Phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1951

Lý luận và thực tiễn đã cho thấy rằng, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều

kiện Đảng cầm quyền, yêu cầu tất yếu Đảng không chỉ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức,

đạo đức, mà còn phải có phương thức lãnh đạo khoa học, cho phép hoạch định được những quan

điểm, chủ trương, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn và có năng lực đưa những quan điểm, chủ trương đó

vào cuộc sống, biến thành hành động sáng tạo. Chính vì vậy, luận bàn về phương thức lãnh đạo

của Đảng đã được nhiều công trình khoa học làm sáng tỏ, song nghiên cứu một cách trực tiếp về

phương thức lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1945 - 1951 vẫn chưa có công trình nào. Qua việc phân

tích, tổng hợp vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đi vào khái quát một số phương thức lãnh đạo cơ bản của

Đảng để thấy rằng, vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một vấn đề sống còn của

Đảng, của chế độ nhằm hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.

pdf 5 trang kimcuc 9580
Bạn đang xem tài liệu "Phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1951", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1951

Phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1951
ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 3 - 7 
 Email: jst@tnu.edu.vn 3 
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
 GIAI ĐOẠN 1945 - 1951 
Nguyễn Tuấn Anh 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Lý luận và thực tiễn đã cho thấy rằng, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều 
kiện Đảng cầm quyền, yêu cầu tất yếu Đảng không chỉ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, 
đạo đức, mà còn phải có phương thức lãnh đạo khoa học, cho phép hoạch định được những quan 
điểm, chủ trương, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn và có năng lực đưa những quan điểm, chủ trương đó 
vào cuộc sống, biến thành hành động sáng tạo. Chính vì vậy, luận bàn về phương thức lãnh đạo 
của Đảng đã được nhiều công trình khoa học làm sáng tỏ, song nghiên cứu một cách trực tiếp về 
phương thức lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1945 - 1951 vẫn chưa có công trình nào. Qua việc phân 
tích, tổng hợp vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đi vào khái quát một số phương thức lãnh đạo cơ bản của 
Đảng để thấy rằng, vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một vấn đề sống còn của 
Đảng, của chế độ nhằm hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. 
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; Đảng cầm quyền; lãnh đạo; phương thức lãnh đạo; khoa học. 
Ngày nhận bài: 19/12/2019; Ngày hoàn thiện: 09/05/2020; Ngày đăng: 12/05/2020 
THE MODE OF THE COMMUNIST PARTY 
OF VIET NAM’S LEADERSHIP IN THE PERIOD 1945 - 1951 
 Nguyen Tuan Anh 
 TNU - University of Education 
ABSTRACT 
The theory and practice have shown that in order to maintain and strengthen the Party's leadership 
in the context of the ruling Party, the Party is indispensable not only in terms of politics, ideology, 
organization, and morality but also must have a scientific leadership method, which allows to plan 
the right viewpoints, guidelines and ideologies and be able to bring those ideas and policies into 
life, turning them into bright creative actions. Therefore, the discussion of the Party's leadership 
has been clarified by many scientific works, but there has been no direct research on the Party's 
leadership method in the period of 1945 - 1951. By analyzing and synthesizing research issues, we 
went into a general outline of some basic leadership methods of the Party to see that, research 
