Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Đối với sinh viên (SV) ngành Giáo dục mầm non

(GDMN), việc có những hiểu biết về nghệ thuật âm nhạc

là điều không thể thiếu. Nó không chỉ góp phần vào hành

trang văn hoá chung của mỗi SV mà đây còn là bộ môn

giúp các em trang bị những kiến thức cơ bản nhất để áp

dụng vào thực tế giảng dạy sau khi ra trường. Đối với

ngành GDMN, chương trình đào tạo âm nhạc bao gồm

nhiều phân môn, trong đó có Xướng âm. Đây là một môn

học bắt buộc đồng thời là phân môn cung cấp cho SV

phương pháp luyện đọc, nghe cao độ, trường độ, tiết tấu,

biết nghe và cảm thụ âm nhạc, cuối cùng tiến tới nghe,

đọc hoàn chỉnh một giai điệu, một tác phẩm âm nhạc.

Bên cạnh kĩ năng đọc cao độ, tiết tấu, sắc thái những kĩ

năng xuyên suốt trong nội dung của môn học đòi hỏi

người học phải thực hiện tốt để phục vụ cho công việc

giảng dạy. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng đọc xướng âm

cho SV là một nội dung không thể thiếu trong chương

trình đào tạo GDMN. Người học có kĩ năng thực hành

xướng âm tốt sẽ là một thuận lợi trong quá trình học và

thực hành bộ môn Âm nhạc. Sở dĩ đây là một nội dung

khó với đối tượng SV ngành GDMN vì môn học cần có

năng khiếu về âm nhạc. Mặt khác, trường đào tạo theo

hệ thống tín chỉ, với các môn học trong bộ môn Âm nhạc

SV phải tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành là chủ yếu.

Nhằm tăng tính tích cực giúp người học có cơ sở rèn

luyện tốt khả năng xướng âm, ngoài việc cần phải nắm

vững một số kiến thức nhạc lí cơ bản, giảng viên (GV)

