Phương pháp đánh giá một số rủi ro trong kiểm toán các chỉ tiêu an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại (NHTM) là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ. Việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng được hoạt động một cách ổn định, an toàn, tránh đổ vỡ có một ý nghĩa hết sức to lớn. Từ những lý do đó, NHNN đã ban hành các quy định về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM.

Qua thực tiễn kiểm toán, bài viết đưa ra phương pháp đánh giá một số rủi ro khi kiểm toán các chỉ tiêu an

toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại.

pdf 7 trang kimcuc 8440
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp đánh giá một số rủi ro trong kiểm toán các chỉ tiêu an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp đánh giá một số rủi ro trong kiểm toán các chỉ tiêu an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại

Phương pháp đánh giá một số rủi ro trong kiểm toán các chỉ tiêu an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN34 Số 133 - tháng 11/2018
PHÖÔNG PHAÙP ÑAÙNH GIAÙ MOÄT SOÁ RUÛI RO TRONG 
KIEÅM TOAÙN CAÙC CHÆ TIEÂU AN TOAØN HOAÏT ÑOÄNG 
CUÛA NGAÂN HAØNG THÖÔNG MAÏI
ThS. Vũ THANH ĐOAN*
ThS. HỨA DUY LUYẾN*
*KTNN chuyên ngành VII
1. Sự ra đời của các quy định về an toàn trong 
hoạt động của Ngân hàng thương mại
Nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, bảo 
đảm kiểm soát tốt chất lượng hoạt động, an toàn 
thanh khoản, hoạt động đầu tư, góp vốn, mua cổ 
phần; tăng cường tính công khai, minh bạch trong 
hoạt động thông qua các cơ chế báo cáo, tự công 
khai để giám sát của chính nội bộ TCTD, các thành 
viên góp vốn, cổ đông của TCTD và tăng cường sự 
giám sát, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước, 
bảo đảm an toàn trong hoạt động đối với từng 
TCTD cũng như toàn hệ thống, hạn chế việc sở hữu 
chéo không lành mạnh, sự thâu tóm, chi phối của 
một hoặc một số TCTD đối với TCTD khác thông 
qua các hoạt động cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ 
phần và các hình thức khác góp phần thúc đẩy phát 
triển thị trường vốn, thị trường tài chính phát triển 
một cách lành mạnh. Ngày 20/11/2014, NHNN đã 
ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định 
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của 
các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các 
văn bản quy định về trạng thái ngoại tệ và dự trữ 
bắt buộc. Thông tư 36 và các văn bản trên đã sửa 
đổi, thay thế một số nội dung cơ bản trong các quy 
định trước đây, bao gồm: Quyết định số 03/2008/
QĐ-NHNN; Thông tư 15/2009/TT-NHNN; 
Thông tư 13/2010/TT-NHNN, Thông tư 19/2010/
TT-NHNN và Thông tư 22/2011/TT-NHNN. 
Kiểm toán nhà nước Chuyên ngành VII thuộc 
Kiểm toán nhà nước với nhiệm vụ được giao là thực 
hiện các cuộc kiểm toán trong lĩnh vực tài chính, 
ngân hàng, bảo hiểm. Trong nhiều năm qua, Kiểm 
Ngân hàng thương mại (NHTM) là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ. Việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng được hoạt động một cách ổn định, an toàn, tránh đổ vỡ có một ý nghĩa hết sức to lớn. Từ những lý do đó, NHNN đã ban hành các quy định về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM. 
Qua thực tiễn kiểm toán, bài viết đưa ra phương pháp đánh giá một số rủi ro khi kiểm toán các chỉ tiêu an 
toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Từ khóa: Rủi ro, chỉ tiêu an toàn
Method of assessing some risks in auditing safety operation criteria of commercial banks
Commercial banks are tools for the State to regulate the macro economy through monetary policy. 
