Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại
Kiểm định sức chịu đựng rủi ro- Stress test (ST) ngày càng được quan tâm
từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007- 2009 nhưng thực tế ST đã được
các ngân hàng quốc tế sử dụng từ những năm 1990. Nội dung chi tiết của
ST trong ngân hàng rất đa dạng phụ thuộc vào từng nền kinh tế và các nhà
điều hành chính sách, nhưng về cơ bản, chúng thường dùng để kiểm tra tình
hình hoạt động các ngân hàng khi môi trường kinh tế có những diễn biến
bất lợi bao gồm cả yếu tố vĩ mô, tài sản- nợ và các hoạt động ngoại bảng.
ST được thiết kế không chỉ để hiểu được các rủi ro của ngân hàng mà còn
chắc chắn rằng ngân hàng sẽ chuẩn bị tốt lượng vốn cần thiết khi đối mặt
với các tình huống bất lợi nhằm làm giảm tổn thất tiềm tàng. ST rủi ro thị
trường (RRTT) là một cấu phần quan trọng trong ST, bao gồm cả ST nội
bộ được thực hiện bởi ngân hàng hay ST được thực hiện bởi các nhà điều
hành chính sách tài chính. Trong suốt cuộc khủng hoảng 2007-2009, tổn
thất lớn nhất thường được phát hiện trong danh mục nhạy cảm với lãi suất
thị trường. ST RRTT được thực hiện cho danh mục trong sổ kinh doanh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại
39 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 208- Tháng 9. 2019 Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại Nguyễn Thị Diễm Hương Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 15/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 10/06/2019 Ngày duyệt đăng: 17/06/2019 Kiểm định sức chịu đựng rủi ro- Stress test (ST) ngày càng được quan tâm từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007- 2009 nhưng thực tế ST đã được các ngân hàng quốc tế sử dụng từ những năm 1990. Nội dung chi tiết của ST trong ngân hàng rất đa dạng phụ thuộc vào từng nền kinh tế và các nhà điều hành chính sách, nhưng về cơ bản, chúng thường dùng để kiểm tra tình hình hoạt động các ngân hàng khi môi trường kinh tế có những diễn biến bất lợi bao gồm cả yếu tố vĩ mô, tài sản- nợ và các hoạt động ngoại bảng. ST được thiết kế không chỉ để hiểu được các rủi ro của ngân hàng mà còn chắc chắn rằng ngân hàng sẽ chuẩn bị tốt lượng vốn cần thiết khi đối mặt với các tình huống bất lợi nhằm làm giảm tổn thất tiềm tàng. ST rủi ro thị trường (RRTT) là một cấu phần quan trọng trong ST, bao gồm cả ST nội bộ được thực hiện bởi ngân hàng hay ST được thực hiện bởi các nhà điều hành chính sách tài chính. Trong suốt cuộc khủng hoảng 2007-2009, tổn thất lớn nhất thường được phát hiện trong danh mục nhạy cảm với lãi suất thị trường. ST RRTT được thực hiện cho danh mục trong sổ kinh doanh Market risk stress testing Methodology Abstract: Stress test has received increased attention from financial institutions, regulations and experts since financial crisis 2008. In reality, Stress test has been actively adopted by international banks since the 1990s. ST processes are varied among banks depending on economy background and supervisors but they are often applied to test the performance of banks in the downturn of the economy through macro factors, assets- liabilities and off-balance sheet items. Stress test is designed not only to understand bank’s risk profile but also to ensure that banks have adequate capital to reduce potential losses in adverse scenarios. Market risk stress test is an important component of stress test including internal stresstest in banks and macro stress test excuted by supervisors. During the 2008 financial crisis, the significant losses were often found in the portfolio which were sensitive to market interest rates. Market risk stress test is applied for porfolios in the trading book, using possible scenarios of market risk factors. This paper describes the basics of stress test and Basel Commitees principles to design and governance stress test in banks. In