Phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc TAPP trong điều trị thoát vị bẹn

Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa thường gặp và có nhiều tác giả đưa ra nhiều kỹ thuật

mổ khác nhau. Phẫu thuật xuyên phúc mạc tiếp cận khoang trước phúc mạc (TAPP) với nhiều ưu điểm như

tiếp cận phẫu trường nội soi rộng rãi, các mốc giải phẫu rõ ràng, có thể quan sát, đánh giá và xử trí tạng thoát

vị khá dễ dàng, có thể phát hiện thoát vị bẹn đối diện và xử trí những bệnh lý kèm theo trong ổ phúc mạc. Đối

tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi 60 bệnh nhân được chẩn đoán

thoát vị bẹn tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ 10/2016-10/2017.

Kết quả: Tuổi trung bình 58±18,2. Nam chiếm 96,7%. Thời gian mổ trung bình một bên là 45,6±15,1 phút;

hai bên là 73±25,2 phút. 02 trường hợp tụ dịch vùng bẹn bìu (3,3%), 02 trường hợp sưng nề bìu (3,3%), 01

trường hợp tụ máu thành bụng (1,7%). Phát hiện 04 trường hợp thoát vị bẹn đối bên (6,7%), xử trí 05 trường

hợp bệnh lý kèm theo (8,3%). Thời gian nằm viện sau mổ 3,9±1,1 ngày. Kết luận: Phẫu thuật TAPP là một phẫu

thuật an toàn, có thể thực hiện được. Phẫu thuật TAPP có thể phát hiện và xử trí những tổn thương trong ổ

phúc mạc cũng như các bệnh lý đi kèm.

pdf 5 trang kimcuc 2720
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc TAPP trong điều trị thoát vị bẹn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc TAPP trong điều trị thoát vị bẹn

Phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc TAPP trong điều trị thoát vị bẹn
76
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
PHẪU THUẬT NỘI SOI XUYÊN PHÚC MẠC TAPP 
TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN
Nguyễn Minh Thảo1, Phạm Anh Vũ1, Nguyễn Hữu Trí1, Nguyễn Đoàn Văn Phú1, 
Nguyễn Thành Phúc1, Trần Văn Khôi1, Đoàn Phước Vựng1, Trương Đình Khôi2, Nguyễn Duy Thắng1
(1) Trường Đại học Y Dược Huế
(2) Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa thường gặp và có nhiều tác giả đưa ra nhiều kỹ thuật 
mổ khác nhau. Phẫu thuật xuyên phúc mạc tiếp cận khoang trước phúc mạc (TAPP) với nhiều ưu điểm như 
tiếp cận phẫu trường nội soi rộng rãi, các mốc giải phẫu rõ ràng, có thể quan sát, đánh giá và xử trí tạng thoát 
vị khá dễ dàng, có thể phát hiện thoát vị bẹn đối diện và xử trí những bệnh lý kèm theo trong ổ phúc mạc. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi 60 bệnh nhân được chẩn đoán 
thoát vị bẹn tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ 10/2016-10/2017. 
Kết quả: Tuổi trung bình 58±18,2. Nam chiếm 96,7%. Thời gian mổ trung bình một bên là 45,6±15,1 phút; 
hai bên là 73±25,2 phút. 02 trường hợp tụ dịch vùng bẹn bìu (3,3%), 02 trường hợp sưng nề bìu (3,3%), 01 
trường hợp tụ máu thành bụng (1,7%). Phát hiện 04 trường hợp thoát vị bẹn đối bên (6,7%), xử trí 05 trường 
hợp bệnh lý kèm theo (8,3%). Thời gian nằm viện sau mổ 3,9±1,1 ngày. Kết luận: Phẫu thuật TAPP là một phẫu 
thuật an toàn, có thể thực hiện được. Phẫu thuật TAPP có thể phát hiện và xử trí những tổn thương trong ổ 
phúc mạc cũng như các bệnh lý đi kèm.
Abstract
LAPAROSCOPIC TRANS-ABDOMINAL PRE-PERITONEAL (TAPP) 
REPAIR FOR TREATMENT INGUINAL HERNIA DISEASE
Nguyen Minh Thao1, Pham Anh Vu1, Nguyen Huu Tri1, Nguyen Doan Van Phu1, 
Nguyen Thanh Phuc1, Tran Van Khoi1, Doan Phuoc Vung1, Truong Dình Khoi2, Nguyen Duy Thang1
(1) Trường Đại học Y Dược Huế
(2) Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa
Background: Inguinal hernia is one of the commonest surgical diseases and there are many different 
techniques applied. The laparoscopic trans-abdominal pre-peritoneal (TAPP) repair allows a better view of 
the inguinal anatomy, evaluation of opposite side and resolve combined peritoneal diseases as well. Patient 
and method: The study included 60 cases with inguinal hernia that have been treated by laparoscopic trans-
abdominal pre-peritoneal (TAPP) repair. Method: Description, prospective follow-up. Result: The mean age 
was 58±18.2. 96.7% were males. The average operative time was 45.6±15.1 minutes for one side hernia, 
73±25.2 minutes for bilateral hernia. 02 cases have been post-operation inguinal seroma complication (3.3%), 
02 cases with hydrocele (3.3%), 01 case with abdominal seroma (1.7%). 04 cases (6.7%) opposite inguinal 
hernia were detected and 05 cases (8.3%) with combined diseases were resolved. Duration of post-operative 
stay was 3.9±1.1 days. Conclusion: TAPP is a safe and feasible procedure, allows evaluation of opposite side 
and resolve combined peritoneal diseases.
- Địa chỉ liên hệ: Đào Thị Cẩm Minh, email: camminh83@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 7/3/2018; Ngày đồng ý đăng: 2/6/2018; Ngày xuất bản: 5/7/201805/1/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa thường 
gặp và có nhiều tác giả đưa ra nhiều kỹ thuật mổ 
khác nhau. Từ khi Bassini đưa ra kỹ thuật mổ mang 
tên mình vào năm 1887 thì đã có hơn 100 loại phẫu 
thuật khác nhau của các tác giả khác với mục đích 
mang lại kết quả điều trị tốt nhất. Kỹ thuật này đã 
trở thành tiêu chuẩn vàng cho điều trị thoát vị bẹn 
