Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương

Phương ngữ Nam Bộ trên sân khấu cải lương thể hiện ở 3 bình diện ngôn ngữ:

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Thông qua hoạt động cải lương

trong cả vở tuồng và sân khấu, khán giả nhận biết hiện trạng tiếng Việt được thể hiện qua

giao tiếp của người Việt ở Nam Bộ. Tuy là loại hình ngôn ngữ nghệ thuật với những đặc

thù ca, kịch, ngôn ngữ cử chỉ, ; nhưng trên sân khấu cải lương, sự giao thoa giữa ngôn

ngữ đời thường với ngôn ngữ nghệ thuật hết sức đậm nét. Khi nghiên cứu phương ngữ

Nam Bộ, hoạt động giao tiếp sống động này, một thời bị bỏ qua, nên nhiều hiện tượng

phương ngữ Nam Bộ khó có thể lý giải được. Vì vậy, trên cơ sở khái quát phương ngữ, bài

viết tập trung những dẫn liệu từ hoạt động sân khấu để minh chứng sự tổng hợp hài hòa

của tiếng Việt trong giao tiếp của người dân Nam Bộ.

pdf 10 trang kimcuc 7920
Bạn đang xem tài liệu "Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương

Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua sân khấu cải lương
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
41 
PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ THỂ HIỆN QUA SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG 
THE SOUTHERN DIALECT ON CAI LUONG 
HUỲNH CÔNG TÍN và ĐẶNG NGỌC LỆ 
 TS. Trường Đại học Văn Lang, Mã số: TCKH12-10-2018 
 PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, dangngocle@vanlanguni.edu.vn 
TÓM TẮT: Phương ngữ Nam Bộ trên sân khấu cải lương thể hiện ở 3 bình diện ngôn ngữ: 
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Thông qua hoạt động cải lương 
trong cả vở tuồng và sân khấu, khán giả nhận biết hiện trạng tiếng Việt được thể hiện qua 
giao tiếp của người Việt ở Nam Bộ. Tuy là loại hình ngôn ngữ nghệ thuật với những đặc 
thù ca, kịch, ngôn ngữ cử chỉ,; nhưng trên sân khấu cải lương, sự giao thoa giữa ngôn 
ngữ đời thường với ngôn ngữ nghệ thuật hết sức đậm nét. Khi nghiên cứu phương ngữ 
Nam Bộ, hoạt động giao tiếp sống động này, một thời bị bỏ qua, nên nhiều hiện tượng 
phương ngữ Nam Bộ khó có thể lý giải được. Vì vậy, trên cơ sở khái quát phương ngữ, bài 
viết tập trung những dẫn liệu từ hoạt động sân khấu để minh chứng sự tổng hợp hài hòa 
của tiếng Việt trong giao tiếp của người dân Nam Bộ. 
Từ khóa: tiếng Việt; phương ngữ; cải lương; Nam Bộ. 
ABSTRACTS: The Southern dialect on Cai Luong stage is expressed in three levels of 
language: phonetics, vocabulary, grammar and also on the level of expressive style. 
Through the work of Cai Luong in both plays and stage - audience is aware of the status of 
Vietnamese language expressed through the communication of the South people. Although 
it is the type of language arts with particularities, drama, language body...; but on the 
stage of Cai Luong, the interference between normal language and art language is very 
bold. When studying the Southern dialect, this lively communication activity, once ignored, 
so many Southern dialects phenomenon can not explain. Thus, on the basis of the general 
dialect, the article focuses on the material from the stage activities to illustrate the 
harmonious synthesis of Vietnamese in the communication of the South people. 
Key words: Vietnamese; dialect; cai luong; Southern. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dù trải qua nhiều thăng trầm, cải lương 
vẫn tồn tại và mang lại cho người dân Nam 
Bộ những giá trị tinh thần vô giá - một 
trong những giá trị hiện thực đó là dấu ấn 
phương ngữ Nam Bộ được thể hiện rõ nét 
qua từng vở diễn trên sân khấu. Do cả hai 
thành phần soạn giả và nghệ sĩ diễn viên, 
hầu hết đều sinh trưởng trên đất Nam Bộ, 
nên ngôn ngữ giao tiếp ảnh hưởng sâu đậm 
đến loại hình nghệ thuật cải lương, khiến 
đặc trưng phương ngữ Nam Bộ trở thành 
nét phong cách của loại hình nghệ thuật đặc 
thù này. Bởi đó, trong yêu cầu bản tuồng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
42 
của soạn giả và cả trong nghệ thuật ca nói 
của diễn viên, ngay cả những diễn viên cải 
lương ở miền Bắc theo đuổi nghiệp cầm ca, 
tính chất phương ngữ Nam Bộ luôn được 
xem là một “yêu cầu” nghệ thuật ngôn ngữ 
cần được chú trọng. 
2. NỘI DUNG 
Phương ngữ Nam Bộ khác với tiếng 
Việt toàn dân, thể hiện rõ ở bình diện ngữ 
âm trong lời nói và từ vựng trên văn bản. 
Ngoài hai đặc điểm ấy, sự khác biệt ngữ 
pháp trong một số phát ngôn và cách thức 
diễn đạt cũng là một đặc trưng đáng lưu 
tâm. Nghiên cứu phương ngữ, không thể bỏ 
qua các bình diện này. 
2.1. Về phương diện ngữ âm 
Khái quát phương ngữ Nam Bộ có thể 
thấy sự đồng nhất nhiều phụ âm đầu và cuối, 
nguyên âm, thanh điệu, trong phát ngôn. 