additional, it emphasizes the methodology of market risk tress test in banks. Keywords: market risk, stress test, market risk stress test. Huong Thi Diem Nguyen, MEc. Email: huongnt@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201940 của ngân hàng, bằng cách sử dụng các kịch bản có thể xảy ra cho các yếu tố RRTT. Bài viết này sẽ giới thiệu nội dung cơ bản về ST và các nguyên tắc của Ủy Ban Basel liên quan đến phương pháp ST tại ngân hàng, nhấn mạnh đến phương pháp luận về quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng. Từ khóa: Rủi ro thị trường, kiểm tra sức chịu đựng, kiểm định sức chịu 1. Giới thiệu về kiểm định sức chịu đựng rủi ro và rủi ro thị trường 1.1. Khái niệm kiểm định sức chịu đựng rủi ro (ST) Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel (Basel Comitee on Banking Supervision- BCBS,1999) cho rằng, các tình huống bất lợi cần phải bao hàm các yếu tố có thể tạo ra các tổn thất hoặc thu nhập bất thường trong danh mục kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) và chúng sẽ cung cấp các thông tin về tác động của tình huống này lên các trạng thái của ngân hàng. BCBS (1999) cũng đề xuất các chỉ tiêu định tính và định lượng để nhận biết các tình huống căng thẳng có thể xảy ra. Những chỉ tiêu này nên nhấn mạnh vào hai mục tiêu chính của ST là nhằm đánh giá lượng vốn cần thiết của ngân hàng để hấp thụ các tổn thất lớn tiềm tàng và để nhận biết các bước mà ngân hàng cần phải thực hiện để giảm thiểu rủi ro và bảo toàn vốn. Berkowitz (1999) cho rằng ST là lựa chọn các tình huống bất lợi và hiếm, sau đó, đưa các tình huống này vào mô hình định giá. Như vậy, việc lựa chọn các tình huống ST phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của chuyên gia, điều này khiến cho các nhà điều hành chính sách gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm tra lại chương trình ST của ngân hàng. BCBS (2009) mô tả ST là tập hợp các kỹ thuật khác nhau được sử dụng bởi các tổ chức tài chính nhằm đo lường những tổn thương tiềm ẩn dưới những sự kiện ngoại lệ, bất thường (extreme & exceptional) nhưng có thể xảy ra (plausible). Kết quả của Stress test thường đánh giá sự thay đổi của (1) các chỉ số tài chính về vốn, mức độ tổn thất (solvency stress test), hoặc (2) các tỷ lệ an toàn về thanh khoản (liquidity stress test). Nói một cách khác, ST giúp cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính chủ động đối phó những tình huống xấu nhất có thể. ST được sử dụng như một công cụ bổ sung và hoàn thiện cho các mô hình thống kê truyền thống như Value at risk (Var) trong quản lý rủi ro. Tóm lại, ST là các kỹ thuật nhằm đo lường sự nhạy cảm của danh mục hoặc của hệ thống trước các cú sốc cực độ nhưng có khả năng xảy ra. Hiểu một cách đơn giản, ST ước lượng giá trị một danh mục thay đổi như thế nào dưới sự thay đổi lớn của một hoặc nhiều yếu tố rủi ro. 1.2. Các nguyên tắc của Basel liên quan đến hoạt động ST tại NHTM Theo BCBS (2009), cuộc khủng hoảng tài chính đã bộc lộ các tồn tại trong thực tiễn triển khai ST trước khi bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu khủng hoảng trên bốn khía cạnh: NGUYỄN THỊ DIỄM HƯƠNG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 41 (i) Áp dụng ST và kết hợp ST trong quản trị rủi ro: các NHTM thường thực hiện ST một cách độc lập và không liên quan đến các lĩnh vực kinh doanh chính, vì vậy các cấp quản lý các lĩnh vực kinh doanh này không nhận thấy ST hữu ích đối với họ. Thêm vào đó, ST chủ yếu được thực hiện bởi các đơn vị độc lập tập trung vào từng dòng sản phẩm kinh doanh hoặc từng rủi ro cụ thể. Chính vì vậy, chúng tạo ra rào cản tổ chức khi kết hợp các kết quả ST định tính và định lượng trong NH. (ii) Phương pháp luận ST: Trong một thời gian dài ổn định, các thông tin quá khứ thể hiện các điều kiện khá bình ổn nên các mô hình ST không thể hiện được các cú sốc nghiêm