Phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa và sự vận dụng phương pháp này của C. Mác trong bộ tư bản luận

Trừu tượng hóa là một phương pháp cơ bản, đặc trưng khi nghiên cứu các vấn

đề kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm “Tư bản luận” C.Mác đã vận dụng thành công phương

pháp này để phân tích các quan hệ kinh tế hàng hóa tư bản, xuyên qua vô vàn các hiện

tượng kinh tế khác nhau, để vạch ra các quan hệ bản chất, các phạm trù, các quy luật vận

động của nền kinh tế đó. Nhận thức phương pháp trừu tượng hóa được C.Mác sử dụng

trong “Tư bản luận” giúp người đọc nghiên cứu các học thuyết kinh tế của C.Mác dễ dàng

hơn, cũng như giúp các nhà kinh tế chọn cách tiếp cận để nghiên cứu sự phát triển kinh tế

thị trường nước ta.

pdf 6 trang kimcuc 9140
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa và sự vận dụng phương pháp này của C. Mác trong bộ tư bản luận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa và sự vận dụng phương pháp này của C. Mác trong bộ tư bản luận

Phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa và sự vận dụng phương pháp này của C. Mác trong bộ tư bản luận
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Tấn Phong 
113 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRỪU TƯỢNG HÓA 
VÀ SỰ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÀY CỦA C. MÁC 
TRONG BỘ TƯ BẢN LUẬN 
THE METHOD OF ABSTRACTION RESEARCH AND THE APPLICATION 
OF THIS METHOD BY KARL MARX IN THE CAPITALIST 
HỒ TẤN PHONG 
 TS. Trường Đại học Văn Lang, Email:hotanphong@vanlanguni.edu.vn 
TÓM TẮT: Trừu tượng hóa là một phương pháp cơ bản, đặc trưng khi nghiên cứu các vấn 
đề kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm “Tư bản luận” C.Mác đã vận dụng thành công phương 
pháp này để phân tích các quan hệ kinh tế hàng hóa tư bản, xuyên qua vô vàn các hiện 
tượng kinh tế khác nhau, để vạch ra các quan hệ bản chất, các phạm trù, các quy luật vận 
động của nền kinh tế đó. Nhận thức phương pháp trừu tượng hóa được C.Mác sử dụng 
trong “Tư bản luận” giúp người đọc nghiên cứu các học thuyết kinh tế của C.Mác dễ dàng 
hơn, cũng như giúp các nhà kinh tế chọn cách tiếp cận để nghiên cứu sự phát triển kinh tế 
thị trường nước ta. 
Từ khóa: trừu tượng hóa, tư bản luận. 
ABSTRACT: Abstraction is a fundamental, characteristic method when studying socio-
economic issues. In his work "Capitalism," Marx successfully applied this method to 
analyze the economic relations of capital goods, through the various economic 
phenomena, to map the relations of the nature, categories and laws of the economy. The 
perception of the method used by K. Marx in "Capitalism" helps the reader to study his 
economic theory easier, as well as help economists choose the approach to studying the 
development of Vietnam's market economy. 
Key words: abstraction, capitalism. 
1. PHƯƠNG PHÁP TRỪU TƯỢNG 
HÓA 
Những năm gần đây, trong đào tạo thạc 
sĩ, tiến sĩ ở nước ta, các trường đại học đã 
rất coi trọng các phương pháp nghiên cứu 
khoa học, trong đó trừu tượng hóa là một 
phương pháp cơ bản khi nghiên cứu các 
vấn đề kinh tế - xã hội. 
C.Mác nói: “khi phân tích các hình 
thái kinh tế thì người ta không thể dùng 
kính hiển vi hay những chất phản ứng hóa 
học được. Sức trừu tượng hóa phải thay 
thế cho cả hai cái đó” [1, tr.16]. Phương 
pháp trừu tượng hóa đòi hỏi phải gạt bỏ 
những yếu tố ngẫu nhiên, không bền 
vững, không ổn định xảy ra trong những 
quá trình và hiện tượng được nghiên cứu, 
tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn 