Hiện tượng này có thể gây ít nhiều trở ngại 
trong giao tiếp. Nhưng giao tiếp nói đã có 
hoàn cảnh giao tiếp hỗ trợ, như những tiền 
giả định cần thiết, nên không gây sự nhầm 
lẫn thông tin. Trái lại, hiện tượng đồng nhất 
tạo nên hiện tượng đồng âm nên câu ca, 
giọng nói có sự hòa nhập, hài hòa thanh vận 
nhiều hơn, lại phù hợp với thơ ca và đặc biệt 
là với nghệ thuật sân khấu. Có một số hiện 
tượng ngữ âm đáng lưu ý [16], như: 
1) Hiện tượng đồng nhất giữa các phụ 
âm đầu, thể hiện trên các con chữ: “v-, d-”, 
bằng lối phát âm mang đặc trưng riêng Nam 
Bộ, tạm ký hiệu bằng con chữ j-, và hiện 
tượng đồng nhất giữa 2 phụ âm đầu, thể 
hiện trên các con chữ: “s-, x-”, được thể 
hiện thành một âm không cuốn lưỡi, viết 
bằng x-. Ngoài ra, còn có sự đồng nhất các 
âm và tổ hợp âm, được viết: “o-, u-, ho-, hu- 
qu-”, thành một âm môi chung, tạm viết w-; 
2) Hiện tượng bỏ âm đệm, được viết “-o-, 
-u-”, không phải lúc nào cũng diễn ra, trừ phi 
chúng không gây rắc rối về nghĩa. Hiện tượng 
này được lưu giữ có điều kiện. Chẳng hạn: 
“tuy” được giữ để phân biệt với “ti”, “thúy” 
được giữ để phân biệt với “thí”, “Loan” được 
giữ để phân biệt với “Lan”, bằng hình thức 
chuyển âm, nghe gần với -o-, nhưng vẫn còn 
giữ được âm sắc của chính âm -a-; 
3) Hiện tượng chuyển đổi nguyên âm 
hẹp được viết “-i-, -ê-”, thể hiện đồng nhất 
thành -i- [5, tr.48-53], và chính âm chuyển 
sắc được viết: “-ia-, -iê-, -ua-, -uo-, -ưa-, -
ươ-”, phát âm thành những biến thể dài, 
nhưng vẫn còn lưu giữ âm sắc của thành tố 
cuối, nên nghe ra vẫn giữ được sự tri nhận 
thông tin, có phần “điệu đà” hơn?; 
4) Đặc biệt, những hiện tượng chung 
âm [6, tr.52-553] đồng nhất cần được ghi 
nhận như những đặc trưng chính trên bình 
diện ngữ âm phương ngữ Nam Bộ cũng 
xuất hiện trên ngôn ngữ sân khấu, ở các 
trường hợp: “-n và -ng, -t và -c, -i và -y, -u 
và -o”. Tuy nhiên, nhiều nghệ sĩ khi ca có 
chú ý làm rõ sự khác biệt ngữ âm này, nhất 
là ở 2 cặp âm: “-i và -y, -u và -o”; 
5) Việc dùng từ biến âm so với từ toàn 
dân tiếng Việt là một hiện tượng ngữ âm 
khá đặc biệt làm rõ đặc trưng phương ngữ 
Nam Bộ. Điều này luôn được các soạn giả 
chú ý khai thác. Tuồng Rạng ngọc Côn Sơn 
của soạn giả lão thành Xuân Phong (tên thật 
Nguyễn Xuân Phong, Bến Tre, sinh năm 
1930, là tác giả của nhiều vở diễn Cải lương, 
nhưng giới chuyên môn và công chúng mộ 
điệu biết đến ông như một soạn giả hàng 
đầu, vở diễn Rạng ngọc Côn Sơn ra mắt vào 
khoảng năm 1982). Tuy đây là tuồng cải 
lương lịch sử về con người và sự kiện diễn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
43 
ra trên không gian đất Bắc (nói về Nguyễn 
Trãi và sự kiện diễn ra ở vườn Lệ Chi), 
nhưng tác giả, ngoài việc cố gắng sử dụng 
ngôn từ thích hợp với tình huống hoàn cảnh, 
còn “tự nhiên” sử dụng một số yếu tố ngôn 
từ thuộc phương ngữ Nam Bộ; những yếu tố 
không phương hại tính điển hình của sáng 
tác, làm cho tác phẩm của mình thích hợp 
với đối tượng công chúng và đặc trưng 
phong cách ngôn ngữ Nam Bộ vốn có của 
cải lương; chẳng hạn, việc dùng một số từ 
biến âm và cách xưng gọi rút gọn, như: 
“lịnh chỉ, tướng lịnh, lịnh bà thay vì (lệnh), 
sanh (sinh), sanh linh, nhứt (nhất) định, nhứt 
tề, nguy nàn (nạn), tiếp nghinh (nghênh), bất 
nhơn (nhân),; bả (bà ấy) muốn một mình 
bả, ổng (ông ấy) có coi hoàng thượng ra gì 
nữa đâu?,...” và một số từ ngữ xét thấy phù 
hợp hơn với chu cảnh: “dùng trà (chè), ngự 
trà, bộ tịch (bộ điệu), bấn loạn (hoảng sợ), 
ba mùa mai (đào) nở,”. 
Điều đó cho thấy sự cân nhắc của tác 
giả trong việc dùng từ ngữ; nhưng mặt khác, 
những yếu tố phương ngữ được sử dụng 
thích hợp và chừng mực ở đây, góp phần 
đáp ứng được tâm lý, thói quen ca diễn của 
các nghệ sĩ vốn sinh trưởng trên đất Nam Bộ 
và loại hình nghệ thuật được sản sinh trên 
vùng đất này vốn cần có sự phù hợp với tâm 
lý diễn đạt và thói quen tiếp nhận của công 
chúng. Sự biến âm trong một số từ ngữ Nam 
Bộ, đáp ứng yêu cầu hài hòa thanh âm và 
hiệp vận, bởi chịu sự tác động thang âm của 
một số bài bản ca chi phối. 