trọng tiềm tàng cũng như không tạo ra các tổn thương trong hệ thống. (iii) Lựa chọn kịch bản: Các kịch bản lịch sử thường được triển khai dựa trên các sự kiện thị trường nghiêm trọng trong quá khứ. ST không thể bao hàm các rủi ro của các sản phẩm trong khi chúng là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Đối với các kịch bản giả định, NHTM thường chỉ áp dụng các kịch bản nghiêm trọng vừa phải vì các kịch bản cực độ thường được xem là khó xảy ra trong thực tế. (iv) ST cho từng rủi ro và sản phẩm cụ thể: Các rủi ro cụ thể không được đề cập đến trong nội dung của hầu hết các ST là: rủi ro liên quan đến các sản phẩm cấu trúc phức tạp dưới các điều kiện thanh khoản căng thẳng, rủi ro cơ bản liên quan đến chiến lược phòng ngừa rủi ro, rủi ro chứng khoán, rủi ro lan truyền và rủi ro thanh khoản tài trợ vốn. Ủy ban Basel đã nhận ra tầm quan trọng của ST như một cấu phần của quản lý rủi ro nên cần phải được tăng cường cả về mức độ chi tiết và phạm vi rủi ro được xem xét. Một số ngân hàng đã bắt đầu giải quyết các vấn đề và các tồn tại của ST cho các rủi ro đã được xác định ở trên. Ủy ban Basel cũng đã ban hành các nguyên tắc triển khai và giám sát ST hiệu quả với mức độ áp dụng cần phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và mức độ tổng quát của rủi ro NHTM có thể chấp nhận được. Bản đề xuất các nguyên tắc triển khai và giám sát ST hiệu quả gồm 21 nguyên tắc tương đương với 4 phần: Nguyên tắc 1-6 đề cập đến việc áp dụng và cần phải kết hợp ST trong quản trị rủi ro; nguyên tắc 7-10 là về phương pháp ST và lựa chọn kịch bản; nguyên tắc 11-15 là các lĩnh vực đặc biệt cần phải tập trung; và cuối cùng nguyên tắc 16-21 là khuyến nghị cho cơ quan giám sát. Như vậy, các nguyên tắc này sẽ góp phần giúp các NHTM triển khai ST hiệu quả hơn. 1.3. Tổng quan rủi ro thị trường Theo Saunders (2008), RRTT được định nghĩa là rủi ro liên quan đến sự biến động thu nhập của ngân hàng trong danh mục kinh doanh gây ra bởi giá của tài sản, lãi suất, biến động thị trường và thanh khoản của thị trường. Chính vì vậy, những rủi ro như rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến RRTT. Tuy nhiên RRTT nhấn mạnh đến những rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh các tài sản, nợ và phái sinh hơn là việc nắm giữ chúng nhằm đầu tư dài hạn, tạo vốn hoặc mục đích phòng ngừa rủi ro. Định nghĩa RRTT lần đầu tiên được Ủy ban Basel đề cập trong Bản sửa đổi Hiệp ước vốn nhằm kết hợp rủi ro thị trường năm 1996. Trong văn bản này, RRTT được tổng quát là rủi ro liên quan đến Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201942 những tổn thất của trạng thái nội và ngoại bảng cân đối gây ra bởi những biến động trong giá cả thị trường, bao gồm: (a) Những rủi ro gắn liền với những công cụ lãi suất và cổ phiếu trong sổ kinh doanh; (b) Rủi ro tỷ giá và rủi ro hàng hóa trong ngân hàng. Có thể thấy RRTT xuất phát từ tất cả các trạng thái trong sổ kinh doanh của ngân hàng và từ rủi ro hàng hóa và rủi ro tỷ giá trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng. BCBS (2016) đã sửa đổi và bổ sung định nghĩa về RRTT như sau: “RRTT là rủi ro liên quan đến những tổn thất gây ra bởi sự biến động trong giá cả thị trường. Những rủi ro này bao gồm nhưng không bị giới hạn bởi: (a) Rủi ro vỡ nợ, rủi ro lãi suất, rủi ro chênh lệch tín dụng (credit spread risk), rủi ro cổ phiếu, rủi ro tỷ giá và rủi ro hàng hóa trong sổ kinh doanh; (b) Rủi ro tỷ giá và rủi ro hàng hóa trong sổ ngân hàng”. Như vậy, Ủy ban Basel đã bổ sung thêm rủi ro vỡ nợ và rủi ro chênh lệch tín dụng trong sổ kinh doanh vào định nghĩa RRTT. Điều này được giải thích là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ năm 2007 cho thấy khung vốn trước đó cho RRTT chưa bao hàm một số rủi ro quan trọng trong sổ kinh doanh ngân hàng, chính vì vậy, đã góp phần gây ra những tổn thất và đòn bẩy tài