt động, cơ cấu, tổ chức, 
sự vận hành của hệ thống chính trị. 
Những quan điểm đổi mới của Đảng ta 
về hệ thống chính trị suốt 5 kỳ Đại hội 
(VI - XI) là những bước tiến lớn và đầy 
ý nghĩa; phản ánh đúng đắn và sâu sắc 
về bản chất chính trị xã hội chủ nghĩa; 
sát thực hơn với quá trình thực hiện 
trong thực tế mục tiêu chính trị cao đẹp 
của Đảng và Nhân dân ta; vượt qua 
được nhận thức hạn chế trước đây có 
tính tách biệt, đối lập chính trị - xã hội 
của hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư 
bản chủ nghĩa; bổ sung, làm phong phú 
nhiều nội dung mới phù hợp, nhiều cách 
thức mới hữu hiệu để từng bước quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn 
cầu hóa và hội nhập quốc tế đầy phức 
tạp hiện nay.(*) 
2. Về khái niệm hệ thống chính trị 
Việc sử dụng khái niệm “Hệ thống 
chính trị” thay cho khái niệm “Hệ thống 
chuyên chính vô sản” (Hội nghị Trung 
ương 6 Khóa VI) thể hiện sự nhận thức 
mới về chính trị - nó không chỉ vượt qua 
được tính chất nặng về bản chất giai cấp 
và mặt chuyên chính của chính trị; điều 
quan trọng hơn là, chú trọng và nhấn 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia 
Hồ Chí Minh. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014 
 4 
mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và 
mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành 
hệ thống, điều mà trước Đại hội VI 
“chưa được cụ thể hóa thành thể chế”(1). 
Hệ thống chính trị Việt Nam gồm Đảng, 
Nhà nước, Mặt trận tổ quốc (MTTQ) và 
các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ 
thể hiện tính chỉnh thể về tổ chức, tính 
đại diện trong xã hội, mà còn khu biệt 
khá rõ giữa hệ thống tổ chức bộ máy với 
các yếu tố khác của nền chính trị, định 
hình rõ các tổ chức quần chúng trong hệ 
thống chính trị; vượt lên quan niệm 
chưa phù hợp trong việc cụ thể hóa cơ 
chế tổng thể: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước 
quản lý, Nhân dân lao động làm chủ tập 
thể” trước đây. 
3. Về mục tiêu tổng quát của hệ 
thống chính trị 
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” 
(1991) xác định rõ: “Toàn bộ tổ chức và 
hoạt động của hệ thống chính trị nước ta 
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng 
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc 
về nhân dân”(2). Văn kiện Đại hội VII 
cũng nhấn mạnh: “Thực hiện dân chủ xã 
hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi 
mới, kiện toàn hệ thống chính trị. Đây 
vừa là mục tiêu vừa là động lực của 
công cuộc đổi mới”(3). Quan điểm mới 
của Đảng thể hiện rõ: Đổi mới hệ thống 
chính trị là làm cho chế độ chính trị đã 
được kiến lập ở nước ta ngày càng vững 
mạnh hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ 
hơn bản chất xã hội chủ nghĩa của nó, 
phát huy tính ưu việt và vai trò tích cực 
của chính trị đối với sự phát triển kinh tế 
- xã hội. Đổi mới hệ thống chính trị là 
nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ 
thống hoạt động có hiệu lực và hiệu quả 
cao hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình 
thức, trên cơ sở xác định rõ, thực hiện 
đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ 
chức và xác lập cơ chế vận hành thông 
suốt, chặt chẽ của cả hệ thống theo sự 
lãnh đạo của hạt nhận - Đảng Cộng sản 
Việt Nam.(1) 
4. Về yêu cầu của đổi mới hệ thống 
chính trị 
Đổi mới hệ thống chính trị, theo quan 
điểm của Đảng, là nhằm làm cho quyền 
lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân, 
từng bước hoàn thiện và nâng cao trình 
độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong 
quá trình đổi mới hệ thống chính trị, 
phải bảo đảm các điều kiện để cả hệ 
thống chính trị và mỗi bộ phận của nó 
thực hành quyền lực chính trị của mình; 
phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng 
chính đáng về dân chủ của nhân dân; 
phải căn cứ ý thức, trình độ và năng lực 
thực hành dân chủ mà xác định nội dung 
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự 
thật, Hà Nội, tr. 110. 