Ensuring that the banking system is operating in a safe, secure and avoidance manner has a tremendous 
significance. For these reasons, the State Bank has issued regulations on limits and safety ratios of commercial 
banks. Throughout the audit practice, the article provides a method for assessing risks when auditing safety 
criteria in commercial banks’ operations.
keywords: Risks, safety criteria
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 133 - tháng 11/2018
toán nhà nước Chuyên ngành VII đã thực hiện 
nhiều cuộc kiểm toán các NHTM như BIDV, VCB, 
Vietinbank, Agribank và đã đạt được nhiều kết quả 
rất đáng khích lệ. Kiểm toán nhà nước Chuyên 
ngành VII đã thực hiện nhiều nội dung kiểm toán 
như kiểm toán đánh giá các hoạt động tín dụng, 
đầu tư, nguồn vốn, việc chấp hành các quy định của 
nhà nước trong quản lý thu nhập, chi phí... Trong 
đó, nội dung kiểm toán đánh giá về các chỉ tiêu an 
toàn theo quy định của NHNN đã được thực hiện 
và bước đầu đã đạt được kết quả nhất định.
Trong các năm gần đây, các ngân hàng TMCP 
đã công khai báo cáo cáo thường niên, tuy nhiên 
thông tin công bố công khai chưa đầy đủ các chỉ 
tiêu an toàn. Các chỉ tiêu này thường được các ngân 
hàng báo cáo lồng ghép vào các báo cáo chuyên đề: 
báo cáo hoạt động về tín dụng, về công tác đầu tư 
vốn, về hoạt động kinh doanh ngoại tệ... Tại một 
số BCKT cho thấy một số tồn tại như: các NHTM 
thường công bố các chỉ tiêu an toàn tại thời điểm 
tại 31/12 mà các thời điểm trong năm không được 
đề cập đến. Qua công tác kiểm toán cũng đánh giá 
việc chưa tuân thủ về giới hạn tỷ lệ an toàn vốn, 
việc tính toán chưa đúng các cấu phần vốn tự có 
cấp 2, tài sản có rủi ro quy đổi, thống kê chưa chính 
xác các khoản vốn vay trung và dài hạn, hoặc vượt 
quá giới hạn đầu tư...
2. Đánh giá một số rủi ro trong việc kiểm toán 
các chỉ tiêu an toàn hoạt động của các NHTM
Căn cứ quy định của Thông tư 36 và các văn bản 
quy định về việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong 
hoạt động ngân hàng, khi kiểm toán các tỷ lệ an 
toàn trong hoạt động ngân hàng chúng ta chú ý các 
vấn đề sau:
2.1. Về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Theo quy định tại Điều 9 của Thông tư 36 thì 
TCTD phải thường xuyên duy trì Tỷ lệ an toàn vốn 
tối thiểu (trong đó đồng thời phải duy trì Tỷ lệ an 
toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và Tỷ lệ an toàn vốn tối 
thiểu hợp nhất là 9%).
- Một số rủi ro do dẫn đến các sai sót có thể xảy 
ra khi tính toán, xác định hệ số an toàn vốn tối 
thiểu là:
+ Xác định sai Vốn tự có (riêng lẻ, hợp nhất) 
của NHTM: Tính toán sai các khoản vốn cấp I, các 
khoản giảm trừ vốn cấp I, các khoản giảm trừ vốn 
bổ sung; tính toán sai vốn cấp II, các khoản giảm 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 133 - tháng 11/2018
trừ vốn cấp II, các khoản mục giảm trừ khi tính 
Vốn tự có.
+ Xác định sai tổng tài sản có rủi ro (hợp nhất, 
riêng lẻ) của NHTM: 
(i) Phân loại sai nhóm tài sản có hệ số rủi ro 
khác nhau như phân tài sản có hệ rủi ro cao đưa về 
nhóm tài sản có hệ số rủi ro thấp.
(ii) Xác định sai các hệ số rủi ro, hệ số chuyển 
đổi của các cam kết ngoại bảng.
+ Những sai sót này có thể xuất phát từ nguồn 
dữ liệu thống kê của NHTM: Do hệ thống công 
nghệ thông tin của NHTM chưa được kết nối toàn 
hệ thống để thực hiện các quy định (theo quy định 
như tại Điều 5 của Thông tư 36/2014/TT-NHNN). 
Việc thống kê, theo dõi các khoản mục vốn, tài sản 
để tính hệ số an toàn vốn tối thiếu chưa cập nhật 
đầy đủ và kịp thời so với số liệu trên bảng cân đối 
kế toán của đơn vị. 