chính tăng cao cho ngân hàng (BCBS, 2010). Tóm lại, RRTT bao gồm các rủi ro tổn thất tài chính phát sinh bởi sự biến động bất lợi của lãi suất, tỷ giá, giá cả thị trường của chứng khoán và hàng hóa và các tham số có liên quan như khả năng vỡ nợ và rủi ro chênh lệch tín dụng. Rủi ro thị trường bao gồm bốn loại rủi ro chính: Rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro trạng thái cổ phiếu và rủi ro hàng hóa. 2. Quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường 2.1. Khái niệm kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường và so sánh với kiểm định sức chịu đựng rủi ro tín dụng Khái niệm ST RRTT: Đánh giá sức chịu đựng RRTT là kỹ thuật kiểm tra tính ổn định, khả năng chịu đựng của tổ chức tài chính trước những biến động của thị trường. Theo Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS, 2001), những biến động của thị trường có thể ảnh hưởng đến khả năng chịu đựng của các tổ chức tài chính, các ngân hàng là những yếu tố như: lãi suất, tỷ giá, giá chứng khoán, giá hàng hóa So sánh ST RRTT và ST rủi ro tín dụng: Hiện nay, hầu hết các tài liệu trong và ngoài nước nghiên cứu về ST có xu hướng đề cập nhiều đến ST rủi ro tín dụng vì rủi ro tín dụng gây ra tổn thất khá lớn cho các NHTM, trong khi đó các nghiên cứu về ST RRTT chưa có nhiều mặc dù RRTT đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng tại các NHTM và là yêu cầu bắt buộc nếu triển khai Basel II. Tuy nhiên, ST rủi ro tín dụng và ST RRTT vẫn tồn tại những khác biệt cơ bản về phương pháp ST. ST RRTT và rủi ro tín dụng có chung mục đích cuối cùng là ước lượng sự tác động của các kịch bản nghiêm trọng nhưng có khả năng xảy ra lên giá trị của các danh mục ngân hàng. ST RRTT thường được hiểu là ST sổ kinh doanh ngân hàng. So với sổ ngân hàng, sổ kinh doanh có nhiều công cụ với trạng thái đa dạng và các yếu tố rủi ro. Hơn nữa, các tổn thất hạch toán theo giá thị trường cho sổ kinh doanh thường được đo lường vào một thời gian nhất định. Cụ thể, các trạng thái phái sinh NGUYỄN THỊ DIỄM HƯƠNG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 43 là kết quả của hoạt động ngoại bảng của các tổ chức tài chính thường là nội dung trọng tâm của ST RRTT. Các phương pháp đo lường rủi ro như Var, là công cụ chủ yếu nhằm đo lường lượng vốn rủi ro cũng như tính toán vốn pháp lý cho các hoạt động đó. Basel 2.5 cũng đã giới thiệu khái niệm “Stress Var”. Ngược lại, ST rủi ro tín dụng được thực hiện chủ yếu cho danh mục trong sổ ngân hàng, bao gồm các danh mục nợ, chứng khoán hoặc các trạng thái được nắm giữ để đầu tư cũng như đầu tư vốn trực tiếp. Kết quả của ST cho rủi ro tín dụng thường là tính toán tổn thất trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên tác động của sự thay đổi xếp hạng, xác suất vỡ nợ và tổn thất ước tính. Việc lựa chọn các kịch bản cho ST rủi ro tín dụng đa dạng hơn vì các thành phần trong danh mục có thể chịu tác động của các điều kiện thị trường khác nhau. Tuy nhiên, các trạng thái sổ kinh doanh cũng chịu tác động của rủi ro tín dụng nếu các yếu tố rủi ro bao gồm cả chênh lệch tín dụng (credit spread). Hơn nữa, cả trạng thái sổ kinh doanh và sổ ngân hàng đều chịu tác động của rủi ro đối tác cho các giao dịch tài chính phái sinh hoặc chứng khoán. Một sự khác biệt nữa giữa hai loại rủi ro này xuất phát từ rủi ro thanh khoản. Sự thay đổi trong thanh khoản có thể có tác động ngay lập tức và nghiêm trọng đến giá trị của trạng thái sổ kinh doanh. Cuộc khủng hoảng tài chính 2007- 2009 nhấn mạnh tác động nghiêm trọng của thanh khoản mà trước đó chưa được chú ý nhiều trong ST trước khi cuộc khủng hoảng xảy ra. Trong khi các ngân hàng, cơ quan quản lý và các nhà nghiên cứu đã nhận ra tầm quan trọng của quản lý rủi ro thanh khoản, việc kết hợp rủi ro thanh khoản vào ST được cho là không đơn giản. 2.2. Quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường Như đã nói ở trên, các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến ST tại NHTM thường có xu hướng tập trung vào phương pháp, quy trình rủi ro tín dụng, ít có các nghiên cứu tập trung vào ST RRTT. Markovic (2011) và Akhatar (2013) là một trong số ít các nghiên cứu tập trung vào phương pháp luận ST RRTT. Markovic (2011) tập trung vào quy trình ST RRTT tại các tổ chức tài chính quốc tế với danh mục khá phức tạp, quy trình do Markovic đề xuất gồm 7 bước bao gồm xác định phạm vi và hình thức ST, lựa chọn nhóm tài sản, xác định khoảng thời gian cho ST, lựa chọn yếu t ... hẳng các yếu tố rủi ro thông qua các cú sốc được xác định trước, ví dụ như thay đổi giá cổ phiếu một độ lệch chuẩn hoặc tăng giá dầu tới một mức độ xác định. Nói một cách đơn giản, đây là kịch bản giả định. Đối với phân tích kịch bản lịch sử, tình trạng thị trường trong một khoảng thời gian lịch sử xác định liên quan đến danh mục của ngân hàng được sử dụng. Các kịch bản này bao gồm khủng hoảng tín dụng 2007- 2009 Đối với phân tích kịch bản tồi tệ, việc nghiên cứu tự động các thay đổi tương lai theo điều kiện thị trường được thực hiện nhằm đánh giá lợi nhuận và rủi ro dưới kịch bản đó. Cũng giống như ST cho các loại rủi ro khác, ST RRTT cũng dựa vào các kịch bản giả định và lịch sử. Các kịch bản sử dụng trong ST toàn ngân hàng có xu hướng tập trung vào các biến tài chính và vĩ mô như GDP, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát, giá nhà và lãi suất. Các tổn thất xuất phát từ RRTT trong các kịch bản này thường khó để ước lượng trực tiếp. Các ngân hàng thường chuyển các kịch bản vĩ mô thành các yếu tố RRTT như sự thay đổi trong chênh lệch tín dụng, giá hàng hóa và biến động của các yếu tố khác được sử dụng để tính toán tổn thất cho các cú sốc thị trường. Ví dụ, đánh giá hoán đổi rủi ro vỡ nợ phụ thuộc vào tỷ lệ phục hồi và xác suất vỡ nợ của các tài sản tham chiếu. Nếu các kịch bản vĩ mô được xác định với các yếu tố GDP, tỷ lệ thất nghiệp và giá nhà, ngân hàng sẽ phải sử dụng một mô hình bổ trợ để chuyển các biến vĩ mô thành các xác suất vỡ nợ và tỷ lệ phục hồi. Cũng như vậy, đối với các sản phẩm tài chính như chứng khoán, NHTM thường sử dụng hệ thống như Intex để đánh giá chứng khoán. Các yếu tố đầu vào cho Intex thường được tính toán từ các kịch bản vĩ mô sử dụng các mô hình bổ trợ. Đối với phần lớn các tổn thất của RRTT, các biến cần thiết là yếu tố đầu vào của mô hình định giá sử NGUYỄN THỊ DIỄM HƯƠNG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 47 dụng cho các trạng thái sổ kinh doanh bao gồm giá, biến động và các thông số khác như mức độ tương quan giữa các yếu tố đầu vào. Nhìn chung, các căng thẳng được mô hình hóa là các biến động lớn của các yếu tố đầu vào này. Do sự linh hoạt tương đối lớn trong việc chuyển các biến vĩ mô thành các biến được sử dụng nhiều trong ST RRTT, tính tương đương và nhất quán trong và xuyên suốt các ngân hàng có thể là một thách thức trong ST RRTT so với ST rủi ro tín dụng. Chính vì vậy, trong nhiều bài ST của cơ quan quản lý dựa trên Đạo luật Dod-Frank (Dod-Frank Act) hoặc Chương trình Rà soát và Phân tích vốn toàn diện của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve’s Comprehensive Capital Analysis and Review- Fed’ CCAR) và ST giám sát được thực hiện bởi Cơ quan Ngân hàng Châu Âu (European Banking Authority- EBA), các cơ quan quản lý sẽ chỉ định các giá trị của các biến số sẽ tạo thành đầu vào của hệ thống đánh giá RRTT mà NHTM cần phải thực hiện. Tuy nhiên, ngay cả trong các trường hợp đó, các ngân hàng thường xuyên phải bổ sung đầu vào của các yếu tố rủi ro mà các cơ quan quản lý không chỉ định. Bên cạnh đó, khác với sổ ngân hàng có tài sản chủ yếu là tín dụng dài hạn, các danh mục trong sổ kinh doanh NHTM tạo ra nhiều trạng thái, có thể có các trạng thái có lợi trong một kịch bản bất lợi. Điều này gia tăng áp