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Cương lĩnh 
xây dựng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, tr. 19. 
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 90. 
Quá trình phát triển lý luận... 
 5 
đổi mới hệ thống chính trị, từng bước 
nâng cao hiệu lực và hiệu qủa hoạt động 
của hệ thống vì mục tiêu xã hội chủ 
nghĩa; phải xuất phát từ sự tiến bộ về ý 
thức, trình độ, năng lực và khả năng làm 
chủ thực tế của nhân dân đối với phát 
triển và tiến bộ xã hội mà đánh giá sự 
tiến bộ của hệ thống chính trị. Chỉ khi, 
nhân dân (với tư cách là người chủ và 
người làm chủ, là chủ thể gốc của quyền 
lực chính trị) thực sự tham gia xây 
dựng, thực thi quyền lực chính trị của 
mình và kiểm tra, giám sát việc thực thi 
quyền lực của các tổ chức trong hệ 
thống chính trị, thì khi đó hệ thống 
chính trị mới được gọi là phù hợp, thực 
sự thực hiện chức năng, mục đích chính 
trị của mình. 
Với mục tiêu và yêu cầu nêu trên, 
việc đầu tiên của đổi mới hệ thống chính 
trị là xác định đúng và rõ chức năng, 
nhiệm vụ của từng tổ chức của hệ thống 
chính trị; từ đó, định rõ vị thế của từng 
bộ phận, nhất là mối quan hệ giữa các 
thành tố trong toàn chỉnh thể với các 
thiết chế thống nhất, tạo cơ chế cho từng 
thành tố và toàn chỉnh thể hoạt động 
thông suốt, không trùng lặp, chồng 
chéo, lấn sân hoặc đùn đẩy trách nhiệm, 
làm suy yếu, thậm chí trì trệ cả hệ 
thống. Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, 
Đảng luôn khẳng định vị trí hạt nhân 
chính trị của Đảng với chức năng, nhiệm 
vụ của mình trong hệ thống chính trị: 
“Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị, 
nhưng là bộ phận hạt nhân lãnh đạo toàn 
bộ hệ thống ấy”. Đây không phải là sự 
áp đặt chủ quan của Đảng đối với hệ 
thống chính trị, mà là sự xác định khoa 
học, nói lên tất yếu vị thế của Đảng 
trong sứ mệnh thực hiện mục tiêu và lý 
tưởng của Đảng và của Nhân dân. Đại 
hội XI đưa ra quan điểm mới về Đảng 
Cộng sản Việt Nam: “Đảng đại diện cho 
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân 
dân lao động và cho dân tộc”. Để đảm 
đương được sứ mệnh trọng đại đó, Đảng 
phải là hạt nhân chính trị của cả hệ 
thống chính trị, lãnh đạo toàn bộ hệ 
thống và xã hội, chịu trách nhiệm đối 
với những quyết định của mình trước 
toàn hệ thống và toàn dân. Nhà nước là 
bộ phận trụ cột của hệ thống chính trị, 
dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện 
chức năng quản lý đối với toàn bộ hoạt 
động của nhà nước. Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện chức 
năng thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức 
thực hiện chủ trương, đường lối, Cương 
lĩnh của Đảng, quản lý toàn diện xã hội. 
Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị 
của các tổ chức chính trị - xã hội, các 
đoàn thể nhân dân, là cơ sở chính trị của 
chính quyền nhân dân, có vai trò quan 
trọng trong việc củng cố khối đại đoàn 
kết toàn dân, phản biện và giám sát xã 
hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, 
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. 