cần có những biện pháp và phương pháp rèn luyện kĩ

năng hiệu quả để giúp các em hình thành những kĩ năng,

kĩ xảo, nâng cao khả năng tư duy âm nhạc, phát triển tai

nghe. Ngoài ra, việc sắp xếp nội dung dạy học theo đúng

quy trình cũng góp phần đạt được hiệu quả cao trong việc

nâng cao chất lượng

pdf 5 trang kimcuc 3680
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Phương pháp rèn luyện kĩ năng xướng âm trong dạy học phân môn xướng âm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 
77 
PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG XƯỚNG ÂM TRONG DẠY HỌC 
PHÂN MÔN XƯỚNG ÂM CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON 
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 
Nguyễn Thị Quỳnh Mai - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
Ngày nhận bài: 27/11/2017; ngày sửa chữa: 28/11/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017. 
Abstract: The Curriculum of Music plays an important role in training students majoring in Preschool 
Education. Preschool teachers must be equipped not only the professional knowledge, but also a 
background in music in order to contribute to the aesthetics education, personality formation and 
intellectual development of children. Among those, teaching Tonic Sol-fa has proved their role as an 
introductory course. However, it is a difficult subject as it is often considered for gifted students only. How 
to make teaching and learning this subject easier, livelier, and more attractive? How to engage students in 
active knowledge acquisition? Within this article, author suggests some methods of training the subject 
Tonic Sol-fa for students majoring in preschool education at Hanoi Pedagogical University 2. 
Keywords: Tonic Sol-fa, students of preschool education, methods of vocal training, rhythm, 
pitch, nuance. 
1. Mở đầu 
Đối với sinh viên (SV) ngành Giáo dục mầm non 
(GDMN), việc có những hiểu biết về nghệ thuật âm nhạc 
là điều không thể thiếu. Nó không chỉ góp phần vào hành 
trang văn hoá chung của mỗi SV mà đây còn là bộ môn 
giúp các em trang bị những kiến thức cơ bản nhất để áp 
dụng vào thực tế giảng dạy sau khi ra trường. Đối với 
ngành GDMN, chương trình đào tạo âm nhạc bao gồm 
nhiều phân môn, trong đó có Xướng âm. Đây là một môn 
học bắt buộc đồng thời là phân môn cung cấp cho SV 
phương pháp luyện đọc, nghe cao độ, trường độ, tiết tấu, 
biết nghe và cảm thụ âm nhạc, cuối cùng tiến tới nghe, 
đọc hoàn chỉnh một giai điệu, một tác phẩm âm nhạc. 
Bên cạnh kĩ năng đọc cao độ, tiết tấu, sắc thái những kĩ 
năng xuyên suốt trong nội dung của môn học đòi hỏi 
người học phải thực hiện tốt để phục vụ cho công việc 
giảng dạy. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng đọc xướng âm 
cho SV là một nội dung không thể thiếu trong chương 
trình đào tạo GDMN. Người học có kĩ năng thực hành 
xướng âm tốt sẽ là một thuận lợi trong quá trình học và 
thực hành bộ môn Âm nhạc. Sở dĩ đây là một nội dung 
khó với đối tượng SV ngành GDMN vì môn học cần có 
năng khiếu về âm nhạc. Mặt khác, trường đào tạo theo 
