Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin

John M. Keynes là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của kinh tế học thế kỷ XX. Tuy nhiên,

kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2009, những tư tưởng nguyên bản của Keynes mới

có điều kiện trỗi dậy, và giới nghiên cứu lịch sử kinh tế mới có điều kiện thoát ra khỏi phương pháp

tái hiện duy lý để xem xét và đánh giá thực sự các tư tưởng của Keynes. Sử dụng phương pháp tái

hiện lịch sử, bài viết này tập trung xem xét, đánh giá về phương pháp và cách tiếp cận kinh tế của

Keynes từ quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Bài viết chỉ ra rằng bất kể sở

hữu một trí tuệ vượt trội và điều kiện giáo dục tinh hoa của mình, các phương pháp và tiếp cận của

Keynes nhìn chung vẫn mang các đặc điểm cơ bản của giai cấp tư sản đầu thế kỷ XX với sự đan xen

giữa biện chứng và siêu hình, mang màu sắc duy tâm và bị ảnh hưởng bởi thuyết Bất khả tri. Trong

tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn, Keynes vẫn dùng dằng giữa chủ nghĩa chiết trung và tính

cách mạng nửa vời.

pdf 9 trang kimcuc 7060
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
23Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
1. Đặt vấn đề
John M. Keynes là một trong những nhân 
vật vĩ đại nhất của kinh tế học thế kỷ XX. 
Năm 2007, Paul Krugman đã viết trong lời 
giới thiệu ấn bản mới tác phẩm “Lý thuyết 
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của 
Keynes (từ đây chúng tôi gọi tắt là Lý thuyết 
tổng quát) rằng Keynes không phải là một 
nhà xã hội chủ nghĩa, càng không phải xuất 
Tóm tắt
John M. Keynes là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của kinh tế học thế kỷ XX. Tuy nhiên, 
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2009, những tư tưởng nguyên bản của Keynes mới 
có điều kiện trỗi dậy, và giới nghiên cứu lịch sử kinh tế mới có điều kiện thoát ra khỏi phương pháp 
tái hiện duy lý để xem xét và đánh giá thực sự các tư tưởng của Keynes. Sử dụng phương pháp tái 
hiện lịch sử, bài viết này tập trung xem xét, đánh giá về phương pháp và cách tiếp cận kinh tế của 
Keynes từ quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Bài viết chỉ ra rằng bất kể sở 
hữu một trí tuệ vượt trội và điều kiện giáo dục tinh hoa của mình, các phương pháp và tiếp cận của 
Keynes nhìn chung vẫn mang các đặc điểm cơ bản của giai cấp tư sản đầu thế kỷ XX với sự đan xen 
giữa biện chứng và siêu hình, mang màu sắc duy tâm và bị ảnh hưởng bởi thuyết Bất khả tri. Trong 
tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn, Keynes vẫn dùng dằng giữa chủ nghĩa chiết trung và tính 
cách mạng nửa vời. 
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Keynes, Kinh tế học trường 
phái Keynes, Tái hiện lịch sử.
Mã số: 256. Ngày nhận bài: 11/04/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 19/04/2016. Ngày duyệt đăng: 19/04/2016.
Abstract
John M. Keynes is among the greatest economists in the 20th century. However, original ideas 
of Keynes have been only returning since the 2009 global crisis. This provides studies on history 
of economic thought conditions for extending beyond the method of rational reconstruction. Using 
the method of historical reconstruction, this paper examines Keynes’s methods and approaches 
in economic analysis from Marxian perspective. This paper found out that instead of Keynes’s 
great intellectual and elite education, basically he still suffered from basic characteristics of the 
bourgeoisieclass in the early of 20th century whose thoughts were mixed betweendialectics and 
metaphysics. He also affected by idealism and agnosticism. Both in ideology and practice, Keynes 
volatiled in eclectic and proposed revolution by halves.
Key words: Marxism and Leninism, Dialectical Materialism, Keynes, Keynesian economics, 
Historical reconstruction.
Paper No. 256. Date of receipt: 11/04/2016. Date of revision: 19/04/2016. Date of approval: 19/04/2016.