 Qua 5 kỳ Đại hội (VI - XI), Đảng đã 
xác định một cách có căn cứ khoa học, 
có cơ sở thực tiễn về vị trí, vai trò của 
các bộ phận cơ bản của hệ thống chính 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014 
 6 
trị, phân định rõ và hợp lý dần các chức 
năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng 
bộ phận, từng bước khắc phục sự không 
rõ ràng, chồng chéo, lấn sân nhau, làm 
giảm hiệu lực, hiệu quả của nhau và của 
cả hệ thống. Văn kiện Đại hội XI viết: 
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì 
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về 
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa 
giai cấp công nhân với giai cấp nông 
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng 
sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà 
nước là thống nhất, có sự phân công, 
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan 
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, 
hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành 
pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng 
pháp luật và không ngừng tăng cường 
pháp chế xã hội chủ nghĩa”(4); “Mặt trân 
Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính 
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức 
chính tri, tổ chức chính trị - xã hội, tổ 
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu 
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các 
dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam ở 
nước ngoài... là một bộ phận của hệ 
thống chính trị, là cơ sở chính trị của 
chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản 
Việt Nam là thành viên vừa là người 
lãnh đạo Mặt trận... hoạt động theo 
nguyên tắc tự nguyện hiệp thương dân 
chủ, phối hợp và thống nhất hành động 
giữa các thành viên”(5); “Đảng Cộng sản 
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp 
công nhân, đồng thời là đội tiên phong 
của nhân dân lao động và của dân tộc 
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích 
của giai cấp công nhân, nhân dân lao 
động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm 
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho 
hành động, lấy tập trung dân chủ làm 
nguyên tắc tổ chức cơ bản”(6). 
 Một trọng tâm của đổi mới hệ thống 
chính trị là đổi mới tổ chức và phương 
thức hoạt động của các bộ phận cấu 
thành hệ thống. Thực tế, dù từng bộ 
phận đã được cải tiến tổ chức, phân định 
vị trí, chức năng, nhiệm vụ tương đối 
hợp lý; song trong từng bộ phận, bộ máy 
còn cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng 
nấc trung gian không cần thiết, cản trở 
lớn đến hoạt động sản xuất và quản lý 
xã hội; các tổ chức của Đảng, Nhà nước 
và các đoàn thể nhân dân hoạt động kém 
hiệu quả; sự vận hành của hệ thống 
chính trị chưa thông suốt, nhiều khâu trì 
trệ. Đảng đề ra quan điểm đổi mới Nhà 
nước: “Quyền lực nhà nước là thống 
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm 
soát giữa các cơ quan trong việc thực 
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư 
pháp”, “Nhà nước phục vụ Nhân dân... 
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của 
Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến 
của Nhân dân và chịu sự giám sát của 
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội, tr. 85. 
(5) Sđd, tr. 87. 
(6) Sđd, tr. 88. 
Quá trình phát triển lý luận... 
 7 
Nhân dân, có cơ chế và biện pháp kiểm 
soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, 
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, 
lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ 
của công dân”(7). Đối với Mặt trận Tổ 
quốc, Đảng khẳng định vai trò rất quan 
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn 
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp chính đáng của nhân dân,... tham 
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng 
cường mối liên hệ giữa Nhân dân với 
Đảng, Nhà nước, tham gia quản lý Nhà 
nước, quản lý xã hội, “Đảng, Nhà nước 
có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để 
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt 
động hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát 
và phản biện xã hội”(8). 
Phương thức hoạt động của hệ thống 
chính trị vẫn đang là lĩnh vực nổi cộm 
hiện nay. Trong đổi mới phương thức 
hoạt động của hệ thống chính trị, Đảng 
chú trọng vào vấn đề mấu chốt nhất là 
đổi mới phương thức lãnh đạo của 
Đảng, khắc phục hai khuynh hướng 
thường xẩy ra trong thực tế: hoặc là 
Đảng bao biện làm thay, hoặc là buông 
lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Trước hết, 
cần nhận thức đúng vấn đề Đảng cầm 
quyền, sự lãnh đạo của Đảng trong điều 
kiện có chính quyền, dân chủ hóa và 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Đại hội XI của Đảng khẳng định: 
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm 
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. 