lực về phương pháp để xác minh các kết quả của ST RRTT. Bởi các kịch bản do các cơ quan quản lý cung cấp có thể đã không bao gồm tất cả các yếu tố rủi ro có thể xảy ra mà một NHTM đã sử dụng, điều này cho thấy mức độ không nhất quán của ST RRTT cao hơn ST rủi ro tín dụng. Chính vì vậy, hiệu quả của việc kiểm soát của cơ quan quản lý trở nên vô cùng quan trọng. Mặc dù mục tiêu của các cơ quan quản lý trong việc xác định các giá trị cho các yếu tố đầu vào của đánh giá RRTT là nhằm tăng cường tính nhất quán và khả năng so sánh giữa các ngân hàng, nhưng nó sẽ gặp phải các vấn đề như “một phương pháp không thể phù hợp cho tất cả các ngân hàng” và “ bắt kịp những thay đổi”. Nhằm đảm bảo rằng các ST RRTT phản ánh chính xác mức độ rủi ro của mỗi NHTM, cơ quan quản lý cần phải đưa ra các yếu tố đầu vào, đặc biệt là các yếu tố được tạo ra bởi các NHTM, nhằm xem xét kỹ lưỡng hơn về tính đại diện và toàn diện của chúng. 2.2.6. Lựa chọn khoảng thời gian trong ST RRTT ST các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng thường tập trung vào các tổn thất trong một khoảng thời gian dài 9 quý như đã áp dụng trong Đạo luật Dod-Frank và Fed’ CCAR. Một phần quan trọng của các ST này là xác định danh mục sẽ thay đổi như thế nào trong khoảng thời gian căng thẳng. Trong lịch sử, các bài ST về RRTT, chẳng hạn như các bài ST tập trung vào danh mục kinh doanh, có thời gian rất ngắn, ví dụ như 10 ngày hoặc thậm chí tức thời, tùy thuộc vào tần suất giao dịch của các sản phẩm trong danh mục đầu tư. Như vậy, thời gian trong ST RRTT ngắn hơn xuất phát từ đặc trưng của sổ kinh doanh là giao dịch thường xuyên hơn và thời gian nắm giữ ngắn hơn. Sự lựa chọn khoảng thời gian không chỉ có tác động trực tiếp đến việc định giá danh mục đầu tư trong các bài ST, mà còn là căn cứ để ngân hàng đưa ra các biện pháp như giảm mức rủi ro dựa trên kết quả của các bài ST (Markovic, 2011). Ví dụ, một khía cạnh quan trọng trong sự lựa Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201948 chọn khoảng thời gian ST là điều gì sẽ xảy ra sau cú sốc ban đầu, hay nói cách khác là dư chấn. Alexander và Sheedy (2008) đã chỉ ra rằng hậu quả của một sự kiện gây sốc có thể bao gồm một số hoặc tất cả những điều sau đây: Những biến động lớn hơn nữa trong cùng một thị trường; biến động lớn trong các thị trường khác và tương quan cao hơn giữa các thị trường; và biến động trong các thị trường quyền chọn tăng lên và thanh khoản thị trường giảm. Trong một bài ST RRTT ở cấp độ danh mục đầu tư về RRTT, khoảng thời gian được sử dụng có thể giống như khoảng thời gian sử dụng trong VaR, chẳng hạn như 10 ngày. Trong một kịch bản như vậy, dư chấn có thể không xảy ra. Tuy nhiên, đối với các bài ST mở rộng toàn ngân hàng, khoảng thời gian trong các bài ST RRTT thường được yêu cầu phải giống với các bài ST cho các rủi ro khác, như rủi ro tín dụng, bởi vì cần có một khoảng thời gian chung để tạo ra tính nhất quán giữa các rủi ro khác nhau. Hai vấn đề sau cần được xem xét thận trọng trong quá trình kéo dài thời gian cho RRTT. Đầu tiên là có liên quan dư chấn nhắc đến ở trên. Ví dụ, nếu NHTM tính tổn thất trong một năm bằng cách lấy tổn thất của 10 ngày và mở rộng nó đến một năm thông qua phương pháp như nhân với căn bậc hai của thời gian sẽ có thể làm sai lệch các tổn thất, vì bỏ qua các dư chấn. Thứ hai là tác động của phòng ngừa rủi ro (hedging), cách thức quản lý và những giả định được thực hiện liên quan đến phòng ngừa rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có được tính đến hay không và cách thức phòng ngừa rủi ro được điều chỉnh có khác nhau giữa các tổ chức hay không là những vấn đề cần phải quan tâm. Các ngân hàng thường lập luận rằng họ có thể thực hiện các chiến lược phòng ngừa rủi ro năng động nhằm giảm đáng kể các khoản tổn thất bất ngờ của danh mục đầu tư. Tuy nhiên, trong một môi trường căng thẳng