định trong những hiện tượng và quá trình 
đó, trên cơ sở ấy xác định đúng bản chất 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
114 
các hiện tượng, quá trình, các quy luật 
vận động của chúng. 
2. SỰ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP 
TRỪU TƯỢNG HÓA TRONG BỘ TƯ 
BẢN LUẬN 
Tư bản luận - tác phẩm nổi tiếng mà 
trong đó trừu tượng hóa là một trong những 
phương pháp nghiên cứu cơ bản đã được 
C.Mác đã sử dụng rất điển hình để phân 
tích nền kinh tế tư bản. Không nắm vững 
phương pháp trừu tượng hóa sẽ rất khó khi 
đọc “Tư bản luận”, hay giản đơn hơn là đọc 
các giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin. 
Việc xác định điểm nghiên cứu xuất 
phát là điều kiện tiên quyết trong vận dụng 
phương pháp trừu tượng hóa. C.Mác đã 
phân tích các quan hệ kinh tế tư bản bắt đầu 
từ phân tích hàng hóa (sản xuất hàng hóa là 
hình thức sản xuất điển hình của phương 
thức sản xuất tư bản, hàng hóa là hình thái 
nguyên tố của của cải, chứa đựng mọi mầm 
mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất 
tư bản chủ nghĩa,... [2, tr.190]. 
Phân tích trừu tượng hóa, C.Mác 
thường đưa ra các giả định hợp lý, khoa 
học khi phân tích các quan hệ kinh tế. Ở 
quyển I, bộ Tư bản, để tìm ra bản chất quan 
hệ sản xuất tư bản, C.Mác xác định đối 
tượng nghiên cứu là quá trình sản xuất trực 
tiếp, nơi diễn ra quan hệ sản xuất trực tiếp 
giữa nhà tư bản và công nhân (mặc dù 
trong nền kinh tế tư bản còn nhiều mối 
quan hệ giữa các chủ thể kinh tế khác, 
nhưng sự tác động của chúng không làm 
thay đổi bản chất mối quan hệ giữa tư bản 
và lao động). Trong những phân tích ở 
quyển I, quá trình lưu thông được giả định 
là trôi chảy, hàng hóa mua, bán theo đúng 
giá trị. 
Sau khi làm rõ được bản chất quan hệ 
sản xuất tư bản qua phân tích quá trình sản 
xuất trực tiếp, ở quyển II bộ Tư bản tập 
trung nghiên cứu quá trình lưu thông tư bản 
(cái được giả định, trừu tượng trong nghiên 
cứu ở quyển I). Đó là quá trình lưu thông 
của tư bản cá biệt: tuần hoàn và chu chuyển 
tư bản, và lưu thông của tư bản xã hội (tái 
sản xuất tư bản xã hội). Tư bản cá biệt 
nghiên cứu ở đây, theo giả định của C.Mác, 
gọi là tư bản công nghiệp, lần lượt vận 
động qua ba giai đoạn: mua, sản xuất, bán. 
Ở mỗi giai đoạn, tư bản trải qua những hình 
thái khác nhau: tư bản tiền tệ, tư bản sản 
xuất, tư bản hàng hóa. Mỗi hình thái tư bản 
thực hiện một chức năng nhất định, để làm 
tăng giá trị tư bản. Phân tích tuần hoàn tư 
bản công nghiệp là cơ sở để phân tích sự 
chia tách các hình thái chức năng tư bản: tư 
bản thương nghiệp, tư bản cho vay,... theo 
lịch sử phát triển của nền kinh tế tư bản. 
Một số giáo trình, tài liệu ở nước ta khi 
biên soạn vấn đề nói trên đã thể hiện đúng 
tư duy trừu tượng của C.Mác trong khái 
niệm “tư bản công nghiệp” [3], [4]. 
Quyển III bộ Tư bản phân tích quá 
trình sản xuất thực tế tư bản chủ nghĩa như 
là sự thống nhất của sản xuất và lưu thông. 
Sự phân tích ở quyển III cho thấy, phạm trù 
giá trị thặng dư - phạm trù trừu tượng nhất, 
biểu hiện bản chất nhất của quan hệ sản 
xuất tư bản, từng bước biểu hiện thành các 
phạm trù lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, 
lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô tư 
bản,... 
Đi vào một số nội dung bộ Tư bản, từ 
phạm trù xuất phát là hàng hóa, C.Mác 
bằng tư duy trừu tượng cao, đã gạt bỏ giá 
cả, biểu hiện bằng tiền của hàng hóa, để 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Tấn Phong 
115 