2.2. Về các giới hạn và hạn chế cấp tín dụng
Theo quy định, TCTD phải ban hành quy định 
nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay để bảo đảm 
việc sử dụng vốn vay đúng mục đích theo quy định 
của pháp luật hiện hành; TCTD phải công khai cập 
nhật khi có thay đổi danh sách cổ đông sáng lập, 
cổ đông lớn, thành viên góp vốn, thành viên Hội 
đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, người 
điều hành và các chức danh quản lý khác theo quy 
định của pháp luật, điều lệ về tổ chức và hoạt động 
của TCTD và những người có liên quan của những 
người này. Một số các giới hạn và hạn chế cấp tín 
dụng bao gồm: Các trường hợp không được cấp 
tín dụng; các trường hợp hạn chế cấp tín dụng; các 
trường hợp giới hạn cấp tín dụng, điều kiện, giới 
hạn cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu.
- Một số rủi ro khi thực hiện kiểm toán cần chú 
ý như sau:
+ TCTD không cập nhật, không theo dõi hoặc 
thống kê đầy đủ danh sách các đối tượng liên quan.
+ TCTD cấp tín dụng cho các đối tượng không 
được cấp tín dụng tại Điều 126 Luật các TCTD, cấp 
tín dụng cho các khách hàng để đầu tư, kinh doanh 
trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết.
+ TCTD cấp tín dụng với các điều kiện ưu đãi 
cho các đối tượng khách hàng và người có liên quan 
được quy định tại Điều 12 Thông tư 36. Cấp tín 
dụng cho khách hàng và người có liên quan vượt 
quá 5 % vốn tự có; cấp tín dụng cho các công ty 
con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp 
mà TCTD nắm quyền kiểm soát vượt quá 10% vốn 
tự có của TCTD; đối với tất cả các đối tượng là 
công ty con, công ty liên kết vượt quá 20% vốn tự 
có của TCTD.
+ Cấp tín dụng vượt giới hạn tín dụng đối với 
một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân 
hàng; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một 
khách hàng và người có liên quan vượt quá 25% 
vốn tự có của ngân hàng; 
+ TCTD vi phạm điều kiện, giới hạn cấp tín 
dụng để kinh doanh cổ phiếu các điều kiện và giới 
hạn được quy định cụ thể tại Điều 14 Thông tư 
36/2014/TT-NHNN và các nội dung sửa đổi liên 
quan tại Thông tư 06/2016/TT-NHNN.
2.3. Về khả năng chi trả
Theo quy định của NHNN tại Thông tư số 
36/2014/TT-NHNN và Thông tư số 06/2016/
TT-NHNN quy định về khả năng chi trả của 
NHTM như sau:
Hằng ngày, TCTD ngoài căn cứ quy định tại Phụ 
lục 3 Thông tư này lập bảng dòng tiền vào, dòng 
tiền ra tại thời điểm cuối ngày làm việc để theo dõi, 
quản lý các tỷ lệ khả năng chi trả . Tỷ lệ dự trữ thanh 
khoản (%) được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa 
“Tài sản có tính thanh khoản cao” với “Tổng nợ phải 
trả”, đối với NHTM thì tỷ lệ này là 10%. Tỷ lệ khả 
năng chi trả trong 30 ngày (%) được xác định bằng 
tỷ lệ phần trăm giữa “Tài sản có tính thanh khoản 
cao” với “Dòng tiền ra ròng trong vòng 30 ngày tiếp 
theo”, đối với các NHTM thì tỷ lệ này là 50% đối với 
đồng Việt Nam và 10% đối với ngoại tệ.
Hàng ngày, TCTD phải báo cáo NHNN về tỷ lệ 
khả năng chi trả theo quy định của chế độ báo cáo 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 133 - tháng 11/2018
thống kê. Đồng thời TCTD phải xác định và có các 
biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả 
theo quy định cho 30 ngày từ ngày hôm sau, nếu 
có thiếu hụt tạm thời về khả năng tri trả thì TCTD 
phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước thiếu hụt về tỷ 
lệ khả năng chi trả và các biện pháp đã thực hiện 
bù đắp thiếu hụt.
- Một số rủi ro khi thực hiện kiểm toán cần chú 
ý như sau:
+ Việc xác định giá trị các khoản mục tài sản có 
tính thanh khoản cao chưa chính xác như một số 
khoản mục không được phép tính vào tài sản có 
tính thanh khoản cao, hoặc giấy tờ có giá đã đảm 
bảo cho nghĩa vụ tài chính khác, hoặc các giấy tờ 
có giá của các tổ chức có định hạng tín nhiệm thấp, 
hay các khoản khó chuyển đổi thành tiền...