hệ thống tín chỉ, với các môn học trong bộ môn Âm nhạc 
SV phải tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành là chủ yếu. 
Nhằm tăng tính tích cực giúp người học có cơ sở rèn 
luyện tốt khả năng xướng âm, ngoài việc cần phải nắm 
vững một số kiến thức nhạc lí cơ bản, giảng viên (GV) 
cần có những biện pháp và phương pháp rèn luyện kĩ 
năng hiệu quả để giúp các em hình thành những kĩ năng, 
kĩ xảo, nâng cao khả năng tư duy âm nhạc, phát triển tai 
nghe. Ngoài ra, việc sắp xếp nội dung dạy học theo đúng 
quy trình cũng góp phần đạt được hiệu quả cao trong việc 
nâng cao chất lượng môn học. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Các kĩ năng xướng âm cơ bản 
Xướng âm tiếng Ý là Solfeggio, tiếng Pháp là 
Solfege, tiếng Anh là Tonic Sol-fa. Giải thích thuật ngữ 
trên theo tiếng Ý nghĩa là bài luyện giọng, tiếng Pháp là 
đọc tên nốt nhạc đúng cao độ, tiếng Anh là một kiểu của 
bài tập hát nhưng hát bằng tên nốt nhạc theo bảy bậc cơ 
bản bắt đầu bằng nốt Đô. 
Còn “xướng âm” theo cách diễn giải của tác giả 
Trịnh Hoài Thu trong cuốn “Phương pháp dạy học kí 
xướng âm” - Nhà xuất bản Âm nhạc - 2011 là việc 
“mã hoá” các nốt nhạc thành âm thanh với âm sắc 
giọng người. 
Từ những luận giải trên, ta có thể hiểu xướng âm 
nghĩa là đọc tên các nốt nhạc theo đúng cao độ, trường 
độ, sắc thái quy định trên một gam nhất định bằng giọng 
người. Để đọc tốt bài xướng âm phải rèn luyện hệ thống 
những kĩ năng như: kĩ năng về cao độ, trường độ, cường 
độ, tính chất các loại nhịp, sắc thái biểu cảm,  
2.1.1. Cao độ 
Cao độ là độ cao thấp của âm thanh phụ thuộc vào 
tần số dao động của vật thể rung. Trong dạy học xướng 
âm cao độ luôn được coi trọng bởi việc đọc chính xác 
cao độ của âm thanh là một trong những nhân tố hình 
thành nên giai điệu của âm nhạc. Cao độ được thể hiện ở 
vị trí âm các nốt nhạc nằm trên khuông nhạc với từng loại 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 
78 
khoá cụ thể. Trong đó, cung và nửa cung là đơn vị để so 
sánh sự tương quan về cao độ giữa các âm thanh. 
Ví dụ 1: Khoảng cách về cao độ giữa các âm cơ bản 
Dựa vào khoảng cách về cao độ giữa các âm cơ bản 
SV dễ dàng phân biệt được độ cao thấp của âm thanh 
được ghi trên bản nhạc, đồng thời có thể mã hoá những 
kí hiệu âm nhạc đó bằng giọng của mình. Đó chính là kĩ 
năng đọc cao độ. 
2.1.2. Trường độ 
Trường độ có nghĩa là độ dài ngắn của âm thanh. Độ 
dài của âm thanh phụ thuộc vào thời gian dao động của 
nguồn sinh âm. Chính vì vậy, trường độ đóng một vai 
trò rất quan trọng bởi vì độ dài ngắn của âm thanh tạo 
nên sự chuyển động lúc đều đặn, lúc nhịp nhàng, lúc 
ngân nga, lúc vui tươi, lúc dồn dập, Trong tác phẩm 
âm nhạc, sự chuyển động liên tiếp giữa những nhóm 
trường độ khác nhau của âm thanh tạo thành nhóm nhịp 
điệu. Các nhóm nhịp điệu liên kết với nhau hình thành 
loại nhịp của tác phẩm. Trường độ âm thanh được thể 
hiện bằng hệ thống hình nốt nhạc. 
Ví dụ 2: Các hình nốt nhạc 
Đơn vị đo trường độ trong âm nhạc là nhịp và phách. 
Phách là khoảng thời gian trôi qua giữa hai tiếng gõ 