hàng hóa biểu hiện thành quan hệ trao đổi 
trực tiếp với nhau, thành các giá trị trao đổi. 
C.Mác đã phát hiện ra bản chất phạm trù 
giá trị: trao đổi hàng hóa thực chất là trao 
đổi lao động của những người sản xuất 
hàng hóa với nhau. Vì vậy, giá trị - lao 
động là sự trừu tượng hóa đến bản chất 
quan hệ kinh tế mà hàng hóa chứa đựng. 
Trong các giáo trình kinh tế chính trị ở 
nước ta đều viết: giá trị và lao động trừu 
tượng tạo ra giá trị là phạm trù lịch sử, còn 
giá trị sử dụng và lao động cụ thể tạo ra giá 
trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn. Tuy 
nhiên, cách hiểu trên là đúng, khi chúng ta 
coi giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, 
công dụng của sản phẩm,... Nhưng giá trị 
sử dụng của hàng hóa phải là giá trị sử 
dụng xã hội, giá trị sử dụng mang giá trị 
trao đổi. Đó là hiện tượng lịch sử, và lao 
động cụ thể, một hình thức đặc biệt của hao 
phí lao động tạo ra giá trị sử dụng của hàng 
hóa, cũng là một hiện tượng lịch sử. 
Trên cơ sở giá trị lao động, C.Mác đã 
phân tích quan hệ kinh tế tư bản, chỉ ra giá 
trị hàng hóa tư bản ở dạng trừu tượng nhất, 
cũng là bản chất nhất, là W = “c + v + m”. 
Đó cũng là giá trị lao động: “c” tương ứng 
với chi phí lao động quá khứ, và “v+ m” là 
chi phí lao động sống. 
Phạm trù tư bản bất biến (c) là phạm 
trù trừu tượng tất cả chi phí tư liệu sản 
xuất trong sản phẩm, mà trong phần phân 
tích chu chuyển tư bản, “c” được phân 
giải thành tư bản cố định (c1) và phần chi 
phí nguyên vật liệu, nhiên liệu,... trong tư 
bản lưu động (c2). Phạm trù tư bản khả 
biến “v” ngang với giá trị sức lao động 
tổng hợp của công nhân, nhà quản lý,... 
được tái sản xuất trong sản phẩm (được 
trừu tượng thành giá trị sức lao động của 
công nhân làm thuê). Phạm trù giá trị 
thặng dư “m” được trừu tượng không phụ 
thuộc vào những hình thức biểu hiện 
trong thực tế của nó. 
Như vậy, bằng phương pháp trừu 
tượng hóa, C.Mác đã vạch ra bản chất quan 
hệ kinh tế trong sản xuất hàng hóa và bản 
chất quan hệ sản xuất tư bản. Từ những 
phạm trù trừu tượng nhất, cũng là bản chất 
nhất (giá trị - lao động, giá trị thặng dư) nói 
trên, C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa 
chúng với những phạm trù biểu hiện trên 
thực tế nền kinh tế xã hội thông qua các 
phạm trù trung gian của nhận thức. Đó là 
các quan hệ giữa giá trị với giá trị trao đổi, 
giá cả hàng hóa; quan hệ giữa giá trị thặng 
dư, lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi 
nhuận thương nghiệp, công nghiệp, lợi tức, 
địa tô; hay quan hệ giữa phạm trù giá trị - 
lao động, giá trị là c + v + m, là k + P (chi 
phí sản xuất tư bản + lợi nhuận), hay giá trị 
chuyển hóa hành K + Pbq (giá cả sản xuất), 
K + P đq (giá cả độc quyền). C.Mác đã coi 
đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp 
nhận thức khoa học quan trọng “nhờ đó mà 
tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo 
ra nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư 
duy” [5, tr. 877-878]. 
Một điển hình về sự vận dụng phương 
pháp trừu tượng hóa là C.Mác, người đầu 
tiên trong lịch sử kinh tế, đã phát minh ra 
tính chất hai mặt của lao động sản xuất 
hàng hóa (lao động cụ thể, lao động trừu 
tượng), cái mà nhiều nhà kinh tế trước 
C.Mác như A. Smith, D. Ricardo,... không 
thể nhận ra, đưa tới những quan điểm kinh 
tế sai lầm [6, tr.65,71]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
116 
C.Mác đã xếp phát minh về tính chất 
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa 
ngang với phát minh về giá trị thặng dư. 