Ngoài ra, tất cả những hiện tượng ngữ 
âm Nam Bộ được khái quát trên có thể 
được nhận diện qua trường hợp tá điền 
Thừa “đôi co” với Hội đồng Dư [3]: 
“Hội đồng: Thừa hả? Ê mầy tên Thừa 
hả? (Phần được in đậm để nhấn mạnh - Chú 
thích của người viết) Thừa đây có nghĩa là 
“thừa nước đục thả câu”, phải hông mậy? 
Thừa: Dạ hông. Dạ “thừa” là “dư” đó chớ. 
Hội đồng: Dư Tổ cha mầy. 
Thừa: Ủa. À, tui dốt nát, tui cắt nghĩa 
đùi cái tên cúng cơm của tui như vậy đó, nó 
không đúng hay sao mà tất cả đều ngạc 
nhiên. À, hà hà hay là cái tên của tui nó 
có nghĩa gì vô duyên. Tía tui thì ổng tên Đủ, 
mà thiếu mãi quanh năm, không đủ mặc, đủ 
ăn. A rồi ổng mới đặt cho tui cái tên Thừa 
là cầu tài cầu vận, là điều mong mỏi cho con, 
được hơn cha đổi thay số phận, lớn lên làm 
ăn khá giả, dư ăn, dư để như người. 
Hương quản: Ý Trời Trời Ý 
Trời . Trời Ê cái thằng du côn ở đâu đó. 
Mầy dám nghinh ngang vô phép sỗ sàng. 
Thừa: Tui vô phép hồi nào? 
Cặp rằn: Mầy dám hỗn hào là dư nọ, 
dư kia. Ông cố nội mầy ngồi đây nè, mà 
mầy giả ngu không kiêng cử, e dè. 
Hội đồng: Tao là Hội đồng Dư đây nè. Mầy 
có đủ, có thừa cũng mặc kệ, ông nội cha bây. 
Thừa: Dạ, ông Hội chửi tới ông nội tui rồi 
đó. Dạ, ông nhắc thì tui mới dám nói hà. Ông 
nội tui cũng tên Dư. Ổng tên Dư mà sao 
suốt đời ổng dư hổng nổi. Tía tui thì tên Đủ 
nhưng mà chẳng đủ bao giờ. Tới tui tên 
Thừa nhưng mà vẫn thiếu.” [7, tr.225-289], 
2.2. Về phương diện từ vựng 
Có sự khác biệt rõ nét trong việc dùng 
hệ thống từ dựng kịch bản tuồng, nhất là ở 
phần ngôn ngữ đối thoại trong các tuồng 
tâm lý xã hội. Chẳng hạn, câu hò mở đầu 
tuồng Tiếng hò sông Hậu của soạn giả nổi 
tiếng Điêu Huyền (tên thật Phạm Văn Điều 
(1913-1983), sinh tại xã Nhơn Ái, huyện Châu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
44 
Thành, nay là xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu 
Thành A, tỉnh Hậu Giang). Bút danh Điêu 
Huyền là cách chơi chữ từ tên thật của ông: 
“Điêu Huyền Điều”. Giới nghệ sĩ còn gọi 
soạn giả Điêu Huyền bằng cái tên Nam Bộ 
thân mật “Sáu Điều”, rất hấp dẫn nhờ tính 
hiện thực được điểm xuyết bằng một vài yếu 
tố từ ngữ Nam Bộ: “Hò ơ Ở Sóc Trăng 
nghèo quá, tôi thả qua Rạch Giá. Mần ăn không 
khá tôi lội xuống Cà Mau. Trưa trưa nhìn nước 
Gành Hào. Trời cao biển thẳm một màu xanh 
xanh. Hò ơ Chạnh lòng nhớ mẹ sanh thành. 
Thương con lận đận Hò ơ Thương con lận 
đận, đầu gành cuối sông” [7, tr,225-289], thể 
hiện rất thành công với lớp từ ngữ có nội 
dung từ vựng và hình thức ngữ âm đậm chất 
phương ngữ (những yếu đố được in đậm để 
nhấn mạnh). Khái quát về phương diện từ 
vựng, phương ngữ Nam Bộ thường mang một 
số đặc trưng từ vựng đáng chú ý [14] sau: 
1) Phương ngữ Nam Bộ còn giữ lại một 
lớp từ cổ của tiếng Việt mà phương ngữ Bắc 
Bộ, tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Đó 
có thể do lớp cư dân tổ phụ phần lớn là dân 
vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, những cứ liệu 
ngữ học cho thấy, còn khá nhiều yếu tố tương tự 
giữa hai vùng này, chẳng hạn: “mầng (mừng), 
ngộ (dễ nhìn), coi (xem), cậy (nhờ), méc (mách), 
hun (hôn), thơ (thư), nhơn (nhân),...”; 
2) Người dân Nam Bộ sử dụng một số từ 
ngữ vay mượn từ các dân tộc sống chung như 
Khơ-me, Hoa: “cà rá, cà ràng, cà ròn, xà 
rong, lục, thốt nốt, len trâu, bò hóc, đi ênh...; 
chế, hia, tía, số dách, chào quẩy, xập xám, bạc 
xỉu, miệt, mai, báo...” trong quá trình giao tiếp; 
Tiếng Việt của người Việt, người Nam 
Bộ có quá trình tiếp xúc khá lâu dài với 
tiếng Pháp. Bởi đó, có sự tiếp nhận qua lại, 
vay mượn lẫn nhau. Để diễn đạt những 
thực tại mới, người Nam Bộ tiếp nhận, vay 
mượn một số yếu tố của tiếng Pháp, tiếng 
nước ngoài. Cách vay mượn của người 
Nam Bộ vừa giống, vừa khác với cách vay 
mượn của người Bắc Bộ. Cụ thể như sau: 
Tiếng Pháp Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ Ghi chú 
ronéo (máy in) rô-nê-ô (máy in) rô-nê-ô không biến âm 
salade xà lách xà lách không biến âm 
savon xà bông * xà phòng có biến âm 
cravate cà vạt * ca vát có biến âm 
la bière la ve* (P) bia (P) có biến âm 
enveloppe vỏ xe lốp Phương ngữ Bắc Bộ vay mượn 
chambre ruột xe săm Phương ngữ Bắc Bộ vay mượn 
bac bắc * phà Phương ngữ Nam Bộ vay mượn 
Hiện tượng vay mượn của phương ngữ Nam Bộ là hiện tượng có đánh dấu (*), 
hiện tượng vay mượn không biến âm xem như có tính toàn dân 
3) Có một lớp từ vựng Nam Bộ có hiện 
tượng biến âm so với lớp từ vựng chung. 