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và 
trực tiếp, nhưng Đảng không làm thay 
Nhà nước, không được sử dụng quyền 
lực nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước 
ban hành luật pháp, nhưng Đảng phải 
hoạt động trong khuôn khổ của Hiến 
pháp và pháp luật; Đảng giữ vai trò lãnh 
đạo chính trị đối với Nhà nước và cả xã 
hội, nhưng điều đó không có nghĩa 
Đảng chỉ đề ra Cương lĩnh, đường lối 
chung. “Đảng lãnh đạo bằng Cương 
lĩnh, chiến lược, các định hướng về 
chính sách và chủ trương lớn, bằng công 
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, 
tổ chức, kiếm tra, giám sát và bằng hành 
động gương mẫu của đảng viên”, “Đảng 
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ... 
Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng 
và đảng viên hoạt động trong các tổ 
chức của hệ thống chính trị”(9). Ngay từ 
Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII, Đảng 
đã cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của 
Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, các 
cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và 
các đoàn thể nhân dân, làm cơ sở để 
từng cấp trong hệ thống chính trị xây 
dựng phương thức lãnh đạo của Đảng, 
phương thức quản lý của chính quyền và 
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ 
quốc. Quan điểm đổi mới phương thức 
lãnh đạo của Đảng đã tạo điều kiện cho 
cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản 
lý - Nhân dân làm chủ tăng thêm được 
(7) Sđd, tr. 86. 
(8) Sđd, tr. 86 - 87. 
(9) Sđd, tr. 89. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014 
 8 
hiệu lực và hiệu quả. Đổi mới về 
phương thức lãnh đạo của Đảng là một 
bước đột phá quan trọng vào khâu khó 
nhất, nhạy cảm nhất mà trước đây chưa 
tháo gỡ được. Tuy nhiên, ở đây cũng 
còn nhiều bất cập mà việc hóa giải 
chúng phải tiếp tục đột phá trên cơ sở 
gắn lý luận với thực tiễn, chính trị với 
khoa học, mà chính trị phải tiến sát tới 
khoa học. 
5. Về mối quan hệ và sự vận hành 
của cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước 
quản lý - Nhân dân làm chủ 
Phương hướng cơ bản của cơ chế 
Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - 
Nhân dân làm chủ, một mặt là bảo đảm 
cho hệ thống chính trị hoạt động hiệu 
lực và hiệu quả; mặt khác, mở rộng và 
thực thi dân chủ, bảo đảm mọi quyền 
lực thuộc về nhân dân, bảo đảm sự tham 
gia của nhân dân vào quản lý công việc 
nhà nước và xã hội. Quan hệ biện chứng 
và cơ chế vận hành hợp lý ở đây là: 
Nhân dân làm chủ trên cơ sở sự lãnh đạo 
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; 
sự lãnh đạo, quản lý đó phải trên nền 
tảng “dân là gốc”, phải đúng bản chất và 
mục đích “dân là chủ và dân làm chủ”. 
Chế độ dân chủ của xã hội ta được Hồ 
Chí Minh nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi 
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều 
của dân, công việc đổi mới, xây dựng xã 
hội là trách nhiệm của dân... Nói tóm 
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi 
dân”. “Nhân dân làm chủ” là thành tố 
quan trọng nhất trong cơ chế tổng thể 
nêu trên, nó phải là mục tiêu cao nhất 
của quá trình thực hiện cơ chế đó trong 
thực tiễn. Nhân dân trao quyền lãnh đạo 
xã hội và thực hiện sự nghiệp cách 
mạng của dân cho Đảng để Đảng thực 
hiện khát vọng tự do, dân chủ, quyền 
làm chủ của nhân dân. Nhân dân lập ra 
Nhà nước thông qua cơ chế bầu cử dân 
chủ và tự do, ủy quyền và ủy nhiệm cho 
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, 
thay mặt nhân dân thực thi quyền lực 
nhà nước. Nhà nước như vậy là “Nhà 
nước của dân, do dân và vì dân”. Nó 
phải có trách nhiệm hoàn thành sứ 
mệnh do nhân dân giao phó, phải làm 
tất cả để mọi công dân thực hiện tốt 
nhất các quyền của mình. Hiệu quả 
thực sự của sự lãnh đạo của Đảng, sự 
quản lý của Nhà nước chính là làm cho 
Nhân dân phát huy cao nhất sự làm 
chủ, đạt thành quả lớn nhất trong quá 
trình làm chủ của mình. 