issues of particular importance are a vital issue. and of the Party and the regime in order to realize 
the goal of national independence and socialism. 
Keywords: Communist Party of Vietnam; ruling party; leadership; mode of leadership; science. 
Received: 19/12/2019; Revised: 09/05/2020; Published: 12/05/2020 
Email: Tuananhgdct@gmail.com 
Nguyễn Tuấn Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 3 - 7 
 Email: jst@tnu.edu.vn 4 
1. Đặt vấn đề 
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. 
Đất nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự 
do. Nhưng trên thực tế độc lập chưa được bao 
lâu, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta 
một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, 
nhân dân vừa ra sức củng cố, xây dựng và bảo 
vệ chính quyền cách mạng vừa kháng chiến 
chống thực dân Pháp xâm lược, giành được 
thắng lợi. Điều này cho thấy rằng, nhiệm vụ 
của Đảng trong giai đoạn 1945 - 1951 có ý 
nghĩa đặc biệt quan trọng: Trong giai đoạn này 
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trở thành Đảng 
cầm quyền, với sứ mệnh là một Đảng cầm 
quyền, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại thù 
trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền non trẻ 
và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân 
Pháp xâm lược trong 9 năm trường kỳ. Nhưng 
khó khăn nhất cho Đảng lúc này là thiếu thông 
tin liên lạc để kịp thời nắm bắt tình hình và có 
hướng đề ra những chủ trương cho sát với thực 
tế. Vì vậy, để khắc phục khó khăn trên, Trung 
ương Đảng đã nhanh chóng tổ chức và thiết 
lập một hệ thống thông tin liên lạc rộng khắp 
từ dưới lên trên, từ Bắc vào Nam và ngược lại 
thông qua các cá nhân đảng viên gương mẫu, 
tuyệt đối trung thành, gan dạ, mưu trí. Đây là 
một điều hết sức sáng tạo của Trung ương 
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện 
đặc biệt. 
2. Nội dung 
Trên thực tế, phương thức lãnh đạo của 
Đảng được hiểu là là tổng thể các hình thức, 
phương pháp, quy chế, quy trình, phong 
cách, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác 
động vào đối tượng lãnh đạo, nhằm thực 
hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường 
lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, 
giải phóng dân tộc, xây dựng thành công chủ 
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. 
Tuy nhiên, gắn với mỗi điều kiện lịch sử cụ 
thể khác nhau, phương thức lãnh đạo của 
Đảng cần xác định những cách thức, nội 
dung phù hợp với những yêu cầu mục tiêu, 
nhiệm vụ phù hợp. Cụ thể: 
+ Trong điều kiện Đảng chưa có chính quyền: 
phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là 
các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên 
truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của 
Đảng đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt 
cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ 
chức nhân dân thực hiện. Lúc này, quan hệ 
của Đảng với Nhân dân là quan hệ máu thịt; 
mọi sự xa rời Nhân dân đều dẫn đến tổn thất 
cho cách mạng, cho sinh mệnh của tổ chức 
đảng và đảng viên. 
+ Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, 
lúc này chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc 
bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính 
sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự 
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Do đó, 
ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục 
nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền (Nhà 
nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, 
chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp 
luật, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thực 