liền kề. Những phách có trọng âm là phách mạnh, còn 
những phách không có trọng âm là phách nhẹ. 
Trong tác phẩm âm nhạc, nhịp, loại nhịp đóng vai trò 
quan trọng. Loại nhịp được kí hiệu bằng số chỉ nhịp đặt 
sau khoá nhạc và hoá biểu (nếu có). Số chỉ gồm hai chữ 
số, chữ số trên chỉ số phách trong một ô nhịp, chữ số dưới 
chỉ độ dài của mỗi phách tương ứng với một phần mấy của 
nốt tròn. Những loại nhịp phổ biến trong chương trình đào 
tạo cho SV mầm non là: 2/2; 2/4; 3/4; 4/4; 6/8. Khi biết số 
chỉ nhịp ra sẽ biết số phách được quy định trong mỗi ô 
nhịp, đồng thời ta biết giá trị mỗi phách tương ứng với hình 
nốt nào và vị trí phách mạnh, phách nhẹ trong ô nhịp. 
Trong âm nhạc, trường độ của âm thanh luôn chuyển 
động luân phiên nối tiếp nhau. Sự tương quan trường độ 
của các âm thanh nối tiếp nhau được gọi là tiết tấu. Khi 
các trường độ được liên kết với nhau theo thứ tự nhất 
định sẽ tạo thành những nhóm tiết tấu (hình tiết tấu). 
Ví dụ 3: Bài xướng âm 1 [8; tr 1] 
Hình tiết tấu của bài: 
2.1.3. Cường độ. 
Cường độ là độ vang to hoặc nhỏ của âm thanh phụ 
thuộc vào tầm cữ dao động của vật thể làm nguồn sinh 
âm. Thông thường đơn vị đo cường độ âm thanh là 
Deciben (Db). Tuy nhiên trong âm nhạc do cường độ âm 
thanh liên tục thay đổi nên người ta không dung đơn vị 
Db mà dung các kí hiệu diễn tả cường độ như: - p (piano): 
nhẹ, - mp (mezzo piano): nhẹ vừa, - f (forte): mạnh, - mf 
(mezzo forte): mạnh vừa, - cresc. (crescendo): to dần, - 
dim (diminuendo): lịm dần, - sf (sforzando forte): mạnh 
riêng cho nốt được ghi 
Có thể nói, sự xử lí sắc thái to hay nhỏ làm phong phú 
thêm cho sự biểu hiện của âm nhạc. Đó chính là sắc thái 
của cảm xúc, người học xướng âm không thể bỏ qua 
phần này vì nó chứng tỏ khả năng cảm thụ âm nhạc của 
mỗi người. Tập xử lí sắc thái từ những bài xướng âm nhỏ 
giúp SV rèn luyện kĩ năng xử lí sắc thái tiến tới việc xử 
lí sắc thái tác phẩm âm nhạc. Trong các bài hát hiện hành 
ở chương trình giáo dục tại các trường mầm non trên cả 
nước, tuy là những bài hát của trẻ em nhưng việc thể hiện 
bài hát sao cho tình cảm đó là một điều không dễ dàng 
nếu không được rèn luyện kĩ. 
2.2. Rèn luyện kĩ năng xướng âm 
2.2.1. Rèn luyện kĩ năng đọc trường độ 
Cùng với cao độ, trường độ làm nên những giai điệu 
đẹp đẽ trong âm nhạc. Chính vì vậy việc luyện tập đọc 
riêng lẻ trường độ cũng rất quan trọng. 
2.2.1.1. Rèn luyện kĩ năng gõ phách 
Trong những bài học đầu tiên GV phải cung cấp cho 
SV những kĩ năng gõ phách và phân chia phách mạnh, 
nhẹ hay phần mạnh cũng như phần nhẹ của phách. Một 
phách luôn có hai nửa bằng nhau được gọi là phần mạnh 
của phách và phần nhẹ của phách. Phần mạnh của phách 
tương ứng với thời gian tay ta gõ xuống một điểm nhất 
định, phần nhẹ của phách tương ứng với tay ta nhấc lên 
một điểm nhấc lên trở về vị trí xuất phát. Việc rèn luyện 
gõ phách bắt đầu thường xuyên giúp SV tạo cảm giác về 
độ dài của âm thanh. 
Trong nhịp 2/4 là nhịp có hai phách trong mỗi một ô 
nhịp, giá trị mỗi phách tương ứng với một nốt đen thì tất 
cả các phách có trường độ bằng 1 nốt đen trường độ phải 