nghiêm trọng, không chắc chắn rằng các công cụ phòng ngừa rủi ro liệu còn tồn tại với đủ thanh khoản hay không. Những kinh nghiệm với cuộc khủng hoảng năm 1987 cho thấy các chiến lược phòng ngừa rủi ro năng động trong điều kiện thông thường đã thất bại khi không tính đến các phản hồi tích cực của nhu cầu phòng ngừa rủi ro trong điều kiện căng thẳng, đặc biệt khi có sự gián đoạn lớn. Việc kéo dài khoảng thời gian cho ST RRTT nhằm thực hiện ST toàn ngân hàng có thể xuất hiện vấn đề khi cho rằng chiến lược phòng ngừa rủi ro năng động thực sự trong những điều kiện căng thẳng này vẫn tỏ ra hiệu quả như ở trong điều kiện bình thường. 2.2.7. Đánh giá lại và tính toán lãi, lỗ dưới kịch bản căng thẳng Khi các kịch bản căng thẳng thị trường được xác định, bước tiếp theo là đánh giá trạng thái trong danh mục dưới các kịch bản căng thẳng. Sự khác biệt trong giá trị của các trạng thái dưới kịch bản căng thẳng và giá trị hiện tại là chỉ tiêu lãi hoặc lỗ. Quá trình ước lượng lãi, lỗ trong bối cảnh căng thẳng bao gồm một số bước sau: Định giá theo giá thị trường (Mark-to- market) và định giá theo mô hình (market- to-model) Định giá nhằm mục đích báo cáo và quản lý rủi ro thường dựa vào hai phương pháp: (i) Định giá theo giá thị trường sử dụng giá đóng cửa; (ii) định giá theo mô hình dựa trên mô hình phân tích hoặc số học (Akhtar, 2013). Các mô hình này thường NGUYỄN THỊ DIỄM HƯƠNG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 49 sử dụng các tham số đầu vào đã được điều chỉnh từ các mức giá thị trường hiện tại. Những mô hình định giá này tạo thành khung cho việc đánh giá lại hoặc định giá lại các trạng thái theo các kịch bản căng thẳng. Cho dù các trạng thái được đánh giá theo giá thị trường hoặc theo mô hình, các mô hình định giá được sử dụng để tạo độ nhạy cảm rủi ro cho các yếu tố rủi ro. Ví dụ, tỷ lệ sự thay đổi giá/ giá giao ngay thường được gọi là delta, trong khi tỷ lệ thay đổi về giá/ thay đổi biến động được gọi là vega... Những độ nhạy cảm rủi ro này, như delta, gamma và vega, dựa trên chuỗi Taylor thể hiện sự thay đổi trong định giá cho những thay đổi trong các yếu tố rủi ro. Các NHTM thường sử dụng phương pháp “va chạm và định giá lại “ (bump-and-reprice) để ước tính các mức độ nhạy cảm này (Akhtar, 2013). Các độ nhạy cảm rủi ro này được tổng hợp theo sản phẩm, đơn vị kinh doanh, pháp nhân, dựa trên mức độ chi tiết của đo lường rủi ro và báo cáo rủi ro kỳ vọng. Một khi chúng ta có các nhà định giá và/hoặc độ nhạy cảm rủi ro cho các trạng thái trong danh mục đầu tư, các cú sốc thị trường căng thẳng được áp dụng để định giá lại các trạng thái đó. Mặc dù cú sốc thị trường thường có thể được áp dụng trực tiếp vào các yếu tố rủi ro, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng được thể hiện dưới dạng một tỷ lệ tương đối hoặc tuyệt đối so với mức độ hiện tại của các yếu tố rủi ro (Akhtar, 2013). Hơn nữa, dựa trên phương thức mô hình định giá thu thập các yếu tố đầu vào thị trường, NHTM có thể cần phải chuyển đổi các yếu tố rủi ro đầu vào trong kịch bản căng thẳng sang các yếu tố đầu vào có thể sử dụng được trong các mô hình định giá. Điều này cũng cần thiết nhằm tránh các điều kiện giới hạn, tỷ lệ âm hoặc biến động tiêu cực trong tương lai. Đánh giá lại: Đánh giá dựa trên độ nhạy (sensitivity based revaluation), đánh giá dựa trên mạng lưới (grid based revaluation), đánh giá toàn diện Khi định giá lại các trạng thái dưới các kịch bản được chỉ định, các NHTM có thể áp dụng độ nhạy cảm rủi ro thường được tạo ra trong hệ thống định giá tại văn phòng nhằm đánh giá lại các trạng thái. Sự sai lệch có thể chấp nhận được khi các cú sốc yếu tố rủi ro là nhỏ. Đối với các công cụ tuyến tính như vốn chủ sở hữu tiền mặt, việc sử dụng độ nhạy cảm rủi ro có thể chính xác. Tuy nhiên, khi đánh giá lại các trạng thái trong khi tồn tại mối quan hệ phi tuyến tính giữa