chất, Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo chính 
quyền và thông qua chính quyền để nhân dân 
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. 
Từ vấn đề lý luận chung về phương thức lãnh 
đạo của Đảng, đối chiếu với giai đoạn 1945 - 
1951, Trung ương Đảng đã lựa chọn và xác 
lập được phương thức lãnh đạo phù hợp với 
điều kiện lịch sử cụ thể. 
2.1. Nắm chắc dân, bám sát đất thực hiện 
hiệm vụ cách mạng 
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ 
nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy, hiếm 
có dân tộc nào trên thế giới phải trải qua 
nhiều cuộc kháng chiến trường kỳ để bảo vệ 
độc lập, chủ quyền như Việt Nam. Và trong 
toàn bộ quá trình lịch sử ấy, bài học “lấy dân 
là gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng 
Cộng sản Việt Nam kh ng định vừa là nền 
tảng, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình 
trong đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất 
nước. Tư tưởng nền tảng này được Đảng đã 
kh ng định, sức mạnh của Đảng là sức mạnh 
của quần chúng nhân dân, được nhân dân tin 
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng đối 
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp xâm lược giai đoạn 1945 - 1951, 
Nguyễn Tuấn Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 3 - 7 
 Email: jst@tnu.edu.vn 5 
phương thức dựa vào dân, bám sát đất đã 
được Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao, dù 
trong trường hợp nào cũng phải nắm cho 
vững bộ đội, củng cố và mở rộng cơ sở đảng, 
thi hành cho được nhiệm vụ quân sự. Tháng 
5- 1948 Nghị quyết Hội Nghị cán bộ trung 
ương lần thứ tư nhấn mạnh, dù hoàn cảnh khó 
khăn thế nào, cán bộ cũng phải bám lấy địa 
phương mà hoạt động. Các cấp ủy ở địa 
phương cũng bắt buộc phải bám lấy địa 
phương mình để lãnh đạo phong trào. Tuy 
nhiên, phương thức lãnh đạo của Đảng chưa 
thật sự hiệu quả tại các vùng sau lưng địch, 
vùng đồng bào công giáo, vùng dân tộc thiểu 
số vì: “Cơ sở đảng trong các vùng địch kiểm 
soát rất hẹp hoặc chưa có. Nhiều thành phố 
chưa gây được lấy một số chi bộ đảng. Nhiều 
vùng công giáo Bắc Bộ quần chúng rất đông 
mà chưa có chi bộ đảng. Đảng bộ Miên - 
Lào chỉ trói tròn trong mấy chi bộ. Ở Nam Bộ 
Đảng bộ phát triển kém, trái lại công đoàn và 
các đoàn thể mặt trận khá rộng. Các đồng chí 
trong Nam dè dặt quá trong việc kết nạp đảng 
viên mới (nhưng cũng có lúc lại rộng quá, ví dụ 
tổ chức "Lớp Tháng Tám" năm ngoái). Đảng 
bộ trong Nam nhỏ hẹp như thế thì không thể 
lãnh đạo được quần chúng nhân dân một 
cách chắc chắn” [1, tr. 234]. 
Trước những bất cập như vậy, ngày 01-6-
1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra 
Chỉ thị Về việc thi đua xây dựng Hội, tập 
trung vào các nhiệm vụ cụ thể như phát triển 
Đảng rộng rãi, đều khắp các vùng, miền, 
trong các tôn giáo, trong đồng bào dân tộc 
thiểu số, trong đó đặc biệt quan tâm chú ý gây 
dựng cơ sở Đảng và tăng cường công tác vận 
động quần chúng ở các vùng trắng, các thành 
phố lớn, xí nghiệp và các trục đường giao 
thông quan trọng. 
a) Đặt hướng phát triển vào tầng lớp bần 
nông, đồng bào miền núi, đồng bào công 
giáo, phụ nữ và phú nông, địa chủ vì hiện nay 
thành phần lớp này rất thưa thớt trog hội ta, 
mà đa số là trung nông, tiểu tư sản. 
b) Tích cực gây dựng sơ sở Hội ở các làng 
gần đường giao thông, ven sông, trong vùng 
địch kiểm soát, vùng biên giới, nơi tập trung 
công nhân (nhất là bên đường thiết lộ số 2 và 
ven bờ sông Lô) [1, tr.455]. Xây dựng cho 
được cơ sở sâu rộng trong khắp các vùng địch 
kiểm soát và chiếm đóng để thực hiện khẩu 
hiệu biến hậu phương của địch thành hậu 
phương của ta. Như vậy, trong điều kiện 
Đảng hoạt động bí mật, Trung ương Đảng đã 
tìm tòi, lựa chọn và xây dựng phương thức 