trên toàn thế giới trong giai đoạn này. Năm 1970, 
tác giả Shouldice đưa ra kỹ thuật cũng sử dụng mô 
tự thân tương tự và cũng trở thành tiêu chuẩn vàng 
trong điều trị mới. Tuy nhiên, các loại phẫu thuật sử 
77
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
dụng cấu trúc giải phẫu này vẫn còn gặp không ít khó 
khăn khi cấu trúc thành của ống bẹn bị phá huỷ và 
biến đổi nhiều [7], [8], [9].
Vào cuối thế kỷ 20, một số tác giả đã sử dụng tấm 
ghép nhân tạo vá vào chổ yếu thành sau ống bẹn đã 
đánh dấu sự ra đời của phương pháp tái tạo thành 
bụng không áp lực (Tension-free repair). Phương 
pháp này đã giúp loại bỏ sức căng của đường khâu 
tái tạo gặp phải trong phương pháp điều trị bằng mô 
tự thân và đã được sử dụng rộng rãi như phương 
pháp của tác giả Lichteinsten, Stoppa... [8], [9].
Năm 1982, Ger đã thực hiện phẫu thuật thoát 
vị bẹn nội soi đầu tiên bằng cách xử lý lỗ bẹn sâu 
bằng những clip kim loại không rĩ, mở đầu cho các kỹ 
thuật nội soi thoát vị bẹn sau này. Phẫu thuật nội soi 
trước phúc mạc hoàn toàn (TEP) ra đời vào những 
năm sau đó với phẫu thuật xâm nhập tối thiểu ngoài 
phúc mạc hoàn toàn. Phẫu thuật nội soi xuyên phúc 
mạc sửa chữa khoang trước phúc mạc (TAPP) được 
thực hiện từ năm 1990 bởi Arregui và Dion [9]. 
Ngoài những ưu điểm của phẫu thuật nội soi 
trong điều trị các bệnh lý ngoại khoa nói chung và 
bệnh lý thoát vị bẹn nói riêng, phẫu thuật TAPP còn 
có những ưu điểm riêng như tiếp cận phẫu trường 
nội soi rộng rãi, các mốc giải phẫu rõ ràng cũng như 
cách tiếp cận nội soi tương đối dễ dàng. Phẫu thuật 
TAPP có thể chỉ định đối với những trường hợp 
thoát vị bẹn khó như thoát vị bẹn cầm tù, thoát vị 
bẹn nghẹt tới sớm chưa có tổn thương hoại tử tạng 
thoát vị do phẫu thuật viên có thể quan sát, đánh giá 
và xử trí tạng thoát vị khá dễ dàng mà phẫu thuật 
nội soi hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) không thể 
thực hiện được [3]. 
Ngoài ra, phẫu thuật viên khi thực hiện phẫu 
thuật TAPP có thể phát hiện thoát vị bẹn đối diện 
nếu có, xử trí một số bệnh lý kèm theo trong ổ phúc 
mạc và có đường cong huấn luyện ngắn [4].
Do đó chúng tôi thực hiện ứng dụng phẫu thuật 
nội soi điều trị thoát vị bẹn xuyên phúc mạc tại Bệnh 
viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học 
Y Dược Huế với các mục tiêu: (1) Đánh giá kết quả 
phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc vào khoang 
trước phúc mạc (TAPP), (2) Nghiên cứu tỷ lệ phát 
hiện thoát vị bẹn đối bên và xử trí các bệnh lý đi kèm 
trong ổ phúc mạc.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 60 bệnh nhân được chẩn đoán thoát vị bẹn 
tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế từ 10/2016-10/2017.
Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Bệnh nhân > 16 tuổi bị thoát vị bẹn có hoặc 
không các bệnh lý lành tính kèm theo không có tình 
trạng viêm cấp tính, nhiễm trùng.
- Không có chống chỉ định phẫu thuật nội soi.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Thoát vị bẹn nghẹt tới muộn sau 6 giờ, thoát vị 
bẹn có dấu hiệu tắc ruột
- Bệnh nhân chống chỉ định gây mê nội khí quản
- Bệnh nhân có tiền sử dính ruột hoặc phẫu thuật 
mở lớn tầng dưới ổ phúc mạc.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi.
1. Dụng cụ và trang thiết bị
Dụng cụ chính gồm hệ thống nội soi hãng Karl 
Storz và các dụng cụ phẫu thuật truyền thống.
2. Kỹ thuật
Phương pháp nội soi xuyên phúc mạc TAPP được 
Arregui thực hiện vào năm 1992 và mô tả phương 
pháp này vào năm 1993 [1]. Sau đó có một số tác giả 
khác đã thực hiện và mô tả rất rõ về kĩ thuật này [8]. 