Trong thư gửi Ph. Ăngghen (24/8/1867), 
C.Mác viết: “Cái ưu tú nhất trong cuốn 
sách của tôi (Bộ tư bản - H.T.P) là: 
(1) Nhấn mạnh ở chương I, tính chất 
hai mặt của lao động, khi được xem xét nó 
hoặc được biểu hiện trong giá trị sử dụng, 
hoặc trong giá trị trao đổi. 
(2) Nghiên cứu giá trị thặng dư không 
phụ thuộc vào những hình thức đặc biệt của 
nó như lợi nhuận, lợi tức, địa tô,...”. 
Không có phát minh về tính chất hai 
mặt của lao động sản xuất hàng hóa, không 
thể nhận thức được hai mặt của quá trình 
sản xuất tư bản, để từ đó khám phá ra bản 
chất giá trị thặng dư. Phát minh trên là bộ 
phận cấu thành quan trọng nhất làm nên 
bước ngoặc mà C.Mác đã tạo ra trong kinh 
tế chính trị, và đó là điểm xuất phát mà 
“nhận thức khoa học kinh tế chính trị xoay 
quanh”. Đáng tiếc là ở nước ta, phát minh 
về tính chất hai mặt của lao động sản xuất 
hàng hóa - một phát minh mang tính 
phương pháp luận có ý nghĩa to lớn đến 
nhận thức bản chất các quan hệ kinh tế 
hàng hóa tư bản chủ nghĩa, lại được đề cập 
ít ỏi, thoáng qua trong chương trình kinh tế 
chính trị cho sinh viên, cho cả học viên cao 
học, nghiên cứu sinh về ngành kinh tế 
chính trị học. Điều này có thể dẫn tới 
những nhận thức chưa đầy đủ, thậm chí sai 
lệch một số nguyên lý kinh tế chính trị của 
C.Mác. 
 Khi lao động là cơ sở tất cả các hiện 
tượng, các quá trình kinh tế hàng hóa, lao 
động đó có tính hai mặt, thì tất cả các hiện 
tượng, các quá trình kinh tế hàng hóa đều 
có tính hai mặt. Sản xuất hàng hóa là hình 
thức sản xuất điển hình của nền kinh tế tư 
bản, nên tính chất hai mặt của lao động sản 
xuất hàng hóa, và do đó tính hai mặt của tất 
cả các hiện tượng, các quá trình kinh tế 
hàng hóa biểu hiện đầy đủ nhất. 
Một mặt là nội dung vật chất tự nhiên 
của quá trình lao động gắn với lao động cụ 
thể, như quá trình tạo ra giá trị sử dụng 
hàng hóa, quá trình bảo tồn, chuyển giá trị 
tư liệu sản xuất sang sản phẩm, nâng cao 
sức sản xuất của lao động cụ thể, quá trình 
sản xuất giá trị thặng dư tương đối. 
Mặt khác hình thức kinh tế xã hội của 
quá trình sản xuất gắn với lao động trừu 
tượng, như quá trình tạo giá trị hàng hóa, 
quá trình tăng lên của giá trị, quá trình sản 
xuất giá trị thặng dư tương đối. 
Các giáo trình kinh tế chính trị nước 
ta đều viết: do lao động sản xuất hàng hóa 
có tính hai mặt nên hàng hóa có hai thuộc 
tính, giá trị sử dụng, giá trị, và bản thân 
giá trị cũng có hai mặt: giá trị cũ và giá 
trị mới. Tuy nhiên phân tích tiếp tục sẽ 
dẫn tới chỗ: do lao động sản xuất hàng 
hóa có tính hai mặt, nên giá trị sử dụng 
của hàng hóa cũng có hai mặt: giá trị sử 
dụng thực tế (kết quả của lao động cụ 
thể), là khả năng hàng hóa thỏa mãn nhu 
cầu cho người mua, và giá trị sử dụng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Tấn Phong 
117 
hình thức (kết quả của lao động trừu 
tượng), cái cần đối với người bán, với họ, 
hàng hóa chỉ là một thực thể mang giá trị. 
Trong nền kinh tế hàng hóa có rất nhiều 
loại hàng hóa không có giá trị sử dụng 
thực tế mà chỉ có giá trị sử dụng hình 
thức, như tiền giấy, cổ phiếu, trái phiếu, 
các văn tự nợ,... 
Một ví dụ khác, về khái niệm năng suất 
lao động: vì lao động sản xuất hàng hóa có 
tính hai mặt, lao động cụ thể và lao động 
trừu tượng, nên năng suất lao động cũng có 
hai mặt: một mặt, cường độ lao động liên 
quan đến lao động trừu tượng, tăng cường 
độ lao động là tăng hao phí lao động trừu 
tượng; và mặt khác, sức sản xuất của lao 
động liên quan tới lao động cụ thể, tăng sức 