bằng nhau, không được lúc gõ nhanh, lúc gõ chậm. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 
79 
Ví dụ 4: 
GV đưa ra những mẫu nhịp cơ bản như 2/2, 2/4, 4/4, 
3/4, 6/8 cho SV đọc và phân tích phách của mỗi loại nhịp 
nhiều lần nhằm mục đích giúp các em nghi nhớ tính chất 
nhịp, các phần của phách cũng như các phách mạnh nhẹ 
trong chuyển động của các loại nhịp. 
2.2.1.2. Rèn luyện đọc tiết tấu 
Rèn luyện tiết tấu được thực hiện từ giai đoạn đơn 
giản đến phức tạp. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi đưa 
ra những hình mẫu từ cấp độ dễ đến khó phù hợp với đối 
tượng SV ngành GDMN. 
- Giai đoạn 1: Rèn luyện đọc và gõ âm hình tiết tấu 
Trong giai đoạn này, GV cung cấp những âm hình 
tiết tấu dễ và cơ bản như trường độ nốt tròn, nốt trắng, 
nốt đen, nốt đơn, nốt kép, nhóm nốt đen kết hợp nốt đơn, 
nhóm nốt đơn kết hợp nốt kép, nhóm nốt kép kết hợp nốt 
đen, nốt chấm dôi. SV sẽ tập đọc các nhóm tiết tấu đơn 
lẻ (từng ô nhịp) nhiều lần từ chậm đến nhanh cho đến khi 
đọc được thuần thục từng nhóm tiết tấu. 
Ví dụ 5: 
- Giai đoạn 2: Sau khi luyện các âm hình tiết tấu đơn 
lẻ theo ở giai đoạn một, cứ kết thúc một chuỗi âm hình, 
SV có thể tự ghép các âm hình tiết tấu đó với nhau để tạo 
thành một chuỗi tết tấu tổng hợp để luyện tập. Có thể 
ghép các âm hình dễ với nhau, cũng có thể sắp xếp các 
âm hình dễ xen kẽ với âm hình khó, khi đã thuần thục 
các em có thể ghép các chuỗi âm hình khó liên tiếp nhau 
để kết hợp rèn luyện tiết tấu, đồng thời rèn được cả phản 
xạ nhanh nhạy trong quá trình tập luyện. Khi đọc chuyển 
giữa các dạng tiết tấu, từ nhóm tiết tấu phức tạp (đảo 
phách, nghịch phách, ...) hay nhóm tiết tấu phải đếm 
nhanh (chùm 4 nốt móc kép) sang nhóm tiết tấu đơn giản 
(nốt đen, nốt móc đơn), một phần không ít SV thường 
gặp phải vấn đề cuốn nhịp. Do vậy, để đọc tốt, thực hiện 
tốt các dạng tiết tấu khác nhau, các em cần phải giữ nhịp 
ổn định và đều đặn. 
- Giai đoạn 3: Đọc tên nốt nhạc theo tiết tấu 
Đây là một phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc tiết 
tấu giúp SV hình thành phản xạ về tiết tấu, nhận biết tên 
và vị trí của nốt nhạc trên khuông nhạc. Cách đọc này 
hỗ trợ phần lớn vào việc đọc cao độ nốt nhạc. SV được 
rèn luyện đọc tên nốt và nhớ vị trí nốt trên khuông nhạc 
sẽ không bị lúng túng trong khi đọc cao độ và khiến 
việc đọc cao độ trở nên nhanh và dễ dàng hơn. Các em 
sẽ không mất thời gian vào việc dịch tên nốt khi chuyển 
sang bước luyện tập đọc cao độ nốt nhạc. 
Ví dụ 6: Bài xướng âm [1; tr 15] 
2.2.2. Rèn luyện kĩ năng đọc cao độ 
2.2.2.1. Đọc gam và hợp âm rải 
Trong đào tạo phân môn Xướng âm cho SV ngành 
GDMN, tôi nhận thấy rằng việc đọc đúng gam và hợp 
âm rải giúp SV ghi nhớ vị trí âm thanh của các nốt nhạc, 
phân biệt được nốt nào đọc cao hơn, nốt nào đọc thấp 
hơn. GV cần giới thiệu cho SV về giọng và gam, phân 
tích khoảng cách đặc điểm về cao độ cung và nửa cung 
của các bậc trong gam trưởng và gam thứ. Sau đây, tôi 
chỉ đề cập tới hai gam chính đó là gam trưởng tự nhiên 
và thứ tự nhiên. 
Ví dụ 7: Gam C dur tự nhiên 