Một bước đột phá mới trong đổi mới 
hệ thống chính trị của Đảng là đổi mới 
hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã, 
phường, thị trấn. Đảng ta nhận thức sâu 
sắc rằng, hệ thống chính trị ở cơ sở là 
nền tảng vững chắc của toàn bộ hệ 
thống chính trị. Cho nên, đổi mới hệ 
thống chính trị phải từ trên xuống và từ 
dưới lên, từ cấp Trung ương xuống cơ 
sở và ngược lại. Củng cố vững chắc và 
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động 
của hệ thống chính trị cấp cơ sở, thực 
hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở” (1998) 
và “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, 
Quá trình phát triển lý luận... 
 9 
phường, thị trấn” (2007) với phương 
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân 
kiểm tra” là đảm bảo vững chắc cho 
việc ổn định chính trị, thúc đẩy đổi mới 
kinh tế và chính trị từ cơ sở, phòng ngừa 
và giải quyết ngay từ đầu các mâu thuẫn 
trong nội bộ nhân dân, chống tiêu cực 
nội bộ và các âm mưu phá hoại của các 
thế lực thù địch. Trên cơ sở giữ vững ổn 
định, xác định và thực hiện đúng 
phương hướng đổi mới hệ thống chính 
trị nhằm phát huy cao nhất vai trò của 
các tổ chức trong hệ thống và quyền làm 
chủ của Nhân dân, Đảng đã hướng mạnh 
về cơ sở, củng cố cơ sở xã hội của chính 
trị, trân trọng các sáng kiến sáng tạo từ 
cơ sở, theo đó, Hội nghị Trung ương 5 
Khóa IX (2002) đã đưa ra Nghị quyết về 
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt 
động của hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc 
biệt là vùng nông thôn. Đổi mới hệ 
thống chính trị cấp cơ sở là một phát 
triển mới của Đảng theo tinh thần “cách 
mạng là sự nghiệp của nhân dân”, chính 
trị là ý chí, là sức mạnh và là cuộc sống 
của hàng chục triệu quần chúng; chủ 
trương đó đã từng bước nâng cao vai trò 
tự quản cộng đồng và làm chủ xã hội 
của nhân dân, góp phần xây dựng chính 
quyền nhân dân vững mạnh. 
6. Về xây dựng và hoàn thiện nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa 
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày 
càng được Đảng ta nhận thức đầy đủ 
hơn, sâu sắc hơn. Đại hội X của Đảng 
ghi: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là 
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc 
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 
thể hiện sự gắn bó giữa Đảng, Nhà nước 
và Nhân dân. Đại hội XI của Đảng bổ 
sung đầy đủ hơn: “Dân chủ xã hội chủ 
nghĩa là bản chất của xã hội ta, vừa là 
mục tiêu vừa là động lực của sự phát 
triển đất nước. Xây dựng và từng bước 
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện 
trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên 
tất cả các lĩnh vực”, “Nhà nước tôn 
trọng và bảo đảm các quyền con người, 
quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự 
phát triển tự do của mỗi người. Quyền 
và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và 
pháp luật quy định. Quyền của công dân 
không tách rời nghĩa vụ công dân”, 
“Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương 
và phải được thể chế hóa bằng pháp 
luật, được pháp luật bảo đảm”, “Nhân 
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua 
hoạt động của Nhà nước, của cả hệ 
thống chính trị và các hình thức dân chủ 
trực tiếp, dân chủ đại diện”(10). 