PHƯƠNG PHÁP VÀ TIẾP CẬN KINH TẾ CỦA JOHN M.KEYNES 
TỪ GÓC NHÌN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Vũ Thị Thanh Xuân*
* TS, Trường Đại học Ngoại thương; email: thanhxuan@ftu.edu.vn
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
24 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
hiện để chôn vùi chủ nghĩa tư bản, mà là để 
cứu vãn nó (Royal Economic Society, 2009) 
khỏi “sấm sét tư tưởng” của chủ nghĩa Mác - 
Lênin. Ông cũng trực tiếp hoặc gián tiếp vun 
trồng nhiều thế hệ các nhà kinh tế sẽ truyền bá 
tư tưởng can thiệp của ông tới giới hoạch định 
chính sách. Nhiều trong số những người kế 
thừa tư tưởng của ông sau này đã đóng vai trò 
dẫn dắt lý luận hoặc điều hành những tổ chức 
có ảnh hưởng lớn trong phạm vi quốc gia và 
quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế 
giới, các chính phủ và ngân hàng trung ương 
trên toàn thế giới (Olivier Blanchar, J. Stiglitz, 
S. Fischer, G. Mankiw). Những tư tưởng 
nguyên bản của Keynes sau một thời gian bị 
lãng quên hoặc hiểu chưa đầy đủ do phương 
pháp tái hiện duy lý (rational reconstruction) 
ngự trị trong nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh 
tế đương đại đã trỗi dậy mạnh mẽ từ năm 2010 
trở lại đây. Thật vậy, như Blanchard và cộng 
sự (2010) nhận xét cuộc khủng hoảng kinh tế 
toàn cầu năm 2009 đã dẫn tới một cuộc khủng 
hoảng trầm trọng trong lý thuyết kinh tế học 
vĩ mô, đặt ra nhiều câu hỏi với kinh tế học 
dòng chủ lưu, mà hiện thân của nó là trường 
phái Tổng hợp tân cổ điển mới và trường phái 
Keynes mới tại châu Âu và Bắc Mỹ, là điều 
kiện thuận lợi cho sự trở lại của những tư 
tưởng Keynes nguyên bản, thường được gọi 
là kinh tế học của Keynes. Bài viết này tập 
trung xem xét, đánh giá phương pháp và cách 
tiếp cận phân tích kinh tế của Keynes dựa trên 
những tư tưởng nguyên bản đó. Bài viết được 
cấu trúc như sau: Sau phần giới thiệu, bài viết 
sẽ trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 
trong đó tóm lược lý do tại sao kinh tế học 
(nguyên bản) của Keynes lại khác với các 
trường phái Keynes khác. Nội dung chính của 
bài viết là phần đánh giá phương pháp và cách 
tiếp cận kinh tế của Keynes từ góc nhìn duy 
vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. 
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ngoài Skidelsky (2011), trong hiểu biết tốt 
nhất của chúng tôi thì những nghiên cứu về 
phương pháp và tiếp cận phân tích của Keynes 
chủ yếu được thực hiện trên nền tảng trường 
phái tổng hợp tân cổ điển (hay kinh tế học 
trường phái Keynes) thay vì kinh tế học của 
Keynes. Điều này làm đánh giá phương pháp 
và cách tiếp cận kinh tế của Keynes trở thành 
đánh giá phương pháp và cách tiếp cận của 
một sự lồng ghép tân cổ điển và mang tính 
chủ quan, tình huống. Tất nhiên, điều này bắt 
nguồn từ sự khác biệt giữa kinh tế học của 
Keynes và các trường phái Keynes khác, mà 
chủ yếu là trường phái tổng hợp tân cổ điển 
đứng đầu là Paul Samuelson. Sự khác biệt như 
vậy xuất phát từ nhiều lý do: 
Thứ nhất, Keynes đã không tham gia vào 
các cuộc tranh luận lý thuyết sau khi Lý thuyết 
tổng quát được xuất bản năm 1936 do điều kiện 
sức khỏe (ông bị suy tim nặng năm 1937 phải 
điều trị đặc biệt, được đặt dưới sự chăm sóc và 
giám sát sức khỏe nghiêm ngặt). Thay vào đó, 
nhiều người khác bao gồm Joan Robinson (nhà 
kinh tế hậu Keynes), Alvin Hansen (nhà kinh 
tế học trường phái Keynes hay Tổng hợp tân 
cổ điển ở Mỹ) và John Hicks (nhà kinh tế học 
trường phái Keynes hay Tổng hợp tân cổ điển 
ở Anh) đã tham gia vào bảo vệ, diễn giải và 
phổ biến các tư tưởng kinh tế của Keynes trong 
Lý thuyết tổng quát bằng cách kết hợp với 
nhiều yếu tố của kinh tế học tân cổ điển. Hiện 
nay thuật ngữ Kinh tế học trường phái Keynes 
(Keynesian economics) dùng để chỉ những 
diễn giải của A. Hansen, J. Hicks và học trò 
của họ (Paul Samuelson, Franco Modigliani) 
đối với các tư tưởng kinh tế của Keynes, mà 
sau này có nhiều điểm sẽ khác xa tư tưởng 
gốc. Những tên khác của Kinh tế học trường 
phái Keynes là trường phái Tân Keynesian 
(NeoKeynesian), trường phái Tổng hợp tân cổ 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
25Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
điển (Neoclasical Synthesis), trường phái Tổng 
hợp Keynes - Tân cổ điển, hoặc trường phái 
Keynes cũ (Old-Keynesian Economics1 để 
phân biệt với trường phái Keynes mới - New-
Keynesian Economics đang thống trị dòng chủ 
lưu của kinh tế học hiện nay)2. Paul Krugman 
nhận xét rằng, có lẽ bài báo điểm sách và diễn 
giải cuốn Lý thuyết Tổng quát của Keynes với 
tiêu đề “Ngài Keynes và các nhà cổ điển: Một 
đề xuất diễn giải” đăng năm 1937 đã được đọc 
nhiều hơn so với bản thân cuốn Lý thuyết tổng 
quát.