Ví dụ 8: Gam a moll tự nhiên 
Thông thường, GV có thể lấy cao độ tuyệt đối trên 
đàn cho âm chủ của giọng nào đó để hướng dẫn SV đọc 
gam. Tuy nhiên, GV nên chọn độ cao phù hợp với đặc 
điểm giọng hát của SV để khi vào đọc bài xướng âm cụ 
thể các em không phải thay đổi độ cao âm chỉ đã chọn. 
Khi đọc gam, GV hướng dẫn SV đọc chậm theo bước 
lần từ bậc I ở quãng tám thứ nhất đến bậc I ở quãng tám 
thứ hai. Dù là giọng trưởng hay giọng thứ thì đều đọc 
gam từ dưới lên trên rồi tiếp tục từ trên xuống dưới. Đồng 
thời, GV hướng dẫn các em khi đọc mỗi bậc thì cần phải 
ghi nhớ khoảng cách cao độ giữa các bậc với nhau. GV 
có thể đàn để lấy âm chủ rồi cho SV đoán bằng cách 
xướng âm nốt đằng sau nốt cô vừa đàn. Với phương pháp 
này các em sẽ có kĩ năng đánh giá được vị trí âm thanh 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 
80 
mình vừa xướng âm lên có chính xác hay không. Điều 
này cũng góp phần vào việc nâng cao thính giác âm nhạc 
của các em. 
Đọc hợp âm rải là một phần rất quan trọng trong bước 
đầu tiên của việc rèn luyện cao độ. Thường được tiến 
hành sau khi luyện đọc gam. Việc đọc nhiều lần hợp âm 
rải sẽ hỗ trợ các em trong việc ghi nhớ vị trí âm thanh của 
các âm chính và âm ổn định trong gam từ đó các em sẽ 
có những điểm tựa để có thể kiểm tra một cách chính xác 
âm thanh mà mình đọc được. Đọc hợp âm rải được tiến 
hành với 3 hợp âm chính của bậc I (T, t), hợp âm bậc IV 
(S, s) và hợp âm bậc V (D hoặc D7). SV có thể dựa vào 
ba hợp âm này để đọc các nét nhạc hay gặp trong các bài 
xướng âm và để tìm cao độ trong bài xướng âm. Đọc hợp 
âm rải thường được đọc từ dưới lên trên rồi đi xuống. 
 - Đọc hợp âm rải của chủ bậc I 
Ví dụ 9: C dur và a moll 
- Đọc hợp âm bậc IV 
Ví dụ 10: C dur và a moll 
- Đọc hợp âm V7 
Ví dụ 11: C dur và a moll 
Khi đọc các âm rải, GV nên đàn mẫu một vài lần 
trước khi tự cho SV tìm ra các âm cho hợp âm. Trên thực 
tế, khả năng âm nhạc của SV ngành GDMN có hạn chế 
hơn các bạn SV chuyên nghiệp về âm nhạc. Nên những 
bước đầu, GV cần phải cho các em đọc đi đọc lại gam 
nhiều lần dưới sự hướng dẫn của cô. Sau đó để các em tự 
nhớ và đọc lần các âm trong hợp âm. 
2.2.2.2. Kĩ năng đọc quãng 
Việc luyện đọc quãng thường được tiến hành sau khi 
đọc gam. Có hai loại luyện đọc quãng: 
- Luyện đọc các quãng nằm trong điệu thức 
- Luyện đọc các quãng nằm ngoài điệu thức 
Đối với trình độ của SV ngành GDMN chỉ nên áp 
dụng luyện đọc quãng nằm trong điệu thức. Thông 
thường với đối tượng SV ngành GDMN chủ yếu đọc các 
quãng 2, quãng 3, quãng 4, quãng 5. Các quãng 6, quãng 
7, quãng 8 hơi quá sức đối với các em. Giờ đầu tiên của 
giọng mới chỉ nên luyện các quãng 2, quãng 3. Giờ sau 
thêm quãng 4, quãng 5. GV nên lựa chọn tiết tấu thích 
hợp để việc luyện quãng hiệu quả hơn. 
Ví dụ 12: Luyện quãng 2 trong giọng C dur 
Ví dụ 13: Luyện quãng 3 trong giọng C dur 
Luyện quãng nên được thực hiện dựa vào gam để 
giúp SV nghe, phân tích và ghi nhớ được đó là màu sắc 
của quãng gì (quãng trưởng, quãng thứ, quãng đúng, 
quãng tăng, quãng giảm). 
Ví dụ 14: Quãng 4 trong giọng C 