Sự biến âm này có thể do khuynh hướng 
phát âm đơn giản hoá của người Nam Bộ: 
“hảo hớn, minh mông, phui pha, tuồm 
luôm, nươm nướp, tiên phuông, cháng 
váng, lè lẹt...”; hoặc do khuynh hướng 
kiêng kỵ: “huê (hoa), kiểng (cảnh), hường 
(hồng), huỳnh (hoàng), phước (phúc), quới 
(quý), luông (long), mệnh (mạng)...”. Trong 
phương ngữ Nam Bộ, hiện tượng biến âm 
còn diễn ra ở hàng loạt từ, chẳng hạn: “chư 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
45 
bư, chư bứ, chừ bư, chừ bự, chứ bứ...; tèo, 
tẻo, téo...; rỉnh, rểnh, rảng...; cà cựng, cà 
cửng; cà khỉa, cà khía, cà khịa...; chằm 
bằm, chằm quằm, chằm vằm...”; 
4) Vùng đồng bằng sông nước có một 
lớp từ, ngữ phản ánh địa hình đặc trưng: 
“sông, rạch, xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, 
lung, đầm, ao, bàu, đìa; tràm, đước, bần, 
mù u, trâm bầu, bình bát, điên điển; ghe, 
ghe chài, ghe bầu, ghe ngo, xuồng ba lá, 
tam bản, vỏ lãi, trẹt, xà lan, tắc rán...”. Các 
sản vật, riêng loài “tôm”, theo thống kê của 
Nguyễn Văn Ái [1], có rất nhiều loại được 
phân biệt khá tỷ mỷ: “tôm bạc, tôm càng, tôm 
chấu, tôm chông, tôm chục, tôm đá, tôm đất, 
tôm gọng, tôm hùm, tôm kẹt, tôm lóng, tôm lửa, 
tôm quỵt, tôm rồng, tôm sú, tôm thẻ, tôm tích, 
tôm vang...”. Vốn từ vựng này góp phần làm 
phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt. 
Những đặc trưng từ vựng phương ngữ 
Nam Bộ nêu trên, chắc chắn đã được các nhà 
soạn tuồng tích và đạo diễn khai thác để trang 
bị thêm cho các nghệ sĩ “đào kép” có được 
những vở diễn mang đậm chất Nam Bộ, nhất là 
ở các tuồng mang bối cảnh xã hội Nam Bộ. 
Với Tiếng hò sông Hậu, ngay tựa đề đã thể 
hiện sâu sắc dấu ấn văn hóa đặc trưng của vùng 
sông nước Nam Bộ, đó là “tiếng Hò” và dòng 
“sông Hậu”. Câu hò vốn có gốc từ hò Huế “ý 
nhị” - trên nền tảng câu ca lục bát “chỉnh chu”; 
nhưng ở Nam Bộ, đã có sự cải biến gắn với 
tính phóng khoáng, tự do, không còn kiểu câu 
6/8 mà trở thành câu 7/10: “Hò... ơ... ơ... ờ... ờ... 
Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ... ờ... ờ... ờ... 
Mùng ai có rộng... ờ... ờ... ờ... cho tôi ngủ nhờ 
một đêm... ờ... ờ...”; hay một câu dài trong lục 
bát biến thể, không còn “ý nhị”, mà rất “thẳng 
thắn, bộc trực”: “Hò... ơ... ơ... ờ... ờ... Nhơn phi 
nghĩa bất giao... ờ... ờ... ơ... Em răn người lòng 
dạ mận đào lố lăng... ơ... ơ... ơ... ơ”. 
Hay như lời anh Thừa trong vở tuồng: “Tôi 
là trai xứ Long Xuyên, vườn xanh nước bạc, 
cũng là bạn nắng mưa của ruộng đồng bát ngát 
Rạch Giá, Ba Xuyên. Nhưng mà vườn thì của ai 
đâu, ruộng thì của chủ điền. Riêng mình cũng 
không có đất để cặm dùi, đúng hơn là mình 
hông có dùi mà cặm đất với người ta. Làm chết 
mẹ chết cha cũng ra thằng Thừa. Thừa đây là 
thừa sức ngựa trâu. Quần còn lưng vận, áo còn 
bâu cũng cày bừa” [7, tr.225-289]. 