Thứ hai, sau khi phục hồi sức khỏe vào 
năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai và 
nhiều hoạt động thực tiễn khác trên trường 
quốc tế đã cuốn hút Keynes hơn là việc phát 
triển và làm sáng rõ các quan điểm kinh tế 
của mình. Trong giai đoạn này ông đã trở 
thành thống đốc điều hành Ngân hàng trung 
ương Anh, được phong tước hiệu và được bổ 
nhiệm vào Thượng viện Anh. Khi chiến tranh 
thế giới thứ 2 sắp kết thúc, Keynes là đại diện 
của nước Anh tại Hội nghị Bretton Wood năm 
1944, tham gia vào thỏa ước hòa bình, sáng 
lập Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế. 
Sau chiến tranh, bất kể sức khỏe yếu, Keynes 
tiếp tục làm việc trong cương vị một nhà đàm 
phán quốc tế của Anh cho đến khi qua đời vào 
năm 1946. 
Cuối cùng, do điều kiện lịch sử, nguồn 
gốc xuất thân và lập trường giai cấp, Keynes 
thường xuyên dao động và thiếu vắng một sự 
nhất quán trong tư tưởng của mình. Khi đọc 
“Những hậu quả kinh tế của hòa bình” công 
bố năm 1919 của Keynes, Lênin một mặt khen 
ngợi rằng “Keynes đã đi đến nhiều kết luận có 
trọng lượng hơn, ấn tượng mạnh mẽ hơn và 
thuyết phục hơn bất cứ một nhà cách mạng 
cộng sản nào khác có thể rút ra” (V.I.Lênin, 
1920), mặt khác Lênin cũng phê phán Keynes 
về sự yếu mềm và dao động rằng, ông nhìn 
thấy bản chất mâu thuẫn và tàn bạo của chủ 
nghĩa đế quốc nhưng không dám phủ định nó. 
Chính sự dao động, thiếu nhất quán thường 
xuyên của Keynes làm cho tư tưởng của ông 
trở thành đa nghĩa, đa cách hiểu và thường 
xuyên thay đổi. Paul Samuelson đã từng nói 
đùa rằng nếu Quốc hội hỏi ý kiến 6 nhà kinh 
tế về bất cứ chủ đề gì thì đều sẽ luôn nhận 
được 7 câu trả lời khác nhau, trong đó 2 câu 
trả lời đến từ Keynes. Paul Samuelson và Joan 
Robinson cũng kể lại rằng Keynes đã từng bao 
biện trước những phàn nàn về sự thiếu nhất 
quán của ông rằng khi thông tin đầu vào thay 
đổi thì ông thay đổi kết luận của mình. Nhưng 
điều đó không làm thay đổi việc Lênin xem 
ông là một nhà lý luận tư sản “ẩm ướt” - với ý 
nghĩa là hay dao động.
3. Phương pháp luận và phương pháp 
nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ 
sở phương pháp luận duy vật biện chứng của 
Chủ nghĩa Mác - Lênin. Cụ thể, khi đánh giá 
Keynes chúng tôi đặt tư tưởng của Keynes 
1 Trường phái Keynes sẽ nhanh chóng trở thành kinh tế học dòng chủ lưu bằng “Cuộc cách mạng trường phái 
Keynes” thống trị kinh tế học hiện đại đến tận nhưng năm 1970, khi các nhà tiền tệ Chicago, dẫn đầu là Milton 
Friedman (Nobel kinh tế 1976) và các nhà vĩ mô cổ điển mới với “cuộc cách mạng của kỳ vọng hợp lý” dẫn đầu 
bởi Robert Lucas (Nobel kinh tế 1995), Robert Barro và Thomas Sargent (Nobel kinh tế 2011) tiến hành những 
cuộc tấn công dồn dập về tư tưởng.
2 Chúng tôi cũng lưu ý rằng hiện nay ở Việt Nam vẫn sử dụng thuật ngữ Trường phái chính hiện đại để chỉ những 
tư tưởng của phái Tổng hợp tân cổ điển, hay chính là kinh tế học trường phái Keynes vốn được dẫn dắt bởi Paul 
Samuelson. Chúng tôi cho rằng cách hiểu này bắt nguồn từ sai sót trong dịch thuật từ thuật ngữ “mainstream”, 
tức kinh tế học dòng chủ lưu, trong thực tế lịch sử tư tưởng kinh tế không có cái gọi là trường phái chính hiện 
đại. Liên quan tới vấn đề này có thể tham khảo thêm, chẳng hạn, Phạm Văn Chiến (2008).