lãnh đạo nắm dân, bám đất thông qua vai trò 
của các cá nhân đảng viên gương mẫu, có uy 
tín đã phát huy tác dụng trong việc đẩy mạnh 
phong trào toàn dân đánh giặc. Mặt khác làm 
cho mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân 
ngày càng gắn bó, lòng tin của nhân dân đối 
với Đảng, đối với cách mạng ngày càng được 
nâng lên. 
2.2. Nắm chắc và lãnh đạo trực tiếp lực 
lượng vũ trang trong mọi điều kiện 
Cách mạng muốn thành công, điều cốt yếu phải 
có lực lượng tham gia cách mạng, trong đó lực 
lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt. Để phát 
huy sức mạnh của toàn quân đòi hỏi công tác 
đảng, công tác chính trị trong quân đội phải 
được coi là nhân tố quyết định đảm bảo cho 
cách mạng được thắng lợi. Nhận thức được tầm 
quan trọng đó, trong quá trình xây dựng và phát 
triển lực lượng vũ trang Trung ương Đảng đã có 
nhiều nghị quyết để cụ thể hóa vai trò, phương 
thức lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Để tăng 
cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của 
Đảng đối với quân đội, Hội nghị cán bộ Trung 
ương lần thứ tư (miền Bắc Đông Dương) tháng 
5-1948 đề ra nhiệm vụ phát triển và củng cố 
Đảng. Phương hướng chung là phát triển Đảng 
vào các vị trí quân sự quan trọng, đường giao 
thông, vùng dân tộc thiểu số, vùng địch kiểm 
soát (trong đó chú ý các cơ sở kinh tế của địch 
như nhà máy xe lửa, hầm mỏ), trong các 
công binh xưởng, của ngành chuyên môn, trong 
chính quyền của ta. Tháng 8 năm 1948, Hội 
nghị cán bộ Trung ương lần thứ năm của Đảng 
quyết định thống nhất hệ thống tổ chức Đảng, 
bỏ hệ thống cấp ủy Đảng trong quân đội từ 
Trung ương quân ủy, quân khu ủy, thay bằng 
chế độ chính trị ủy viên, đại diện Đảng trong 
quân đội: Tổng chính ủy, chính ủy liên khu, 
chính ủy trung đoàn. Cụ thể hóa Nghị quyết Hội 
nghị cán bộ Trung ương lần thứ 5, ngày 24-10-
1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra 
Nguyễn Tuấn Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 3 - 7 
 Email: jst@tnu.edu.vn 6 
Nghị quyết Về tổ chức và hệ thống Đảng trong 
quân đội. Nghị quyết kh ng định Đảng chỉ có 
một hệ thống tổ chức và thay thế hệ thống cấp 
uỷ đảng trong quân đội (Trung ương Quân ủy, 
Quân khu ủy, Trung đoàn ủy, Tiểu đoàn ủy) 
bằng chế độ chính trị uỷ viên, đại diện đảng phụ 
trách trong quân đội. Nghị quyết đã quy định 
hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội từ cấp 
Trung ương, liên khu và trung đoàn xuống đến 
các tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội. Theo 
đó có các chức danh như Tổng chính uỷ, Chính 
uỷ Liên khu, Chính uỷ Trung đoàn. Ở cấp tiểu 
đoàn có Liên chi ủy, đại đội có chi ủy, trung đội 
có phân chi ủy, tiểu đội có tiểu tổ. Giúp việc 
cho chính ủy các cấp có Uỷ ban quân sự Trung 
ương, Hội đồng kỷ luật ở cấp trung ương và khu 
và trung đoàn; Các ban giúp việc uỷ viên chính 
trị các cấp trung ương, khu và trung đoàn; Các 
uỷ viên phụ trách các ngành chuyên môn ở các 
cấp; Văn phòng của Chính trị uỷ viên ở các cấp. 
Nghị quyết quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn 
của chính trị ủy viên và các cơ quan giúp việc 
nói trên cũng như mối liên hệ với cấp trên, cấp 
dưới và các cấp ủy tương đương của Đảng bộ 
bên ngoài quân đội. Như vậy, chủ trương của 
Trung ương Đảng về tăng cường vai trò lãnh 
đạo tuyệt đối và trực tiếp của Đảng trong quân 
đội đã được thể hiện qua các nghị quyết của 
Đảng ngày càng rõ ràng, trong đó thể hiện rõ 
cùng với việc thực hiện chế độ ủy viên chính trị 
trong quân đội chủ lực từ cấp tỉnh đến cấp xã, 
các đồng chí bí thư kiêm chính trị viên theo các 
cấp độ tỉnh huyện và xã. Từ những chủ trương 
của Đảng về phát triển Đảng trong quân đội và 
phương thức lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của 