Ví dụ 15: Quãng 5 trong giọng C dur 
Việc ghi nhớ và thuộc lòng màu sắc của quãng là rất 
tốt vì nó sẽ đi vào tiềm thức của người học. Khi đọc một 
bài xướng âm mới, các em sẽ tự nhớ ra được các quãng 
tương tự với những quãng trong trí nhớ mà không cần 
dựa vào âm chính hay âm ổn định hoặc dựa vào một 
quãng nào đó để tìm ra âm thanh. Đó cũng chính là mục 
đích của việc rèn luyện kĩ năng đọc quãng. 
2.2.3. Rèn luyện kĩ năng đọc sắc thái 
Trong tác phẩm âm nhạc, bên cạnh những kí hiệu để 
ghi nhạc còn một loại thuật ngữ rất hay sử dụng để chỉ tính 
chất, tình cảm của tác phẩm âm nhạc đó là sắc thái. Để chỉ 
diễn tả sắc thái người ta sử dụng những kí hiệu bằng ngôn 
ngữ, trong đó tiếng Ý là phổ biến được dùng để ghi trên 
các bản nhạc. Việc thể hiện đúng sắc thái tình cảm của bản 
nhạc là điều rất cần thiết cho việc rèn luyện cách xử lí tác 
phẩm âm nhạc và cảm thụ âm nhạc một cách sâu sắc. 
Đồng thời là phương pháp rèn luyện cho người học cách 
thể hiện bản nhạc một cách trọn vẹn, sự tinh tế, rung động 
cũng như sự cảm thụ âm nhạc của mỗi SV. 
2.2.3.1. Kĩ năng thể hiện cường độ, nhịp độ 
Trước hết, GV cần cung cấp cho SV hệ thống các kí 
hiệu bằng ngôn ngữ về cường độ trong âm nhạc. Ngay cả 
khi SV đã biết về những kí hiệu sắc thái đó, GV vẫn nên 
nhắc lại hoặc có thể đặt câu hỏi để kiểm tra kiến thức đã học. 
Ví dụ 16: Bài xướng âm [5; tr 47] 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 77-81 
81 
Trong bài xướng âm này, GV đặt câu hỏi về các kí hiệu 
chỉ cường độ trong âm nhạc như: p, pp, mp, cresc., sf, dim. 
GV hướng dẫn SV khi gặp kí hiệu p thì giọng đọc nhẹ, êm 
ái. Với kí hiệu pp giọng đọc phải rất nhẹ, khi gặp kí hiệu 
cresc. phải đọc to dần lên, tiếp đến kí hiệu dim thì đọc nhỏ 
dần. Với kí hiệu mp, SV cần đọc nhẹ vừa, kí hiệu sp thì 
chỉ đọc nhẹ những nốt xuất hiệu kí hiệu này. Tưởng chừng 
nhìn vào những đoạn nhạc đơn giản và tiết tấu không khó, 
nhưng việc xử lí sắc thái liên tiếp khiến cho đoạn nhạc trở 
nên thú vị và nhiều thử thách hơn. Nếu SV học tốt kĩ năng 
thể hiện sắc thái sẽ giúp các em dễ dàng xử lí tình cảm 
trong các tác phẩm âm nhạc, từ đó hình thành nên thị hiếu 
thẩm mĩ. Xướng âm một đoạn nhạc không đơn thuần chỉ 
đọc đúng tên nốt, đúng tiết tấu mà hơn nữa là việc thể hiện 
chúng giống như những bài hát, có lúc dịu dàng tha thiết, 
có lúc mạnh mẽ, dồn dập. 
Trong bài xướng âm ở ví dụ có kí hiệu Andante 
nghĩa là cần phải đọc bài xướng âm này với tốc độ chậm 
vừa. Ngoài ra trong âm nhạc Việt Nam người ta còn sử 
dụng kí hiệu sắc thái bằng ngôn ngữ tiếng Việt như: trong 
sáng, nhẹ nhàng, duyên dáng, vừa phải, nhắn nhủ, tình 
cảm, vui vẻ... 
Ví dụ 17: Bài xướng âm [5; tr 57] 
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình 
thành kĩ năng đọc đúng sắc thái bài xướng âm là đọc 
đúng trọng âm của loại nhịp. Mỗi một loại nhịp hình 
thành trọng âm khác nhau. Ví dụ nhịp 2/2 trọng âm rơi 
vào phách thứ nhất, phách thứ hai không có trọng âm. 
Tuy nhiên, ở nhịp ¾ trọng âm rơi vào phách thứ nhất, 
phách thứ hai và phách thứ ba không có trọng âm. Việc 