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
26 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
trong sự vận động của lịch sử và truyền thống 
kinh tế học mà ông kế thừa. Quán triệt quan 
điểm lịch sử - cụ thể của phương pháp luận 
duy vật biện chứng, chúng tôi gắn những nhận 
định về Keynes trong những bối cảnh cụ thể, 
với những điều kiện cụ thể để không thoát 
ly khỏi cái cơ sở hiện tồn mà từ đó làm tư 
tưởng của Keynes nảy nở. Về phương pháp 
nghiên cứu, bài viết sử dụng phương pháp tái 
hiện lịch sử, theo đó chúng tôi dựa trên những 
tác phẩm nguyên bản của Keynes để xem xét 
phương pháp và cách tiếp cận mà ông sử dụng 
trong phân tích kinh tế, tránh cách diễn giải lại 
những ý tưởng của Keynes dưới những lăng 
kính khác nhau trong những giai đoạn phát 
triển khác nhau của kinh tế học. Những tác 
phẩm của Keynes được sử dụng trong đánh 
giá bao gồm “Những hậu quả kinh tế của hòa 
bình” (1919), “Khảo luận về xác suất” (1921), 
“Một khảo luận về cải cách tiền tệ”, “Một khảo 
luận về tiền tệ” (1930), “Các phương tiện để 
đi tới thịnh vượng” (1933) và “Lý thuyết tổng 
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936). 
Chúng tôi cũng xem đánh giá trong Skidelsky 
(2009) và Skidelsky (2011) của nhà kinh tế 
hậu Keynes, đồng thời là người viết tiểu sử 
cho Keynes, có nội dung gần gũi với quan 
điểm của Keynes, vì vậy sử dụng tác phẩm 
này trong phân tích, so sánh.
4. Đánh giá về phương pháp và tiếp cận 
phân tích kinh tế của Keynes
Về phương pháp, Keynes được đào tạo 
trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của cuộc 
Cách mạng cận biên với ba trụ cột là Jevons ở 
Anh, Leon Walras ở Thụy sĩ và Carl Menger 
ở Áo. Tuy nhiên, ông bị ảnh hưởng sâu sắc 
hơn cả từ kinh tế học tân cổ điển trường phái 
Cambridge đứng đầu là Alfred Marshall và 
hoàn toàn xa lạ với cách tiếp cận thuần khiết 
toán học của Leon Walras. 
Nếu như Marshall đã từng diễn giải phương 
pháp phân tích kinh tế bao gồm cả khâu “đốt 
bỏ các công thức toán” và dịch ngôn ngữ toán 
học ra tiếng Anh thuần khiết thì Keynes còn 
đi xa hơn thế. Trong một trích dẫn nổi tiếng, 
Keynes (1936) cho rằng kinh tế học là khoa 
học của tư duy trên cơ sở các mô hình kinh tế, 
kết hợp với việc lựa chọn các mô hình phù hợp 
với thế giới đương đại. Keynes cho rằng sở dĩ 
nhà kinh tế phải sử dụng phương pháp này là 
vì đối tượng của kinh tế học không giống các 
đối tượng của khoa học tự nhiên trên nhiều 
phương diện và không đồng nhất theo thời 
gian. Một nhà kinh tế tốt, theo Keynes, là 
người có khả năng bắt đầu từ việc sử dụng 
và dựa trên những quan sát cẩn trọng mà lựa 
chọn một mô hình tốt để giải thích thế giới. 
Ở khía cạnh này, phương pháp tiếp cận của 
Keynes gần với nhận thức luận biện chứng 
của chủ nghĩa Mác Lênin: đi từ trực quan sinh 
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu 
tượng đến thực tiễn. 
Cũng giống như Marshall, Keynes có 
hiểu biết sâu sắc về toán. Thật ra, Keynes 
đến Cambridge là để học toán, bất chấp lời 
van nài của Marshall đề nghị Keynes chuyển 
sang nghiên cứu kinh tế học một cách chuyên 
nghiệp. Keynes đã chỉ dành 8 tuần trong một 
học kỳ ở Cambridge để học Marshall một 
cách không chính thức, sau khi đã nhận bằng 
cử nhân toán học của Cambridge. Keynes đã 
được đào tạo chính thống về kinh tế học ít hơn 
bất kỳ nhà kinh tế học có ảnh hưởng nào khác 
kể từ thời ông sống (trước đó, có thể là David 
Ricardo). Keynes được học kinh tế nhiều nhất 
có lẽ nhờ vào vị trí đồng biên tập Tạp chí 
Kinh tế, tạp chí danh tiếng nhất thế giới về 
kinh tế học vào thời gian đó, do sự tiến cử của 
Marshall. Cũng giống như Marshall, Keynes 
thường để dành những công thức hay đồ thị 
toán học ở phần ghi chú hay phụ lục trong các 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
27Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
trước tác của mình. Keynes sử dụng mô hình 
toán như một công cụ để tư duy, nhưng khác 
với các nhà tân cổ điển, ông không phát kiến 
ra một mô hình lý tưởng về thế giới mà tại đó 
các quy luật vận động khách quan rồi mang 
mô hình đó soi chiếu với thực tiễn. Ở đây, ông 
sử dụng mô hình để nghiên cứu thực tiễn như 
nó vốn là, chứ không tạo ra một định kiến để 
hiểu thế giới. Việc Keynes nhắc tới và đề cao 
các quan sát cẩn trọng như một tiền đề quan 
trọng để bắt đầu việc nghiên cúu chính là để 
tránh những lý thuyết đã được định kiến sắp 
đặt trước trong việc hiểu thế giới. Mô hình 
hóa và trừu tượng hóa là một công cụ hữu ích 
để kiểm tra lại logic của lập luận chứ không 
phải là một thứ thay thế cho quan sát thực tiễn. 