Đảng đối với quân đội, đã làm nên thắng lợi vĩ 
đại của quân đội nhân dân Việt Nam trong sự 
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. 
2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với 
nhà nước 
 “Đảng cầm quyền”, nắm quyền lực nhà nước 
bằng cách “Đảng “hóa thân” sự lãnh đạo của 
mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên 
từng phương diện của đời sống kinh tế-xã 
hội” [2, tr. 44]; Đảng Cộng sản cầm quyền, 
Đảng có hệ thống chính trị từ Trung ương đến 
cơ sở, trong đó, Nhà nước là công cụ mạnh 
mẽ, sắc bén của giai cấp công nhân, nhân dân 
lao động, có vai trò đặc biệt quan trọng trong 
thực hiện mục tiêu chính trị Đảng. Đảng cầm 
quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, 
trong đó quan trọng nhất là lãnh đạo Nhà 
nước. Bởi vì, “ở nước ta, “tất cả quyền lực 
Nhà nước thuộc về nhân dân”. Như vậy, nhân 
dân là chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Tuy 
nhiên, muốn sử dụng quyền lực Nhà nước của 
mình, nhân dân phải được tổ chức lại dưới 
hình thức Nhà nước” [3, tr. 50]. 
Ngay sau khi giành được chính quyền, Trung 
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây 
dựng được hệ thống chính trị từ Trung ương 
đến cấp xã, chú trọng đến việc củng cố tư 
tưởng và tổ chức cũng như phương pháp hoạt 
động đảm bảo cho chính quyền thực sự là của 
dân, do dân vì dân. 
Đảng lãnh đạo được Nhà nước thông qua 
Cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, 
chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải 
quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị 
quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ 
động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của 
Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội 
theo pháp luật. Mặt khác Đảng lãnh đạo Nhà 
nước trong việc thể chế hoá, cụ thể hoá đường 
lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn 
của Đảng thành Hiến pháp và pháp luật, kế 
hoạch, các chương trình, mục tiêu lớn Nhà 
nước. Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay 
Nhà nước. Đề phòng và khắc phục khuynh 
hướng tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc 
bao biện làm thay cũng như khuynh hướng 
các cơ quan nhà nước thụ động, né tránh trách 
nhiệm, việc gì cũng xin ý kiến cấp uỷ Đảng. 
Công tác tổ chức cán bộ là một trong những 
phương thức lãnh đạo tiêu biểu nhất của Đảng 
trong thời kỳ này. Đảng đã đưa những đảng 
viên ưu tú nhất, những công nhân, nông dân trí 
thức tiêu biểu vào trong bộ máy của Đảng và 
Nhà nước để cụ thể hóa chủ trương của Đảng. 
Mặt khác, gấp rút đào tạo cán bộ để phục vụ và 
đáp ứng cho Đảng, cho cách mạng nhằm bảo 
vệ chính quyền non trẻ, lãnh đạo cuộc kháng 
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải 
phóng dân tộc và tiến tới xây dựng đất nước, 
phát triển. Do đó, Đảng thống nhất lãnh đạo 
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của 
Nguyễn Tuấn Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 3 - 7 
 Email: jst@tnu.edu.vn 7 
Nhà nước, có phân công, phân cấp hợp lý, tôn 
trọng, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ 
quan và người đứng đầu các tổ chức cơ quan 
nhà nước trong công tác cán bộ. Ngoài ra, 
Đảng luôn chú trọng đến kiểm tra bộ máy nhà 
nước thông qua tổ chức đảng và cá nhân đảng 
viên hoạt động trong cơ quan nhà nước. Kiên 
quyết chống lại các tư tưởng phi vô sản, những 
biểu hiện của tệ quan liêu, hủ hóa, xa rời nhân 
dân trong bộ máy chính quyền. 
2.4. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với 
Mặt trận 
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó “máu thịt” 
giữa Đảng - Dân. Ở thời kỳ nào, công tác vận 
động và tổ chức quần chúng làm cách mạng 