Đại hội X, XI của Đảng phát triển 
nhiều quan điểm mới về quyền làm chủ 
của nhân dân: Xây dựng một xã hội dân 
chủ, trong đó, cán bộ, đảng viên, công 
chức phải thật sự là công bộc của nhân 
dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ 
của nhân dân, đồng thời là người tổ 
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của 
Đảng. Mọi đường lối của Đảng, chính 
(10) Sđd, tr. 85. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014 
 10 
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi 
ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến 
của dân. Thực hiện phương châm “Dân 
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối 
với các chủ trương, chính sách lớn của 
Đảng và Nhà nước. Thực hiện dân chủ 
trong quá trình chuẩn bị ra các quyết 
định và tổ chức thực hiện các quyết 
định, thông qua các cơ quan dân cử, các 
tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nghề 
nghiệp. Thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ 
sở bằng các hình thức nhân dân tự quản, 
bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở 
phù hợp với luật pháp, tạo điều kiện để 
nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo 
luận và quyết định những vấn đề quan 
trọng. Chăm lo phát triển con người, bảo 
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con 
người, tôn trọng và thực hiện các điều 
ước quốc tế về quyền con người. 
7. Một số vấn đề đặt ra đối với việc 
tiếp tục đổi mới nhận thức về hệ 
thống chính trị 
Hệ thống chính trị được nhận thức 
mới; cơ cấu, tổ chức của hệ thống 
chính trị đã được cải tiến; các bộ phận 
của hệ thống chính trị được xác định 
rõ, hợp lý hơn; hiệu lực và hiệu quả 
hoạt động của hệ thống chính trị được 
nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, về mặt 
vận hành và chất lượng hoạt động 
trong thực tiễn còn nhiều bất cập và 
nhiều vấn đề đang đặt ra. 
Về Đảng lãnh đạo 
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà 
nước và xã hội vừa được tăng cường, 
vừa có mặt bất cập, thể hiện ở trí tuệ, 
trình độ, năng lực lãnh đạo và sức chiến 
đấu. Chưa thể chế hóa rõ quan hệ và cơ 
chế vận hành giữa Đảng và Nhà nước để 
hai chủ thể này phát huy tốt vai trò của 
mình. Nhiều nội dung, phương thức lãnh 
đạo còn trùng lặp, chưa rõ quyền hạn và 
trách nhiệm, dẫn đến chậm xử lý và 
quyết định công việc. Sự suy thoái tư 
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của 
cán bộ, đảng viên với những biểu hiện 
nghiêm trọng trong tham nhũng, quan 
liêu, hách dịch, xa dân, chủ nghĩa hình 
thức ngày càng tăng. Lòng tin của dân 
đối với Đảng bị suy giảm. Trong lý 
thuyết, các bộ phận của hệ thống chính 
trị đã được phân công, song trong thực 
tế, mỗi bộ phận chưa thực hiện đúng 
như vậy. Chính phủ không thể bãi 
nhiệm hoặc kỷ luật, thuyên chuyển một 
chủ tịch tỉnh có khuyết điểm hoặc không 
đáp ứng năng lực, mà phải do cấp ủy 
Đảng hoặc Bộ Chính trị quyết định. Cấp 
ủy Đảng còn can thiệp vào việc điều tra, 
xét xử một số vụ án. Còn có sự chồng 
chéo trong việc ra các văn bản chỉ đạo 
(Chính phủ) và chỉ thị (Ban Bí thư) về 
cùng một công việc (an toàn giao thông, 
chống tệ nạn xã hội, an toàn vệ sinh 
thực phẩm, v.v.). Từ thực trạng đó, 
những vấn đề đặt ra là: Đảng lãnh đạo 
hệ thống chính trị, đồng thời là thành 
viên của hệ thống đó và Đảng là thành 
viên của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời 
lãnh đạo Mặt trận. Vậy tính chất và cơ 
chế làm việc của các mối quan hệ đó là 
Quá trình phát triển lý luận... 