Ngoài ra, soạn giả còn dùng những ca từ 
dưới hình thức nghệ thuật tu từ, như: ẩn dụ, 
hoán dụ, nhân hóa, so sánh, trong nhiều tình 
huống đối thoại và miêu tả, làm cho ngôn ngữ 
lời ca thêm tạo hình, gợi cảm, tác động được lý 
trí, tình cảm của người thưởng thức nghệ thuật 
sân khấu cải lương [4]. Tiêu biểu như đoạn ca 
Nam Xuân sau đây với những hình ảnh tu từ 
(in đậm) độc đáo: “Người ta là nghệ sĩ giang 
hồ đếm cỏ cầu sương. Còn mình là nông dân 
nghèo tứ cố vô thân. Như lục bình (+) (vì là 
câu ca, nên chúng tôi ghi lại dấu (+) để biểu thị 
nhịp song loan - chú thích của người viết) mặc 
tình nổi trôi (+) theo sông nước xa xôi. 
Hương lúa gió đồng (+) làm vui. (+) Năm 
ngoái đây mùa khô, nhớ chuyện xưa, (+) nhớ 
bạn hiền, (+) bèn trở lại đồn điền. Mới hay 
Chơn còn (+) bặt tin (+)” [7, tr.225-289]. 
Trên phương diện nghệ thuật, nhìn 
chung vở tuồng tạo được sự yêu thích của 
riêng công chúng Nam Bộ, bởi nghệ thuật mà 
Điêu Huyền lựa chọn thể hiện lại phù hợp 
với tâm lý và cách nói năng, suy nghĩ đậm 
chất màu đặc trưng phương ngữ Nam Bộ. 
2.3. Về phương diện ngữ pháp 
Tuy không nhiều đặc trưng riêng Nam 
Bộ được thể hiện, nhưng không phải là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
46 
không có. Đặc điểm ngữ pháp thường được 
nhận dạng qua các lớp: từ chỉ ngôi ba rút 
gọn: ổng (ông ấy), ảnh (anh ấy), thẩy (thầy 
ấy), dỉ (dì ấy); đại từ chỉ không gian: 
trỏng (trong ấy), ngoải (ngoài ấy), trển (trên 
ấy); từ chỉ quan hệ họ hàng: cậu, mợ, dì, 
dượng, chú, thím; từ chỉ tên thứ + tên gọi: 
Tư Hậu, Hai Chơn, Ba Chất, Sáu Điều và 
lớp đại từ, phụ từ, những từ biến âm: mậy, 
tui. qua, bậu, bây; ê, hông, hôi, he, coi; 
(ngay) đơ, (ngay) bân, (ngay) trân 
Xét vở tuồng Tiếng Hò sông Hậu, một 
hệ thống nhân vật Nam Bộ hiện lên với đầy 
đủ những tính cách điển hình khác nhau, 
thông qua những cái tên. Những cái tên 
nhân vật được tác giả vận dụng triệt để 
nhằm khái quát bản chất của họ. Chẳng 
hạn: ông Hội đồng tên Dư (là chức vụ dư 
thừa, chẳng có vai trò gì có ích cho làng, 
xã; ngoài những việc làm ăn hại!). Cặp rằn 
Lựu thì mưu mô, gian xảo, thâm độc (đúng 
là đồ “Lựu đạn”!) Thím Tư Hậu thì “nhân 
hậu, hiền lành chơn chất”. Anh Thừa thì 
“làm ăn thì thiếu, mà nói năng lại thừa” [6, 
tr.52-553] và còn “thừa nghĩa khí, thừa tình 
nghĩa”. Ba người con của thím Tư Hậu 
“Hai Chơn, Ba Chất, Tư Thiệt” thì “siêng 
năng, chất phác, thật thà; trọng tình nghĩa, 
cương trực ngay thẳng...” Ngần ấy những 
con người góp phần thể hiện được những 
tính cách khác biệt, mang dấu ấn đặc trưng 
của một xã hội làng xã Nam Bộ. Đặc biệt, 
tính điển hình ở đây được thể hiện rõ nét 
qua ngôn ngữ nhân vật rất gần gũi với cách 
nói năng thường nhật của người Nam Bộ, 
như đoạn đối thoại ca, nói của các nhân vật: 
“Cặp rằn Lựu: Thằng Thừa mày tốp 
bớt (các từ ngữ thuộc phương ngữ Nam Bộ 
được in đậm để nhấn mạnh, theo chú giải 
của người viết) cái miệng đi thì vừa (+). Cái 
giọng của mày cay đắng thiệt khó ưa (+). 
Làm ăn thì thiếu mà nói năng lại thừa (+). 
Thừa: Ủa, tui lãnh xác chớ đâu có 
lãnh làm buổi đứng (+). Rồi công rồi (+) 
thì tui nghỉ khỏe là quyền của tui (+). 
Cặp rằn Lựu: Mày rảnh thì đi chỗ khác 
mà chơi (+). Ở đây hông phải chỗ để mày 
khơi tâm tình (+). 
Thừa: (cười) He he Ủa lạ thật he. 
Ở đây sao có luật lệ gì mà gắt mấu quá 
vậy? Làm thì nặng, ăn thì nhẹ, nói thì bị 
cấm khẩu. Chết còn sướng hơn! 
Hội đồng Dư: Nước ròng cầu xa bến 
quá làm sao đây? Bây đâu (Dạ), có đứa 
nào kêu thằng cặp rằn Lựu xuống đây 
cõng tao lên coi? 
Cặp rằn Lựu: Kìa, ông chủ xuống. Ê 
tên Thừa, mày xuống bến cõng ông Hội lên 
dùm tao coi mậy. 
Thừa: Ê, tui đâu có biết cõng. Chú lòn 
cúi quen rồi, cái lưng chú mềm dẻo 
cõng êm hơn.” [7, tr.225-289]. 