+ Xác định không đúng dòng tiền ra của 30 
ngày liên tiếp kể từ ngày hôm sau; xác định không 
đúng dòng tiền vào của 30 ngày tiếp theo kể từ 
ngày hôm sau.
+ Xác định không đúng khoản mục tổng nợ 
phải trả trên Bảng cân đối kế toán theo quy định 
tại Thông tư 06.
Khi vi phạm các tỷ lệ này NHTM không báo cáo 
NHNN và không có các biện pháp khắc phục để 
bù đắp thanh khoản tạm thời. NHTM vẫn cho vay 
khi không tuân thủ các yêu cầu về khả năng chi trả.
2.4. Kiểm toán tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn 
được sử dụng để cho vay trung và dài hạn
Theo quy định của NHNN thì TCTD sử dụng 
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn 
tính theo đồng Việt Nam, bao gồm đồng Việt Nam 
và các loại ngoại tệ được quy đổi sang đồng Việt 
Nam theo tỷ lệ được tính theo công thức sau:
Trong đó:
+ A: là tỷ lệ của nguồn vốn ngắn hạn được sử 
dụng để cho vay trung hạn, dài hạn.
+ B: là tổng dư nợ cho vay trung hạn, dài hạn 
theo quy định trừ đi tổng nguồn vốn trung hạn, dài 
hạn theo quy định.
+ C: là nguồn vốn ngắn hạn theo quy định.
- Về yêu cầu đảm bảo tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn 
hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn của 
NHTM theo Thông tư 06/2016/TT-NHNN như sau:
+ Từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 đến 31 tháng 
12 năm 2017 là 50%.
+ Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 là 40%.
- Một số rủi ro khi thực hiện kiểm toán cần chú 
ý như sau:
+ Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và 
dài hạn vượt quá tỷ lệ quy định đối với NHTM (từ 
năm 2018 là 40%).
+ Xác định sai các số liệu làm cơ sở tính toán 
tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn: 
tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn; tổng nguồn vốn 
trung, dài hạn; tổng nguồn vốn ngắn hạn. Một số 
lưu ý như sau:
(i) Khi xác định dư nợ cho vay trung, dài hạn 
phải xác định đúng thời hạn còn lại của khoản vay 
là trên 01 năm hay không? Để khai thác được dữ 
liệu này cần phải có sự hỗ trợ của các kiểm toán 
viên CNTT thì mới xác định đúng các khoản cho 
vay, đầu tư, cho thuê tài chính... còn thời hạn trên 
01 năm của cả hệ thống.
(ii) Khi xác định nguồn vốn trung, dài hạn của 
NHTM, chúng ta phải xác định loại trừ khỏi nguồn 
vốn trung dài hạn các khoản: Tiền gửi các loại của 
Kho bạc Nhà nước, tiền gửi của TCTD, chi nhánh 
ngân hàng nước ngoài khác tại Việt Nam.
(iii) Khi xác định nguồn vốn ngắn hạn của 
NHTM, KTV phải xác định loại trừ khỏi nguồn 
vốn ngắn hạn các khoản: Tiền gửi các loại của Kho 
bạc Nhà nước, tiền gửi của TCTD, chi nhánh ngân 
hàng nước ngoài khác tại Việt Nam, tiền ký quỹ và 
tiền gửi vốn chuyên dùng của khách hàng.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 133 - tháng 11/2018
2.5. Về giới hạn góp vốn mua cổ phần
- Mức góp vốn của NHTM hay các Công ty con, 
công ty liên kết vào các doanh nghiệp được quy 
định tại khoản 4 Điều 103 Luật các TCTD không 
được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp 
nhận vốn góp; tổng góp vốn của NHTM và các 
công ty con, công ty liên kết vào một doanh nghiệp 
không được vượt quá 40% vốn điều lệ và các quỹ 
dự trữ của NHTM; NHTM không được góp vốn 
mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là 
cổ đông, thành viên góp vốn của chính ngân hàng 
thương mại; không được góp vốn, mua cổ phần 
của các doanh nghiệp, TCTD khác là người có liên 
quan của cổ đông lớn, của người quản lý của ngân 
hàng thương mại. 
- Một số rủi ro khi thực hiện kiểm toán cần chú 
ý như sau:
+ Rủi ro cần kiểm soát ở đây chính là việc hạn 
chế tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, cạnh tranh 
không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng và các 
Công ty con, công ty liên kết.