 11 
như thế nào? Đảng lãnh đạo như thế nào 
đối với các thành phần và các tổ chức 
kinh tế khác nhau trong điều kiện kinh 
tế thị trường ? Làm thế nào để từng bộ 
phận của hệ thống chính trị thực sự độc 
lập, tự chủ trong việc thực hiện đúng 
chức năng, nhiệm vụ của mình, không 
chồng chéo, trùng lặp, lấn sân nhau ? 
Về Nhà nước quản lý 
Hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà 
nước đã được nâng lên một bước, nhưng 
chủ yếu là trong kinh tế, còn quản lý xã 
hội còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, hiệu 
lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước 
thấp, nhiều bất cập; tổ chức còn cồng 
kềnh, hoạt động còn thiếu chuyên 
nghiệp, chưa bảo đảm Nhà nước pháp 
quyền. Cải cách hành chính chưa đạt 
yêu cầu; thủ tục hành chính nặng nề, 
gây ách tắc công việc công và tư, gây 
nhiều tiêu cực xã hội. Đội ngũ công 
chức còn hạn chế về trình độ, nghiệp vụ, 
đạo đức, lối sống. Việc xây dựng pháp 
luật thiếu hệ thống, đồng bộ, việc thi 
hành pháp luật chưa đúng phép nước 
làm cho Nhà nước kém hiệu lực, xã hội 
thiếu kỷ cương. Thực thi luật pháp yếu 
kém, nhiều luật không vào cuộc sống, 
không tác dụng tới kinh tế - xã hội. 
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự 
phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn 
nhau, song mô hình này chưa tạo được 
năng lực hoạt động tốt trong thực tế. Từ 
thực trạng đó, những vấn đề đặt ra là: 
Làm thế nào để Nhà nước thực sự có 
hiệu lực, hoạt động có hiệu quả, tránh 
tình trạng yếu kém hiện nay? Sự kiểm 
soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền 
lực lập pháp, hành pháp, tư pháp là thế 
nào, cơ chế kiểm soát ra sao? 
Về Nhân dân làm chủ 
Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước 
quản lý chưa phát huy sự làm chủ thực 
sự của Nhân dân. Hiện tại, cơ chế đó cơ 
bản vẫn chỉ vận hành theo một chiều: 
Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý. 
Nguyên lý Nhân dân là chủ và làm chủ 
chưa được bảo đảm trên thực tế. Vị trí 
và vai trò làm chủ của Nhân dân rất hạn 
chế. Việc nhân dân giám sát đối với 
chính quyền, việc Mặt trận Tổ quốc 
giám sát và phản biện xã hội trên thực tế 
còn hạn chế. Sự làm chủ của nhân dân 
thông qua dân chủ đại diện và dân chủ 
trực tiếp còn mang nhiều tính hình thức. 
Từ thực trạng đó, những vấn đề đặt ra 
là: Làm thế nào để Mặt trận Tổ quốc và 
các đoàn thể nhân dân không bị “nhà 
nước hóa”, “hành chính hóa”, “hình 
thức hóa”? Nhân dân giám sát Đảng, 
Nhà nước bằng cách nào, với các cơ chế 
nào? Bằng cách nào và theo cơ chế nào 
để nhân dân tham gia quyết định các vấn 
đề quan trọng của Đảng và Nhà nước và 
phản biện xã hội về những quyết định 
đó? Nhân dân có quyền chất vấn, đối 
thoại thẳng thắn, dân chủ đối với các cơ 
quan Đảng, Nhà nước, song làm thế nào 
để Nhân dân nói thật, nói hết chính kiến 
của mình và cơ chế nào để tránh sự trù 
úm, trả thù đối với sự nói thật, nói hết, 
tố cáo của người dân? 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014 
 12 

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_phat_trien_ly_luan_ve_he_thong_chinh_tri_cua_dang.pdf