Ở khía cạnh này, Keynes đã tiệm cận gần tới 
các quan điểm duy vật lịch sử khi phần nào 
mường tượng được tính chất quyết đ ...  đánh giá một cách 
khách quan rằng bản thân Keynes đã nhìn ra 
tính kế thừa và ảnh hưởng tích cực, chủ động 
của tư tưởng, ý thức tới thực tiễn và đời sống 
vật chất như các nhà lý luận Mác - Lênin. 
Chẳng hạn, ông viết trong chương “Những 
ghi chú cuối cùng” của Lý thuyết tổng quát 
rằng “Các tư tưởng của các nhà kinh tế học và 
triết học chính trị, cả khi đúng cũng như khi 
sai, đều có ảnh hưởng to lớn hơn mức người 
ta thường nghĩ. Thật ra, thế giới bị cai trị chỉ 
bởi một số người. Những nhà hoạt động thực 
tiễn, vốn tự xem mình hoàn toàn miễn nhiễm 
khỏi các ảnh hưởng tư tưởng, thường là nô lệ 
của một vài nhà kinh tế quá cố nào đóTôi tin 
chắc rằng lợi ích được thụ hưởng sẽ khuyếch 
trương nhanh hơn rất nhiều so với sự tích lũy 
từ từ của tư tưởng, nhưng chính bản thân tư 
tưởng mới là thứ nguy hiểm cho cái thiện hay 
cái ác” (Keynes, 1936). Tuy nhiên, Keynes đã 
đi quá xa khỏi tính năng động của ý thức bằng 
việc tuyệt đối hóa vai trò của tư tưởng, một mặt 
tách tư tưởng ra khỏi điều kiện hiện tồn của nó, 
mặt khác xem nó có tính chất quyết định đối 
với các hoạt động thực tiễn. Điều này đã biến 
phương pháp luận của Keynes thành phương 
pháp tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm. Không có 
gì ngạc nhiên khi Keynes đã dành hầu hết cuộc 
đời mình trước khi công bố Lý thuyết tổng 
quan để chỉ trích, phê bình và cả chửi mắng 
chính phủ Anh vì đã không làm theo những 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
28 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
tư tưởng đúng đắn của mình. Không phải các 
nhà Mácxít, mà chính các nhà kinh tế học 
trường phái Lựa chọn công đứng đầu là James 
Buchanan (Nobel kinh tế 1986) mới là những 
người chỉ trích và chế giễu quan điểm này của 
Keynes. Họ chỉ ra và cảnh báo Keynes rằng 
những lợi ích vật chất từ tính đặc lợi, đặc quyền 
của giới quan chức và chính trị gia sẽ “nắm giữ 
một cách hiệu quả các ý tưởng và chính sách 
tốt để làm con tin” (Buchholz, 2007).
 Ở cách tiếp cận kinh tế của Keynes cũng 
có một số điểm đáng chú ý. 
Các nhà tân cổ điển trước Keynes đã rời 
trọng tâm của kinh tế học từ nghiên cứu sự gia 
tăng của cải sang nghiên cứu sự khan hiếm. 
Khi phân tích kinh tế như một chỉnh thể, họ 
tin tưởng và thậm chí còn công thức hóa định 
luật Say, rằng cung sẽ tạo ra cầu cho chính nó, 
mà sau này được trừu tượng hóa cao độ bằng 
sự cân bằng ở tất cả các thị trường trong mô 
hình cân bằng tổng quát của Leon Walras. Thị 
trường sẽ điều tiết để mọi hàng hóa sản xuất ra 
đều bán được hết, bởi vì sản lượng tăng thêm 
của doanh nghiệp sẽ chuyển hóa thành một 
danh nào đó của thu nhập: tiền lương của công 
nhân, lợi nhuận của nhà tư bản hay địa tô của 
chủ đất. Nhưng dù là ai thì đây đều là người 
tiêu dùng trên thị trường. Nếu người tiêu dùng 
không tiêu hết số tiền và để dưới dạng tiết 
kiệm thì thị trường vốn vay sẽ hoạt động: đầu 
tư sẽ phải cân bằng với tiết kiệm. Thất nghiệp 
hay khủng hoảng kinh tế chỉ là những điều 
chỉnh tạm thời của nền kinh tế trước khi quay 
về vị trí cân bằng. 
Keynes lập luận rằng chẳng có gì đảm bảo 
rằng tất cả hàng hóa sản xuất ra sẽ được mua 
hết, chẳng có gì đảm bảo tiết kiệm sẽ cân bằng 
với đầu tư. Chẳng hạn, tiết kiệm có thể là phần 
chừa ra một cách chủ động trước khi ra quyết 
định chi tiêu, chứ không phải là phần còn lại 
của chi tiêu, nên không có lực lượng nào khiến 
tiết kiệm và đầu tư phải cân bằng. Keynes đã 
phát hiện ra điều mà hơn 60 năm trước Các 
Mác đã chỉ ra rằng định luật Say không thể 
thỏa mãn nếu người công nhân không sử dụng 
hết tiền lương để mua hàng hóa và đồng thời 
nhà tư bản cũng dùng hết lợi nhuận để mua 
hàng hóa. 