+ Việc xác định NHTM và các công ty con, công 
ty liên kết có góp vốn mua cổ phần và theo quy 
định tại Mục 6 Thông tư số 36 và các quy định tại 
Luật Các TCTD không?
2.6. Về tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
Quy định NHTM có tỷ lệ dư nợ cho vay so với 
tổng tiền gửi nhằm để đảm bảo tăng trưởng tín 
dụng an toàn, hiệu quả, cơ cấu tín dụng phù hợp 
cho các khoản cho vay của NHTM.
- Khi thực hiện đánh giá rủi ro cần chú ý một số 
điểm sau:
+ Về tổng dư nợ cho vay bao gồm: (i) Dư nợ 
cho vay đối với cá nhân, tổ chức (không bao gồm 
dư nợ cho vay TCTD, chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài khác tại Việt Nam); (ii) Các khoản ủy thác 
cho TCTD cho vay. Tổng dư nợ cho vay để tính tỷ 
lệ này được trừ đi: (i) Dư nợ cho vay bằng nguồn 
ủy thác của Chính phủ, cá nhân và tổ chức khác 
(bao gồm cả TCTD, chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài khác tại Việt Nam; ngân hàng mẹ, chi nhánh 
ở nước ngoài của ngân hàng mẹ); (ii) Nguồn vốn 
vay ở nước ngoài của TCTD, chi nhánh ngân hàng 
nước ngoài. 
+ Về tổng tiền gửi, bao gồm: (i) Tiền gửi của tổ 
chức (không bao gồm tiền gửi các loại của Kho bạc 
Nhà nước, nếu có), tiền gửi của cá nhân; trừ tiền 
ký quỹ, tiền gửi vốn chuyên dùng của khách hàng; 
(ii) Tiền gửi của ngân hàng mẹ ở nước ngoài, chi 
nhánh ở nước ngoài của ngân hàng mẹ; (iii) Tiền 
huy động từ phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng 
chỉ tiền gửi, trái phiếu.
+ Về tỷ lệ cụ thể, Thông tư 36 quy định TCTD 
phải duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền 
gửi như sau: (i) NHTM nhà nước, chi nhánh ngân 
hàng nước ngoài: 90%; (ii) Ngân hàng hợp tác xã, 
NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 
100% vốn nước ngoài: 80%.
2.7. Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD hoạt 
động tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản thanh 
toán tại NHNN.
Dự trữ bắt buộc cho kỳ duy trì dự trữ bắt buộc 
được tính bằng cách lấy số dư bình quân các loại 
tiền gửi huy động phải dự trữ bắt buộc của TCTD 
trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc nhân với tỷ lệ dự 
trữ bắt buộc quy định cho từng loại hình TCTD và 
cho từng loại tiền gửi tương ứng. Số dư bình quân 
các loại tiền gửi huy động phải tính dự trữ bắt buộc 
trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc được tính bằng 
cách cộng các số dư tiền gửi huy động phải tính dự 
trữ bắt buộc cuối mỗi ngày trong kỳ đem chia cho 
tổng số ngày trong kỳ.
- Khi thực hiện đánh giá rủi ro cần chú ý một số 
điểm sau:
+ Xác định số dư bình quân tài khoản thanh 
toán của TCTD tại NHNN không thấp hơn tiền dự 
trữ bắt buộc trong kỳ.
+ Đối chiếu với thông báo dự trữ bắt buộc và 
trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 133 - tháng 11/2018
bắt buộc bằng ngoại tệ do Sở Giao dịch Ngân hàng 
Nhà nước thực hiện (hoặc chi nhánh NHNN tỉnh 
thành phố thực hiện).
2.8. Về đánh giá trạng thái ngoại tệ
Trạng thái ngoại tệ là chênh lệch giữa tài sản 
có (TSC) và tài sản nợ ( TSN) nội và ngoại bảng 
của một ngoại tệ tại một thời điểm nhất định. Nếu 
TSC lớn hơn TSN thì ngoại tệ ở trạng thái dương 
(trường); ngược lại, nếu TSC nhỏ hơn TSN thị 
ngoại tệ ở trạng thái âm (đoản). Việc xác định 
trạng thái ngoại tệ trên cơ sở quy định tại Thông tư 
số 07/2012/TT-NHNN.
- Giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ được tính 
bằng tỷ lệ giữa tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc 
tổng trạng thái ngoại tệ âm chia cho vốn tự có của 
TCTD.
- Khi thực hiện đánh giá rủi ro cần chú ý một số 
điểm sau:
+ Vốn tự có để tính giới hạn tổng trạng thái 
ngoại tệ của TCTD là vốn tự có của tháng liền kề 
trước kỳ báo cáo của TCTD.
+ Tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày của 
các TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có của 
TCTD.
+ Tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của các 
TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có của 
TCTD.
+ Trường hợp cần thiết, TCTD được duy trì 
trạng thái ngoại tệ vượt giới hạn quy định khi 
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
chấp thuận.
Chú ý: Trong thực tế, chúng ta thường nhầm lẫn 
giữa trạng thái ngoại tệ với trạng thái luồng tiền; 
chính vì vậy, cần có những tiêu chí để phân biệt hai 
trạng thái này. 
+ Trong hoạt động đi vay và cho vay bằng ngoại 
tệ, đối với khoản tiền gốc chỉ có sự chuyển giao 
quyền sử dụng, nên không tạo ra trạng thái ngoại 
tệ; còn đối với khoản tiền lãi là sự chuyển giao 
quyền sở hữu, nên làm phát sinh trạng thái ngoại 
tệ. Tuy nhiên, do khoản lãi phát sinh thường là rất 
nhỏ so với khoản tiền gốc, nên trong thực tế, theo 
cách hiểu phổ thông, người ta thường không đề cập 
đến trạng thái ngoại tệ trong các hoạt động đi vay 
và cho vay bằng ngoại tệ. Trong khi đó, các hoạt 
động mua bán ngoại tệ (giao ngay và kỳ hạn) tạo ra 
trạng thái ngoại tệ đúng bằng giá trị mua bán bởi 
vì các hoạt động này làm phát sinh sự chuyển giao 
quyền sở hữu về ngoại tệ. 
- Các giao dịch mua bán ngoại tệ làm phát sinh 
đồng thời cả trạng thái ngoại tệ và trạng thái luồng 
tiền. Trạng thái luồng tiền có thể làm cân bằng 
thông qua các giao dịch đi vay và cho vay hay thông 
qua mua bán; tuy nhiên, trạng thái ngoại tệ chỉ có 
thể làm cân bằng thông qua các giao dịch mua bán 
ngoại tệ.
2.9. Về đánh giá việc ban hành và tuân thủ và 
các quy định nội bộ của NHTM liên quan đến các 
chỉ tiêu an toàn
Khi thực hiện áp dụng Thông tư 36 đòi hỏi 
NHTM phải áp dụng một số quy định cụ thể để 
đảm bảo cho việc quản lý các chỉ tiêu an toàn được 
thực hiện một cách hệ thống, toàn diện trên hệ 
thống của NHTM. Các quy định nội bộ ấy được 
xây dựng phải đảm bảo một số tiêu chí sau:
Quy định nội bộ về đánh giá chất lượng tài sản 
có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, được xây 
dựng trên nguyên tắc quản lý rủi ro đối với tài sản. 
Nội dung của Quy định này phải tối thiểu có nội 
dung sau: (i) Quy định về cơ cấu tổ chức, cơ chế 
phân cấp, ủy quyền và chức năng, nhiệm vụ của 
từng bộ phận quản lý đối với tỷ lệ an toàn vốn; (ii) 
Các nguyên tắc, chính sách, quy trình nhận dạng, 
đo lường, theo dõi, kiểm soát, báo cáo và trao đổi 
thông tin về rủi ro để tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn; 
(iii) Các quy định về quản lý cơ cấu vốn tự có và tài 
sản phải đánh giá được: mức độ và xu hướng của 
các rủi ro, tác động của rủi ro đến yêu cầu vốn tự 
có để bù đắp rủi ro; quy mô và chất lượng vốn tự 
có, khả năng chịu đựng rủi ro từ các yếu tố vĩ mô, 
khả năng tiếp cận nguồn vốn bổ sung vốn tự có, 
kể cả khả năng hỗ trợ tài chính từ các cổ đông khi 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN40 Số 133 - tháng 11/2018
cần thiết để đảm bảo tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối 
thiểu; nghĩa vụ cấp vốn đối với các công ty con và 
công ty liên kết; mục tiêu vốn tự có trong ngắn hạn 
và dài hạn, dự kiến chi phí bổ sung vốn tự có và giải 
pháp thực hiện mục tiêu vốn tự có.