2.4. Về phong cách diễn đạt 
Trên phương diện giao tiếp, ngôn ngữ 
được vận dụng thể hiện tổng hòa các bình 
diện của nó, góp phần làm cho người nghe 
tiếp nhận được một đặc trưng phong cách 
văn bản: vừa mang đặc điểm chung của 
ngôn ngữ vùng miền, vừa mang dấu ấn tinh 
thần của người Nam Bộ với những đặc 
trưng vốn được thừa nhận. 
Với vở hương xa Tiếng hạc trong 
trăng của đôi soạn giả tên tuổi Loan Thảo-
Yên Ba, tên thật Nguyễn Tấn Vị (1943-
1982), sinh tại Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. 
Ông là một trong những soạn giả tài danh 
có số lượng và chất lượng sáng tác tuồng 
tích sân khấu lẫn Vọng cổ trong một thời 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
47 
gian ngắn hơn hẳn nhiều soạn giả khác. 
Ngoài những mảng xã hội, lịch sử, hương 
xa (mảng thể tài được đánh giá là thành 
công vượt trội so với các soạn giả đương 
thời), nhiều tác phẩm còn mang sắc thái Hồ 
Quảng. Soạn giả Yên Ba (tên thật Nguyễn 
Hữu Giác, sinh năm 1941, quê quán tỉnh 
Bình Thuận. Trong giới soạn giả Cải lương 
Sài Gòn trước năm 1975) là một trong 
những soạn giả trẻ nổi tiếng chuyên viết về 
đề tài tâm lý xã hội. Ông viết khoảng 20 
vở, có những vở từng gây tiếng vang lớn 
trên sân khấu Cải lương những năm 60-70, 
tiêu biểu nhất là vở Tiếng hạc trong trăng 
viết chung với Loan Thảo. Tuy không phải 
vở tuồng Việt Nam, nhưng yếu tố ngôn từ 
của phương ngữ Nam Bộ được soạn giả 
dùng trong vở tuồng góp phần thành công 
rất lớn cho việc phản ánh hiện thực vùng 
đất và con người Nam Bộ. Với kinh 
nghiệm soạn tuồng của hai ông, không hề 
có sự bất cẩn trong việc dùng ngôn ngữ đối 
thoại cho nhân vật và ngôn từ hình ảnh để 
viết lời ca, như trường hợp đoạn đối thoại, 
vừa nói vừa ca; vừa thực tế, vừa rất lãng 
mạn giữa hai nhân vật Bình Thiếu Quân và 
Xuyên Lan. Tuy Xuyên Lan mù, nhưng 
nhạy cảm của người con gái đã làm cho 
chàng trai sớm yêu thầm đứa em gái nuôi, 
cảm thấy “lúng túng” trước những lời mộc 
mạc “thật tình” của Xuyên Lan: [Nói] 
“Xuyên Lan: Bình Thiếu Quân ơi! Còn 
mưa hông anh? 
Thiếu Quân: Ờ mưa lắc rắc thôi. 
Xuyên Lan: Em lạnh quá hà! 
Thiếu Quân: Để anh đốt lửa cho em 
sưởi, rồi anh đi nghen. 
Xuyên Lan: Đốt lửa trong nhà người 
ta, người ta hổng rầy sao? 
Thiếu Quân: Rầy cái gì, người ta bỏ rồi mà. 
Xuyên Lan: Sao người ta cất nhà, 
người ta hổng ở, người ta bỏ đi vậy anh? 
Thiếu Quân: Ờ mờ Chắc tại ở đây 
làm ăn hổng khá cho nên người ta phải đi 
nơi khác tìm kế sinh nhai. 
Xuyên Lan: Đi chỗ khác người ta giàu hông? 
Thiếu Quân: Ờ Giàu chớ! 
Xuyên Lan: Sao anh biết? Anh có gặp 
người ta hông? 
Thiếu Quân: Ơ Trời ơi, làm sao em 
hỏi cù nhây cù nhưa hoài vậy. Nè anh đã 
nhen bếp lửa hồng rồi nè, em xích lại gần 
đây mà sưởi ấm đôi tay đi! 
Xuyên Lan: Dạ! 
Thiếu Quân: Hừ m 
Xuyên Lan: Sao anh lại thở dài? 
Đoạn trích trên cho thấy, tất cả đều được 
thể hiện dưới dạng giao tiếp mang đặc trưng 
phương ngữ Nam Bộ. Riêng trong tâm sự 
thể hiện trạng thái lãng mạn yêu đương của 
Bình Thiếu Quân với Xuyên Lan, soạn giả 
đã dùng bản “Khốc hoàng thiên” 12 câu, 
nhịp 2 với ngôn ngữ hình ảnh sinh động và 
với hầu hết các nghệ sĩ có thủ diễn 2 vai này, 
họ đều ca với chất giọng Nam Bộ, khán giả 
Nam Bộ dường như mới cảm nhận được hết 
“độ muồi” của các câu ca thể hiện tình cảm, 
tình yêu lãng mạn; mà chàng trai Thiếu 
Quân đã âm thầm, mãnh liệt dành cho cô em 
gái nuôi của mình. Đây là đoạn ca [Khốc 
hoàng thiên] 12 câu, nhịp 2: 
“Thiếu Quân: Nhìn mà thương làm sao 
mười ngón 
1. tay, như ngà trau ngọc chuốt. 
2. Vẫn hồng tươi dầu giá buốt. 
3. Ôi gió nào là dây vũ dây văn, 
4. Ôi mưa bay là giọng sắc giọng cầm. 
Xuyên Lan: 5. Hai tay anh dường có vẻ run, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
48 
6. Anh có xúc động chuyện gì không? 
Thiếu Quân: 7. Anh quý em hơn lụa 
the vàng ngọc. 
8. Đừng ai đổi công hầu tướng khanh. 