sản xuất của lao động là nâng cao năng lực 
lao động cụ thể. Như vậy, năng suất lao 
động là một hiện tượng hai mặt phức tạp, là 
tổng hợp hiệu quả của lao động cụ thể và 
lao động trừu tượng, là sự thống nhất sức 
sản xuất của lao động và cường độ lao 
động. 
C.Mác nói: nâng cao sức sản xuất của 
lao động và tăng cường độ lao động tác 
động như nhau trong cùng một quan hệ, 
mặt này hay mặt khác đều làm tăng khối 
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn 
vị thời gian. “Như vậy là đại lượng giá trị 
của một hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận 
với lượng lao động thể hiện trong hàng hóa 
đó và theo tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của 
lao động đó” [1, tr.69]. 
Sức sản xuất của lao động được quy 
định bởi nhiều nhân tố, như: trình độ khéo 
léo của người lao động; mức độ phát triển 
của khoa học và trình độ áp dụng khoa học 
vào quá trình sản xuất; quy mô và hiệu quả 
của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự 
nhiên. Sức sản xuất của lao động tăng sẽ 
dẫn tới năng suất lao động tăng. 
Ở nước ta hiện nay, chỉ có một số tài 
liệu [3], [4], diễn đạt đúng khái niệm năng 
suất lao động như trình bày ở trên, đúng với 
phân tích của C.Mác từ quan điềm hai mặt 
của lao động sản xuất hàng hóa. Nhiều tài 
liệu khác, như các “Giáo trình những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - 
Lênin” do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì 
biên soạn đều đồng nhất phạm trù sức sản 
xuất của lao động với năng suất lao động, 
như là một hiện tượng khác biệt, đối lập với 
phạm trù cường độ lao động. 
 C.Mác dùng thuật ngữ năng suất lao 
động đồng nghĩa với sức sản xuất của lao 
động chỉ trong trường hợp cường độ lao 
động không đổi. 
3. KẾT LUẬN 
Trên đây là một số ví dụ rất điển hình 
của C.Mác đã sử dụng phương pháp trừu 
tượng hóa để phân tích các quan hệ kinh tế 
hàng hóa tư bản. Cùng với việc sử dụng 
nhiều phương pháp nghiên cứu khác, như 
phương pháp biện chứng duy vật, phương 
pháp thống nhất lô-gic và lịch sử, phương 
pháp phân tích và tổng hợp,... phương pháp 
trừu tượng hóa mang tính đặc trưng để 
nghiên cứu các thực thể kinh tế - xã hội, đã 
giúp C.Mác vượt qua vô vàn những hiện 
tượng kinh tế phức tạp, nhiều khi hỗn độn, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018 
118 
mang tính ngẫu nhiên của nền kinh tế tư 
bản để tìm ra những quan hệ mang bản 
chất, xác định các phạm trù, quy luật vận 
động của nền kinh tế đó. 
Nắm vững phương pháp trừu tượng 
hóa được C.Mác sử dụng trong bộ Tư bản 
luận giúp người đọc, cũng như các sinh 
viên bớt khó khăn khi nghiên cứu tác phẩm 
nổi tiếng của C.Mác, cũng như gợi mở về 
việc sử dụng phương pháp nghiên cứu này 
để phân tích các vấn đề kinh tế - xã hội ở 
nước ta hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập - tập 23, Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia. 
3. Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, 
tư tưởng Hồ Chí Minh (2009), Nxb. Chính trị Quốc gia. 
4. Đại học quốc gia Hà Nội (2008), Một số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ 
nghĩa Mác - Lênin (tập 2), Nxb. Lý luận Chính trị. 
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập - tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia. 
6. Đại học Kinh tế quốc dân (1996), Lịch sử các học thuyết kinh tế. Nxb. Thống kê. 
Ngày nhận bài: 15/8/2017. Ngày biên tập xong: 04/01/2018. Duyệt đăng: 17/3/2018. 

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_nghien_cuu_truu_tuong_hoa_va_su_van_dung_phuong.pdf