Keynes cũng từ chối tư duy cân bằng 
mang tính cơ học của các nhà tân cổ điển như 
Marshall. Ông đã nhìn ra các vấn đề của dao 
động kinh tế với các cú sốc từ bên ngoài và ông 
không tin vào sự tự điều chỉnh nhanh chóng 
của nền kinh tế về vị trí “cân bằng” không có 
thực bởi vì kinh tế học, không giống với vật 
lý học, là khoa học đạo đức liên quan tới “các 
vấn đề nội tâm và giá trị liên quan tới động 
cơ, kỳ vọng và những ngẫu nhiên mang tính 
tâm lý”. Chính vì thế, với Keynes, con người 
không phải là các đối tượng khách quan bị 
động khác nên các phản ứng của con người 
mang tính bất trắc không lường trước được, 
hoàn toàn khác với các dao động của con lắc 
trước một lực tác động. Hành vi con người 
phụ thuộc vào kỳ vọng, nhưng từ kỳ vọng đến 
hiểu đúng là một chặng đường rất xa, và ở 
giữa hai thứ đó còn là niềm tin của con người 
vào kỳ vọng mình đang nắm giữ. Kỳ vọng và 
niềm tin vào kỳ vọng của con người mang tính 
quyết định tới các quyết định duy lý mang tính 
bất trắc của hành vi con người. 
Để hiểu tính bất trắc của hành vi con 
người, Keynes sử dụng xác suất. Thật ra, 
Keynes đã dành toàn bộ thời gian học đại học 
ở Cambridge để viết luận văn về xác suất, và 
sau đó năm 1921 xuất bản thành sách “Khảo 
luận về xác suất”. Keynes chỉ ra sự khác nhau 
giữa xác suất định lượng, xác suất thứ bậc và 
xác suất không thể biết, hay bất trắc. Keynes 
phân biệt bất trắc với rủi ro ở chỗ rủi ro thì 
có thể đo lường bằng xác suất, nhưng bất trắc 
thì không. Có những thứ là bất trắc mang tính 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
29Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
nhận thức luận, vì chúng ta không có đủ thông 
tin để xử lý. Ví dụ, dưới chế độ điểm của ai 
người ấy biết thì khi một sinh viên nhận được 
điểm của mình, việc cậu có đứng đầu lớp hay 
không là một điều không chắc chắn mang tính 
nhận thức luận: cậu ta không có đủ thông tin 
để kết luận, không có thông tin để áp bất cứ 
một thứ bậc hay con số nào cho khả năng cậu 
ta sẽ đứng đầu. Tuy nhiên về mặt bản thể luận, 
vấn đề có thể giải quyết nếu cậu ta có đầy đủ 
thông tin, chẳng hạn bằng việc đi hỏi điểm tất 
cả mọi người trong lớp, hoặc nếu nhà trường 
thay đổi chính sách bằng cách thông báo bảng 
điểm của cả lớp.
Nhưng có bất trắc mang tính bản thể luận 
chứ không chỉ nhận thức luận, đơn giản là vì 
chúng ta không thể nói được gì hơn, không thể 
biết dù có bao nhiêu thông tin đi nữa. Những 
nhà kinh tế được đào tạo tại các trường kinh 
tế tốt nhất thế giới vào những năm 1980 sẽ 
không bao giờ dự đoán được rằng đến năm 
2010 lãi suất ở Hoa Kỳ sẽ về đến 0. Bởi vì 
không ai dự đoán được cuộc khủng hoảng tài 
chính toàn cầu năm 2009 sẽ xảy ra. Và cũng 
không ai biết Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ sẽ 
phản ứng như thế nào bằng chính sách tiền 
tệ3. Keynes đã nói chắc nịch rằng “đơn giản là 
chúng ta không biết”, và gọi đó là bất trắc tối 
giản. Những ý tưởng này mang màu sắc của 
thuyết bất khả tri. Chúng tôi cho rằng điều này 
cũng không mấy ngạc nhiên, vì có lẽ Keynes 
bị ảnh hưởng bởi Geogre Moore trong nhóm 
tinh hoa Bloomsbury ở Cambridge. Chính vì 
những bất trắc tối giản mà ngay cả những con 
người duy lý trong tình trạng thông tin đầy 
đủ nhất hiện có cũng tin tưởng và hành xử sai 
lầm bởi vì một niềm tin duy lý không nhất 
thiết phải là một niềm tin đúng. Nếu sau này 
có những bằng chứng cho thấy niềm tin trước 
đây của người đó sai không có nghĩa là niềm 
tin trước đó của anh ta là không hợp lý.
 Ở khía cạnh này Keynes cũng đã bước 
một bước rất xa khỏi truyền thống tân cổ điển. 