nhấn đúng trọng âm ở mọi loại nhịp cũng là một phần 
trong rèn luyện kĩ năng thể hiện sắc thái. 
2.2.3.2. Kĩ năng đọc liền hơi liền tiếng và rời tiếng 
Đọc liền giọng là cách đọc chuyển tiếp liên tục đều 
đặc từ âm nọ sang âm kia tạo nên những câu hát liên tiếp 
không ngắt quãng. Người ta thường xử dụng thuật ngữ 
“legato”, hoặc dấu nối hình vòng cung đặt lên trên hoặc 
phía dưới các nốt cần luyến âm, tạo cho bài hát hay bài 
xướng âm những đường nét mềm mại, dàn trải... 
Ví dụ 18 [2; tr 89] 
Đọc rời tiếng hay còn gọi là “staccato” là cách đọc 
ngắt, nảy của từng âm. Staccato thường được kí hiệu 
bằng dấu (.) được đặt ở bên trên nốt nhạc. GV hướng dẫn 
SV nén hơi thở liên tục và đẩy nhẹ nhàng, không nên bật 
hơi ra theo từng nốt nhạc mà cố gắng giữ cho bụng tương 
đối ổn định, mềm mại. Âm thanh phát ra phải nhẹ nhàng, 
gọn tiếng, linh hoạt, rõ ràng từng âm một. Trong âm 
nhạc, việc sử dụng cách đọc staccato để diễn tả tình cảm 
rộn ràng, vui tươi, nhí nhảnh, hoặc tiếng chim hót... 
Ví dụ 19 [2; tr 89] 
3. Kết luận 
Tóm lại, nếu như nói Xướng âm là môn học mang 
tính cơ hữu trong hệ thống chương trình đào tạo âm nhạc, 
đặc biệt là đối với quá trình đào tạo GV mầm non thì việc 
rèn luyện để hình thành các kĩ năng thực hành khi học 
môn Kí xướng âm là một trong những mắt xích đầu tiên 
hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình học âm 
nhạc. Đó là kĩ năng chuyên môn không thể thiếu đối với 
công việc dạy học âm nhạc tại các trường mầm non. Đó 
cũng là điều kiện cần trong năng lực chuyên môn của một 
người GV âm nhạc trong tương lai mà một SV ngành 
GDMN cần phải có. Để đạt hiệu quả chất lượng tốt trong 
dạy học phân môn này, GV cần cung cấp kiến thức nền 
tảng đồng thời đưa ra các bước dạy học trình tự, hợp lí 
và phù hợp với khả năng học tập của đặc thù SV ngành 
này. Chúng tôi hi vọng rằng vấn đề nêu trên là những giải 
pháp thiết thực và mang lại hiệu quả cao trong công tác 
giảng dạy phân môn Xướng âm cho SV ngành GDMN 
tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Hoa - Phạm Phương Hoa (2000). Giáo trình kí 
xướng âm trình độ I. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện 
 Hà Nội. 
[2] Nguyễn Trung Kiên (2001). Phương pháp sư phạm thanh 
nhạc. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện Hà Nội. 
[3] Phạm Thị Hoà - Ngô Thị Nam (2011). Giáo dục âm nhạc 
(tập I). NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Phạm Tú Hương (2005). Lí thuyết âm nhạc cơ bản. NXB 
Giáo dục. 
[5] Phạm Tú Hương - Phạm Thanh Vân (2000). Giáo trình kí 
xướng âm trình độ II. Bộ Văn hoá thông tin - Nhạc viện 
Hà Nội. 
[6] Doãn Mẫn (1980). Phương pháp xướng âm. NXB 
Văn hoá. 
[7] Nguyễn Đắc Quỳnh (1993). Giáo trình xướng âm năm thứ 
nhất. Trường Cao đẳng Sư phạm nhạc hoạ Trung ương. 
[8] Lê Đức Sang - Hoàng Công Dụng - Trịnh Hoài Thu 
(2008). Giáo trình âm nhạc và múa (dùng cho hệ Cao 
đẳng Sư phạm mầm non). NXB Giáo dục. 
[9] Trịnh Hoài Thu (2011). Phương pháp dạy học Kí xướng 
âm. NXB Âm nhạc.

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_ren_luyen_ki_nang_xuong_am_trong_day_hoc_phan_mo.pdf