Các quy định nội bộ về quản lý thanh khoản, 
trong đó tối thiểu phải có nội dung sau: (i) Quy 
định về việc phân cấp, ủy quyền, chức năng, nhiệm 
vụ của các bộ phận liên quan trong việc quản lý tài 
sản Có, tài sản Nợ và việc bảo đảm duy trì tỷ lệ khả 
năng chi trả, thanh khoản; (ii) Quy trình, thủ tục 
và các giới hạn quản lý thanh khoản, giới hạn kiểm 
soát chênh lệch kỳ hạn tài sản Có, tài sản Nợ trên 
cơ sở dòng tiền vào, dòng tiền ra; (iii) Các nguyên 
tắc, chính sách, quy trình nhận dạng, đo lường, 
theo dõi, kiểm soát, báo cáo và trao đổi thông tin 
rủi ro về khả năng chi trả, thanh khoản; các tiêu chí 
cảnh báo sớm về rủi ro thiếu hụt khả năng chi trả, 
thanh khoản và các phương án xử lý; (iv) Kế hoạch 
và biện pháp nắm giữ các loại giấy tờ có giá có khả 
năng thanh khoản cao; (v) Hướng dẫn, kiểm tra, 
kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với việc duy trì tỷ lệ 
khả năng chi trả, thanh khoản; (vi) Mô hình đánh 
giá và thử nghiệm khả năng chi trả, thanh khoản, 
trong đó có các phân tích tình huống khả năng chi 
trả, tính thanh khoản có thể xảy ra.
Các quy định nội bộ phải được rà soát, xem xét 
sửa đổi, bổ sung định kỳ ít nhất một năm một lần.
3. Một vài kiến nghị và đề xuất
Để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động 
ngân hàng. NHNN cần yêu cầu các TCTD thực 
hiện nghiêm chỉnh một số nội dung sau: 
- Yêu cầu các TCTD xây dựng, thiết lập đầy 
đủ các quy trình về quản lý, theo dõi các chỉ tiêu 
an toàn theo quy định của NHNN và hướng các 
TCTD nâng cao hệ thống quản trị theo yêu cầu của 
Basel II.
- Xem xét bổ sung các quy định về việc yêu cầu 
các TCTD bắt buộc công bố công khai các chỉ tiêu 
về an toàn trong trong hoạt động của các NHTM 
để các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhà nước và 
khách hàng có thể kiểm soát được mức độ an toàn 
của các TCTD.
- Yêu cầu các TCTD thực hiện triệt để việc tuân 
thủ chấp hành các quy định của TT 36 nhất là đối 
với việc luôn phải duy trì các tỷ lệ an toàn trong 
suốt thời gian hoạt động.
- Để đảm bảo việc thống nhất đối với việc theo 
dõi các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động của các 
NHTM thì NHNN phải yêu cầu các NHTM đầu 
tư, nâng cấp các hệ thống công nghệ thông tin, tính 
toán các chỉ tiêu này một cách tự động, đảm bảo 
theo quy định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tư số 27/2011/TT-NHNN ngày 31 
tháng 08 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một 
số điều của Quy chế dự trữ bắt buộc đối với 
các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 
số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09 tháng 06 
năm 2003 của Ngân hàng nhà nước;
2. Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định 
về các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động của 
các NHTM;
3. Thông tư 06/2016/TT-NHNN sửa đổi bổ 
sung một số điều của TT số 36/2014/
TT-NHNN quy định về các chỉ tiêu an toàn 
trong hoạt động của các NHTM;
4. Thông tư số 23/2015/TT-NHNN ngày 20 
tháng 11 năm 2015 của Thống đốc Ngân 
hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số 
điều của Quy chế dự trữ bắt buộc đối với 
các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 
số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09 tháng 06 
năm 2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà 
nước, có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng 01 
năm 2016;
5. Quyết định số 11/2017/QĐ-KTNN ngày 21 
tháng 11 năm 2017 của Tổng Kiểm toán 
nhà nước ban hành Quy trình kiểm toán 
các tổ chức tài chính và NHTM;
6. Các bài báo trên website, Tạp chí của NHNN, 
Tạp chí Ngân hàng, Học viện Ngân hàng.

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_danh_gia_mot_so_rui_ro_trong_kiem_toan_cac_chi_t.pdf