Thị trường chệch ra khỏi cân bằng không chỉ 
vì nó phụ thuộc vào bản chất mang tính xúc 
cảm của con người, mà còn vì tương lai là bất 
trắc. Nếu thị trường dao động chỉ vì sự phi lý 
do xúc cảm con người thì khi mỗi cá nhân có 
đầy đủ thông tin thì thị trường có thể ổn định 
ở mức cân bằng. Nhưng nếu thị trường dao 
động do tương lai là bất trắc thì những bất 
ổn thị trường ấy nằm ngoài giới hạn của hiểu 
biết con người, và thị trường không thể cân 
bằng. Nói cách khác, bản chất của thị trường 
là không cân bằng và tình huống cân bằng 
trên thị trường là một tình huống hoàn toàn 
ngẫu nhiên. Keynes đã chạm đến rất gần cái 
lớp vỏ cuối cùng của chủ nghĩa tư bản khi 
ông nhận thấy khiếm khuyết mang tính bản 
chất của chủ nghĩa tư bản, vốn là thứ không 
thể điều hòa. Nhưng thay vì cùng Mác “tìm 
đến giai cấp công nhân như một lực lượng 
vật chất” để giải quyết mâu thuẫn nội tại 
trong lòng chủ nghĩa tư bản một cách triệt 
để thì Keynes lại phân vân, do dự rồi cuối 
cùng tìm cách cứu chữa cho những cơn đau 
của chủ nghĩa tư bản bằng các can thiệp của 
chính phủ vào thị trường.
Chính từ quan điểm về bất trắc tối giản mà 
Keynes rất dè dặt trong các kỹ thuật kinh tế 
lượng như phân tích hồi quy. Với việc thiết 
lập các tham số, thêm bớt các biến độc lập 
và lựa chọn các độ trễ thời gian một cách có 
chủ đích, rồi đặt chúng trong những quan hệ 
3 Hãy nhớ rằng các nhà kinh tế Hoa Kỳ thường xuyên chỉ trích chính sách lãi suất bằng 0 của Ngân hàng trung 
ương Nhật Bản nhằm đương đầu với suy thoái kinh tế từ những năm 1990 đến nay, trước khi bản thân nền kinh 
tế Hoa Kỳ phải đối mặt với Đại suy thoái
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
30 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
giả tưởng vốn rất có thể là không đồng nhất 
theo thời gian đều là các thao tác sai về tư duy. 
Ngoài ra, rất nhiều các ảnh hưởng quan trọng 
không thể đo lường trên phương diện thống 
kê. Keynes viết “những quyết định mang tính 
cá nhân, chính trị hay kinh tế, đều không phụ 
thuộc vào những kỳ vọng toán học chính xác, 
bởi vì cơ sở để đưa ra những tính toán như vậy 
không hề tồn tại” (Keynes, 1921). Skidelsky - 
người viết tiểu sử của Keynes - đã diễn giải 
rất hay về ý này, rằng với Keynes “tương 
lai không phải thứ đang đứng ngoài kia đợi 
chúng ta thấu hiểu, mà chúng ta tạo ra tương 
lai” (Skidelsky, 2009) và vì thế Skidelsky xem 
bất trắc tối giản là chìa khóa để hiểu đúng kinh 
tế học của Keynes.
Khác các nhà lý luận Mácxít, Keynes 
không tin vào khả năng nhận thức được các 
bước tiến lịch sử của con người, không tin vào 
các quy luật xã hội khách quan tác động tới 
sự phát triển của lịch sử loài người. Keynes 
cũng không nhận thức được cái vòng xoáy 
trôn ốc mà tại đó sự đấu tranh giữa các mặt 
đối lập sẽ thúc đẩy các khía cạnh của lịch sử 
nhân loại lên trình độ phát triển cao hơn, mà 
bản thân sự tỏa sáng, lu mờ và hồi sinh của 
tư tưởng Keynes cũng không nằm ngoài quy 
luật đó. Và tất nhiên, nếu con người không thể 
nhận thức được lịch sử thì con người không có 
phương cách nào hay cơ sở nào để tiến hành 
các cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng, với 
Keynes, chỉ là một sự cố lịch sử chứ không 
phải là một tất yếu lịch sử. Ông viết rằng khi 
cuộc cách mạng giai cấp nổ ra, người ta sẽ 
thấy ông đứng về phe các nhà tư sản, bất kể 
những khuyến nghị kinh tế mà ông theo đuổi 
luôn được xem là có màu sắc xã hội chủ nghĩa 
vào thời ông sống. Nhưng do bản chất hay 
thay đổi và tính chiết trung trong các ý tưởng 
của Keynes, chúng ta có thể hồ nghi vào một 
phe thực sự mà Keynes sẽ chọn khi cách mạng 
nổ ra. Với chúng ta, và có thể cả với Keynes, 
lựa chọn này cũng là một bất trắc tối giản.