cũng có ý nghĩa chiến lược. Quần chúng được 
thu hút, tập hợp trong các tổ chức chính trị - 
xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội vừa là 
sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, vừa là 
chỗ dựa của chính quyền. Trong quá trình đấu 
tranh giải phóng dân tộc để có được sự đoàn 
kết, thống nhất điều cốt yếu phải có mặt trận 
để tập hợp quần chúng nhân dân đặt dưới sự 
lãnh đạo của Đảng. Để công tác mặt trận làm 
tốt vai trò tập hợp hợp quần chúng nhân dân, 
đòi hỏi Đảng phải có một số phương thức 
lãnh đạo phù hợp. 
Trong thời kỳ Đảng rút vào hoạt động bí mật, 
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt 
trận được cụ thể hóa bằng các định hướng về 
mục tiêu, phương hướng phát triển của mặt trận 
và các đoàn thể về phương hướng hoạt động 
trong từng khoảng thời gian nhất định. Một 
trong những yếu tố nổi bật của thời kỳ này là 
lãnh đạo bằng việc tuyên truyền, vận động và 
thuyết phục để các tổ chức này nhận thức sâu 
sắc và tích cực vận động và tổ chức đoàn viên, 
hội viên thực hiện chủ trương, đường lối của 
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước 
với nhiều hình thức phong phú và đa dạng đã 
tạo nên những hiệu quả nhất định trong việc tập 
hợp quần chúng nhân dân. Trong quá trình lãnh 
đạo của Đảng đối với mặt trận, phương thức 
lãnh đạo của Đảng còn dựa trên sự tiên phong, 
gương mẫu của cán bộ và đảng viên mặt trận 
trong thực hiện nhiệm vụ. 
3. Kết luận 
Trong quá trình đấu tranh chống thực dân 
Pháp xâm lược 1945-1954 và đặc biệt trong 
thời kỳ Đảng rút vào hoạt động bí mật, Đảng 
luôn tìm tòi, lựa chọn và xác lập phương thức 
lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền. 
Xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt Đảng hoạt 
động bí mật, chiến tranh liên miên, nên 
phương thực lãnh đạo của Đảng giai đoạn này 
chủ yếu tập trung vào bám dân, bám đất nắm 
chắc lực lượng vũ trang đã làm cho Đảng 
vững vàng trong cách mạng, ngày càng 
trưởng thành qua đấu tranh, thử thách xứng 
đáng là một Đảng cách mạng lãnh đạo nhân 
dân đấu tranh giải phóng dân tộc và tiến lên 
xây dựng nghĩa xã hội. Với bản chất và ý 
nghĩa này, vấn đề đặt ra trong mọi thời kỳ 
cách mạng để Đảng Cộng sản Việt Nam luôn 
xứng đáng với sứ mệnh lịch sử trọng đại là 
Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 
đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay Đảng cần 
phải xác lập phương thức lãnh đạo đúng đắn, 
khoa học. Đúng như Cương lĩnh (bổ sung, 
phát triển năm 2011) của Đảng đã kh ng 
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm 
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [4, tr. 
88], Theo đó, Đại hội XII của Đảng kh ng 
định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối 
với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới 
Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của 
các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương 
tới cơ sở có bước tiến bộ” [5, tr. 190-191]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. Communist Party of Vietnam, Complete Party 
Document, part 9, National Political Publishing 
House, Hanoi, 2001. 
[2]. N. Le, “On the ruling of the Party,” Journal of 
Communist, vol. 38-44, no. 16, p. 44, 8-2006. 
[3]. Q. H. Bui, “Mode of the Party's ruling over 
the National Assembly - some theoretical 
issues,” Journal of Political Theory, vol. 48-
53, no. 2, p. 50, 2020. 
 [4]. Vietnam Communist Party, Document of the 
12th National Congress, National Political 
Publishing House, Hanoi, 2016. 
[5]. Communist Party of Vietnam, Document of 
the 12th National Congress, National Political 
Publishing House, Hanoi, 2011. 

File đính kèm:

  • pdfphuong_thuc_lanh_dao_cua_dang_cong_san_viet_nam_giai_doan_19.pdf