giá cả và các biến động của yếu tố rủi ro, việc sử dụng các đánh giá đầy đủ thông qua các nhà định giá được cho là hiệu quả, vì chuỗi Taylor sử dụng độ nhạy rủi ro sẽ không hiệu quả đối với các biến động lớn của các yếu tố rủi ro (Akhtar, 2013). Ngoài sử dụng độ nhạy cảm rủi ro hoặc sử dụng các đánh giá đầy đủ, trong đó tất cả các yếu tố rủi ro liên quan đều bị sốc đồng thời, các NHTM cũng có thể sử dụng phương pháp định giá dựa vào lưới (grid based revaluation). Đây là những đánh giá đầy đủ được ước tính trước cho các biến động xác định của các yếu tố rủi ro và có thể dành cho một yếu tố rủi ro hoặc cho các sự biến động kết hợp của các yếu tố rủi ro (hai hoặc nhiều lưới). Nếu kịch bản căng thẳng nằm ở giữa hoặc bên ngoài các điểm lưới được chỉ định trước (giả sử 1%, 5%, 10%...), phép nội suy và ngoại suy được sử dụng để ước tính lãi, lỗ cho các kịch bản đó. Mặc dù không đáng tin cậy như đánh giá lại đầy đủ thông qua sử dụng các hệ thống định Phương pháp luận quy trình kiểm định sức chịu đựng rủi ro thị trường tại ngân hàng thương mại Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201950 giá, phương pháp này lại có lợi thế về tốc độ tính toán, đặc biệt là khi xử lý số liệu lớn của các trạng thái và/ hoặc các kịch bản. 3. Kết luận ST RRTT là một công cụ quan trọng nhằm quản lý rủi ro, mức độ đủ vốn và hoạt động giám sát ngân hàng. Bài viết này đã giới thiệu những nội dung cơ bản của ST và tóm tắt các yếu tố quan trọng của ST RRTT tại các NHTM, các kịch bản khác nhau của các yếu tố RRTT được phát triển và các danh mục nhạy cảm với RRTT được đánh giá lại dưới các kịch bản nhằm ước tính tổn thất tiềm tàng. Quy trình ST RRTT bao gồm 7 bước được hệ thống lại gồm: Xác định phạm vi và loại hình ST; lựa chọn nhóm tài sản; lựa chọn các yếu tố rủi ro; lựa chọn dữ liệu; lựa chọn kịch bản; lựa chọn khoảng thời gian; đánh giá lại và tính toán lãi lỗ dưới kịch bản căng thẳng. Bài viết sẽ là căn cứ tham khảo về phương pháp luận cho các NHTM Việt Nam trong việc triển khai ST RRTT theo yêu cầu của Tài liệu tham khảo 1. Akhtar, S. and Hasan, I., 2013. Stress testing: Approaches, methods and applications. Risk Books,. 2. Alexander, C. and Sheedy, E., 2008. Developing a stress testing framework based on market risk models. Journal of Banking & Finance, 32(10), pp.2220-2236. 3. Berkowitz Jeremy (1999), A coherent framework for stress-testing, Nhà xuất bản Divisions of Research & Statistics and Monetary Affairs, Federal Reserve Board 4. BCBS (1996), Amendment to the capital accord to incorporate market risks 5. BCBS (1999), Framework for Supervising Information about Derivatives and Trading Activities 6. BCBS (2009), Principles for sound stress testing practices and supervision 7. BCBS (2010), Revisions to the Basel II market risk framework 8. BCBS (2009), Principles for sound stress testing practices and supervision 9. BCBS (2016), Minimum capital requirements for market risk 10. Cihák, M. 2004, ‘Stress testing – A review of key concepts’, CNB Interntional research and policy notes, 02/2004 11. Cornett, M.M. and Saunders, A., 2003. Financial institutions management: A risk management approach. McGraw-Hill/Irwin 12. Christoffersen, P. and Pelletier, D., 2004. Backtesting value-at-risk: A duration-based approach. Journal of Financial Econometrics, 2(1), pp.84-108. 13. Marković, P. and Urošević, B., 2011. Market risk stress testing for internationally active financial institutions. Economic annals, 56(188), pp.62-90. 14. Quagliariello, M. ed., 2009. Stress-testing the banking system: methodologies and applications. Cambridge University Press. NHNN để đáp ứng các chuẩn mực Basel II và các nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào quy trình thực hiện ST RRTT tại các NHTM Việt Nam ■
File đính kèm:
- phuong_phap_luan_quy_trinh_kiem_dinh_suc_chiu_dung_rui_ro_th.pdf