5. Kết luận
Các tư tưởng kinh tế của Keynes có ảnh 
hưởng rộng khắp trên toàn thế giới, nhất là ở 
các nước tư bản phát triển. Keynes đã sống 
vào thời kỳ chứng kiến những va vấp của chủ 
nghĩa tư bản và cung cấp cho nó một phương 
thuốc ngoài da hiệu quả. Nhưng phương pháp 
và cách tiếp cận của Keynes về cơ bản vẫn 
không thoát ra khỏi hệ tư tưởng của các trí 
thức tư sản đầu thế kỷ XX với tiếp cận đan 
xen giữa biện chứng và siêu hình, mang màu 
sắc duy tâm và bị ảnh hưởng bởi thuyết Bất 
khả tri. Trong tư tưởng cũng như thực tiễn, 
Keynes vẫn dùng dằng giữa chủ nghĩa chiết 
trung và tính cách mạng nửa vời, không nhận 
thức được các quy luật khách quan của xã hội, 
không nhìn ra được những mâu thuẫn nội tại 
trong lòng chủ nghĩa tư bản hoặc ông nhìn ra 
nhưng cố tình phủ nhận chúng. Vì thế, ông 
đã không triệt để giải quyết những mâu thuẫn 
nội tại của chủ nghĩa tư bản ngay từ phương 
pháp và cách tiếp cận của mình. Muốn xem 
xét và cải tạo thế giới từ trạng thái hiện tồn 
của nó, nhưng Keynes không đi sâu vào bản 
chất mà bị cuốn hút bởi cái hiện tượng bên 
ngoài của các hiện tượng kinh tế. Điều này trở 
thành hạn chế trong phương pháp và cách tiếp 
cận của ông, khiến những tư tưởng của ông về 
bản chất không vượt ra khỏi cái khung tân cổ 
điển mang màu sắc kỹ trị mà ông thừa kế từ 
thế hệ trước mình. 
Tư tưởng của Keynes sẽ còn ngự trị trong 
kinh tế học lâu dài dưới nhiều hình thức 
khác nhau. Các nhà lý luận Mácxít phải 
không ngừng cập nhật, chắt lọc những hạt 
nhân hợp lý trong các tư tưởng của Keynes, 
xem nó như tinh hoa trí tuệ nhân loại để soi 
rọi, đối chiếu và bổ sung cho các quan điểm 
Mácxít trong điều kiện và hoàn cảnh kinh tế 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
31Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
- xã hội mới. Bên cạnh đó, các nhà lý luận 
Mácxít cũng phải kiên quyết đấu tranh với 
những quan điểm siêu hình, duy tâm và xa 
lạ mà hoàn cảnh xã hội và vị trí giai cấp đã 
ảnh hưởng tới Keynes. Marshall đã từng viết 
đề từ cho cuốn Nguyên lý kinh tế học của 
mình bằng trích dẫn “tự nhiên không làm 
nên những bước nhảy vọt bất ngờ”. Các giải 
pháp Keynes có thể tạm thời điều hòa các 
mâu thuận nội tại trong lòng chủ nghĩa tư bản 
nhưng từ bản chất các giải pháp này sẽ không 
thể làm thay đổi sự vận động từ từ nhưng tất 
yếu của nhân loại từ phương thức sản xuất 
chủ nghĩa tư bản sang một phương thức sản 
xuất mới hoàn thiện hơn với một quan hệ sản 
xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất - phương thức sản 
xuất xã hội chủ nghĩa.q
Tài liệu tham khảo
1. Blanchard, Olivier, Giovanni Dell Ariccia và Paolo Mauro, 2010, Rethinking 
Macroeconomic Policy, IMF Staff Position Note, Bản điện tử tại: 
external/pubs/ft/spn/2010/spn1003.pdf 
2. Buchholz, Todd, 2007, Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối.
3. Keynes, J. M., 1913, Indian Currency and Finance. In lại trong Keynes, Collected 
Writings. Vol. 1.
4. Keynes, J. M., 1919, The Economic Consequences of the Peace. In lại trong 5. Keynes, 
Collected Writings. Vol. 2.
6. Keynes, J. M., 1920, The Economic Consequences of the Peace. New York: Harcourt, 
Brace, and Howe. Bản điện tử tại: 
kynsCP.html.
7. Keynes, J. M., 1923, A Tract on Monetary Reform. In lại trong Keynes, Collected Writings. 
Vol. 4.
8. Keynes, J. M., 1930, A Treatise on Money, Vol. 1: The Pure Theory of Money. In lại trong 
Keynes, Collected Writings. Vol. 5.
9. Keynes, J. M., 1930, A Treatise on Money, Vol. 2: The Applied Theory of Money, 
Reprinted in Keynes, Collected Writings, Vol. 6.
10. Keynes, J. M., 1936, The General Theory of Employment, Interest and Money, In lại 
trong Keynes, Collected Writings, Vol. 7.
11. V.I.Lênin, 1920, Báo cáo tại Đại hội lần thứ 2 của Quốc tế cộng sản, Bản điện tử: 
https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jul/x03.htm
12. Các Mác và Ph.Ăng-ghen, 1995, Toàn tập. Tập 3. (1845-1847). Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
13. Phạm Văn Chiến, 2008, “Trường phái chính hiện đại” có tồn tại hay không?, Tạp chí 
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 49-54
14. Royal Economic Society, 2009, Krugman on Keynes, Bản điện tử tại: 
org.uk/view/art2Jan09Features.html
15. Skidelsky, Robert , 2009, The Return of the Master, Allen Lane.
16. Skidelsky, Robert , 2011, The Relevance of Keynes, Cambridge Journal of Economics, 
Vol. 35:1, pp 1-13

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_va_tiep_can_kinh_te_cua_john_m_keynes_tu_goc_nhi.pdf