Xuyên Lan: 9. Có phải anh đang mơ 
mộng hão huyền 
10. Để lửa bừng làm rát cả tay em. 
Thiếu Quân: 11. Ý, trời ơi, bởi nhìn 
em anh quên bếp lửa hồng. 
Xuyên Lan: 12. Em đui mù anh trêu 
tức làm chi” [12]. Rồi lại [Nói] 
Thiếu Quân: Đâu có, đâu có. Anh nói 
thiệt, chớ trêu tức em làm chi. Thôi, em 
ngồi đây, đừng đi đâu à nghen hôn. Em đi, 
về hông có em, anh dám khóc lắm à. 
Xuyên Lan: Anh là con trai mà khóc cái gì? 
Nhưng mà anh ơi, anh bỏ em một mình sao?” [12]. 
Có những yếu tố ngôn ngữ thật bình dị, 
thường ngày, đậm chất Nam Bộ, như: “Ờ 
mưa lắc rắc thôi; hổng rầy sao; rầy cái gì, 
người ta bỏ rồi mà; hổng ở, hổng khá, giàu 
hông, gặp người ta hông, hông có em; cù 
nhây cù nhưa, nghen hôn, sao anh lại thở 
dài”, lại rất duyên dáng với ngôn ngữ, 
hình ảnh của lời ca. 
Đó còn là ngôn ngữ giàu hình tượng, 
ngôn ngữ của thơ ca, ngôn ngữ của “ý tại 
ngôn ngoại”, dùng ngoại cảnh để diễn đạt 
nội tâm. Như ngôn ngữ của cô gái mù cảm 
nhận về thời gian và tình yêu qua câu Vọng 
cổ: “Tô huynh ơi, em đã bất hạnh mất đi 
nguồn ánh sáng. Không thấy cánh hoa đào 
nở rộ đón tin xuân. Không thấy đông thiên 
hoa tuyết rụng ngập đường. Nghe khoắc 
khoải giọng ve sầu mới hay trời sang hạ. 
Chờ một cơn gió heo may nhè nhẹ, em 
tưởng tượng một mùa thu với trăm xác 
lá ngô... đồng (hò). Nỗi buồn thu đi chầm 
chậm trong lòng (hò). Lá xuân thì đã 
vàng theo mùa tuyệt vọng. Cây xuân thì 
chỉ còn trơ trọi cành xương (xê)(-) (Ký 
hiệu ghi thanh âm nhạc cổ và điệu gõ song 
lang - Chú thích của người viết). Bỗng một 
lần sơ ngộ giữa chòi hoang. Em nghe cành 
xuân tươi lại hoa xuân trổ (hò). Nhưng đó 
chỉ là một mùa xuân hiu quạnh. Vì chim 
yến chim oanh vẫn còn biệt dạng phương 
trời (xề)(-)” [12]. 
Còn đây là ngôn ngữ của những người 
trải đời, ngôn ngữ của thi văn hòa cùng 
nhạc họa được thể hiện qua đoan đối thoại 
có nói, có ca của tướng cướp Thi Đằng và 
thần y Bình Đông Trạch, về việc công tử 
Bình Thiếu Quân bỏ nhà ra đi. Phong cách 
diễn đạt vẫn đậm chất Nam Bộ: 
“Thi Đằng: Còn công tử đâu? 
Đông Trạch: Bình Thiếu Quân con tôi đó hả? 
Thi Đằng: Dạ! 
Đông Trạch: A Nó đã bỏ nhà đi hai 
bữa nay rồi. 
Thi Đằng: Ủa Cậu ấy buồn chuyện 
gì? À Hay là tại núi rừng này hiu 
quạnh lắm chăng? 
Đông Trạch: Không, có lẽ từ hôm nay 
núi rừng mới bắt đầu hiu quạnh, vì không 
còn nghe giọng hát của Thiếu Quân. Mỗi 
bình minh nắng sớm tạt hương rừng, 
sương mỏng thoáng cuốn lời chim theo gió. 
Mỗi hoàng hôn khi chân trời vừa tắt lửa. 
Tiếp đến là một khúc ca [Nam xuân] 
lớp 1, 8 câu, nhịp 4 da diết: 
Đông Trạch: 1. Không còn nghe dìu 
dặt tiếng tơ reo Ru trăng rừng, ngủ 
cùng sương lam. 
2. Bếp lửa cũng mừng reo. Chập 
chờn bóng múa theo. 
3. Chốn lâm sơn xuân vẫn mỹ miều. 
Trong một mái tranh nghèo. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Huỳnh Công Tín và tgk 
49 
4. Nay, nó đã treo đàn, để tơ vàng 
nhện giăng. 
Thi Đằng: 5. Hay sông hồ đã lên 
tiếng, réo gọi tuổi xuân thời. 
6. Nên cậu chán rừng này, dấn 
thân vào cõi xa. 
Đông Trạch: 7. Tất cả cũng tại tôi 
ngày kia lâm bạo bịnh. Tôi kêu nó lại 
mà trối trăn. 
8. Bảo Xuyên Lan không phải là em 
ruột. Nó mới sanh động tà tâm” [12], 
Mặt khác, xét trên bình diện tính cách 
người Nam Bộ, như: “dân tứ chiếng, dọc 
ngang; tư tưởng cởi mở, phóng khoáng; tính 
cách hào hiệp, trọng nghĩa; tấm lòng nhân 
hậu, thủy chung; tinh thần lạc quan, yêu 
đời” [15], trong vở tuồng Tiếng hò sông 
Hậu, các nhân vật Nam Bộ đã bộc lộ đầy đủ 
những phẩm chất này, thông qua ngôn ngữ: 
Về tư tưởng cởi mở, phóng khoáng, có 
thể hình dung qua lời đối đáp của anh Thừa 
với cặp rằn Lựu: “ Thì tui kể như là thả 
trôi sông, xách biếu mười ngày công. Kể 
như làm không công cho Thổ địa, Thổ 
thần. Vui chơi với vắt đỉa, muỗi mòng ba 
đêm cùng bè bạn giao du. Rồi quảy nóp đi 
đều, từ Rạch Gòi, Lịch Hội Thượng hay 
Bãi Giá, Cổ Cò” [7, tr.225-289]. 
Về tính cách hào hiệp, trọng nghĩa, 
qua hình tượng nhân vật Thừa, người xem 
nhận ra một người nghĩa khí cương trực, 
không sống luồn cúi trước cường quyền, 
biết dùng những lời mỉa mai châm biếm để 
đánh thẳng vào cặp rằn Lựu, tên tay sai đắc 
lực của Hội đồng Dư, khi hắn nhờ anh 
xuống bến sông cõng Hội đồng Dư lên bờ: 
“ Cái lưng tui ngay đơ, ổng ngồi không 
vững mà ổng rơi xuống sình thì khốn à!” 
[7, tr.225-289]. Cái lưng “ngay đơ” chính 
là sự ngay thẳng, không dễ gì khuất phục. 
Về tinh thần lạc quan, tuy thiếu tiền, 
vật chất và phía trước là con đường tối, 
nhưng họ vẫn luôn yêu đời. “Nhằm nhè gì! 
Từ năm đó, tao với chú Ba Thạch Sên lãnh 
án mỗi người 6 tháng. Mãn tù ra, lại quảy 
nóp tha hương. Người ta là “nghệ sĩ giang 
hồ điếm cỏ cầu sương”. Mình là nông dân 
nghèo tứ cố vô thân” [7, tr,225-289]. 
3. KẾT LUẬN 
Trên phương diện thực tiễn, khảo sát 
phương ngữ Nam Bộ từ ngôn ngữ sinh hoạt 
đời thường ưu điểm là có được chất liệu 
hiện thực sinh động; nhược điểm là lượng 
mẫu khảo sát ít ỏi, không đồng nhất khiến 
việc khái quát tính điển hình của đặc trưng 
trở nên thiếu thuyết phục. Khảo sát phương 
ngữ ở bình diện nghệ thuật văn chương, 
bao gồm thơ văn, đôi khi sự sáng tạo và hư 
cấu của tác giả làm cho văn bản thiếu chất 
trung thực chừng mực nhất định. May thay, 
việc khảo sát thực tiễn phương ngữ Nam 
Bộ còn có thể được khai thác trong nguồn 
văn học dân gian; đặc biệt là trong kho tàng 
tuồng tích sân khấu cải lương Nam Bộ, cho 
thấy được một điểm mới, có sự hoàn thiện 
hơn. Bởi trong cải lương, cuộc đời thực 
như được tái tạo lại trên sân khấu, vừa 
mang tính hiện thực sắc nét, vừa khái quát 
được nghệ thuật điển hình nhân vật thông 
qua việc khắc họa ngôn ngữ thể hiện lại 
tính cách và tâm lý của họ; đồng thời, trước 
khi được biểu diễn, dù muốn hay không vở 
diễn đã được “phê duyệt”, bởi một hội 
đồng nghệ thuật khách quan đáng tin cậy. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
50 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Văn Ái (Chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
[2] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước – Phương ngữ học, Nxb 
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[3] Đỗ Dũng (2007), Âm nhạc Cải lương - Tính năng, giai điệu, Nxb Sân khấu. 
[4] Đỗ Dũng (2013), Đặc điển của ngôn ngữ ca từ Vọng cổ, Nxb Văn hóa-Văn nghệ. 
[5] Cao Xuân Hạo (1978), Số phận của các vần có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ lớn 
của Việt Nam, Thông báo Ngữ âm học, Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
[6] Cao Xuân Hạo (1988), Hai vấn đề âm vị học của phương ngữ Nam Bộ, Tạp chí Ngôn ngữ số 1. 
[7] Điêu Huyền (2016), Tiếng hò sông Hậu, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh, 
Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 2, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Nguyễn Như Ý, Đặng ngọc Lệ, Phan Xuân Thành (1999), Từ điển đối chiếu từ địa 
phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[9] Trần Văn Khê (2004), Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Trẻ. 
[10] Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[11] Xuân Phong (2016), Rạng ngọc Côn Sơn, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí 
Minh, Tuyển tập kịch bản sân khấu, quyển 3, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[12] Loan Thảo - Yên Ba, Tiếng hạc trong trăng, tư liệu được xả băng từ vở tuồng được 
ghi âm trên https://www.youtube.com/watch?v=mpmnWm8iOWc. 
[13] Vương Hồng Sển (2007), Hồi ký 50 năm mê hát, Nxb Trẻ. 
[14] Huỳnh Công Tín (2009), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[15] Huỳnh Công Tín (2012), Ấn tượng văn hóa đồng bằng Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[16] Huỳnh Công Tín (2013), Tiếng Sài Gòn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[17] Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
[18] Ban Tuyên giáo Thành ủy, Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Tuyển tập kịch bản sân 
khấu, quyển 1, 2, 3, 4. Nxb Văn hóa - Văn nghệ. 
[19] Nhiều tác giả (2014), Nghệ thuật âm nhạc phương Đông: Bản sắc và giá trị , Nxb Đại 
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài: 26-9-2018. Ngày biên tập xong: 25-10-2018. Duyệt đăng: 28-11-2018 

File đính kèm:

  • pdfphuong_ngu_nam_bo_the_hien_qua_san_khau_cai_luong.pdf