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm ngữa 
đầu thấp và nghiêng về phía phẫu thuật viên để các 
cơ quan trong ổ phúc mạc đổ về tầng trên ổ bụng và 
về phía phẫu thuật viên bộc lộ vùng thoát vị bẹn bên 
đối diện. Nếu trường hợp thoát vị bẹn 2 bên thì tiến 
hành đổi vị trí của ekip phẫu thuật viên và hệ thống 
máy nội soi.
Đặt trocar 10mm vào ổ phúc mạc vị trí trên rốn 
theo phương pháp Harson cải tiến, quan sát đánh 
giá vị trí thoát vị, tạng thoát vị, phân loại thoát vị, đo 
kích thước lỗ bẹn sâu và đánh giá tình trạng thoát vị 
bẹn bên đối diện.
Đặt 2 trocar 5mm vào 2 bên cơ thẳng bụng ngang 
với vị trí trocar 10mm, tiến hành tạo khoang trước 
phúc mạc từ đường ranh giới được tính từ giữa rốn 
đến dây chằng bẹn, khoảng 3-4 cm trên mái vòm 
lỗ bẹn sâu, từ ngoài vào trong cho tới nếp rốn bên. 
Sử dụng dụng cụ Maryland dissector bên tay trái để 
cầm giữ phúc mạc thành bụng, tay phải sử dụng kéo 
và lợi dụng áp lực của CO2 để tách phúc mạc ra khỏi 
thành bụng.
Tách phúc mạc cho tới lỗ bẹn sâu, lột phúc mạc 
ra khỏi bó mạch thượng vị dưới, tách túi thoát vị 
nếu có (lưu ý nên tách túi thoát vị gián tiếp cho tới 
đáy túi). Trong quá trình tách túi thoát vị đi từ ngoài 
vào cần tách phúc mạc ra khỏi bó mạch sinh dục và 
ống dẫn tinh với động mạch ống dẫn tinh.
Bên trong tách phúc mạc cho tới khi thấy được 
dây chằng Cooper và củ mu. Tạo khoang vị trí thành 
sau ống bẹn.
Đặt tấm lưới nhân tạo vào khoang trước phúc 
mạc vừa tạo ra, che phủ lỗ bẹn sâu và thành sau 
ống bẹn. Cố định bên trong tấm lưới vào dây chằng 
78
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Cooper bằng protak, cố định phía ngoài cùng tấm 
lưới. Tấm lưới nhân tạo được sử dụng là prolene 
mesh 2D, kích thước mesh 7,5x15cm và 10x15cm. 
Việc sử dụng kích thước tấm lưới tùy thuộc vào kích 
thước lỗ thoát vị để đảm bảo độ rộng che phủ cách 
các rìa của lỗ thoát vị từ 3-4cm [2]. 
Tiến hành đóng kín phúc mạc bằng các protak 
hoặc khâu kín phúc mạc bằng chỉ vicryl.
Các biến số nghiên cứu
- Vị trí thoát vị bẹn: dựa vào thăm khám lâm sàng 
và hình ảnh siêu âm
- Phân loại thoát vị bẹn: theo Nyhus 1991
- Tạng thoát vị dựa theo siêu âm và trong mổ
- Thời gian phẫu thuật: Được tính từ lúc bắt đầu 
phẫu thuật cho tới kết thúc, trừ đi thời gian phẫu 
thuật riêng đối với những trường hợp giải quyết các 
bệnh lý kèm theo.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Gồm 60 bệnh nhân (Tuổi nhỏ nhất 20 tuổi, lớn 
nhất 95 tuổi, tuổi trung bình 58±18,2 trong đó 3,3% 
nữ, 96,7% nam) được phẫu thuật nội soi TAPP.
3.1. Vị trí thoát vị bẹn
Vị trí Số lượng Tỷ lệ (%)
Phải 41 68,3
Trái 17 28,3
Hai bên 2 3,3
Tổng 60 100
3.2. Phân loại thoát vị bẹn 
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
I (gián tiếp, lỗ bẹn bình thường) 1 1,7
II (gián tiếp, lỗ bẹn rộng) 32 53,3
III
A (trực tiếp) 9 15,0
B (gián tiếp, đến bìu) 13 21,7
C (đùi) 1 1,7
IV A (tái phát, trực tiếp) 4 6,6
Tổng 60 100
3.3. Tạng thoát vị
Tạng thoát vị Trong siêu âm Trong phẫu thuật
Ruột non 26 (43,3%) 7 (11,7%)
Mạc nối lớn 9 (15,0%) 11 (18,3%)
Ruột non + mạc nối lớn 10 (16,7%) 1 (1,7%)
Không có 15 (25,0%) 41 (68,3%)
3.4. Thời gian mổ trung bình 1 bên là 45,6±15,1 phút; hai bên là 73±25,2 phút
3.5. Tai biến, biến chứng sau mổ
Biến chứng Số lượng Tỷ lệ (%)
Máu tụ thành bụng 1 1,7
Tụ dịch vùng bẹn bìu 2 3,3
Sưng nề bìu 2 3,3
3.6. Phát hiện thoát vị bẹn đối bên có 4 trường hợp, chiếm 6,7%.
3.7. Xử lý các bệnh lý kèm theo có 5 trường hợp chiếm 8,3%. Trong đó có 4 trường hợp bệnh lý túi mật (3 
sỏi túi mật chưa biến chứng và 2 polyp túi mật), 1 trường hợp ruột thừa viêm mạn.
3.8. Thời gian nằm viện 3,9±1,1 ngày.
4. BÀN LUẬN
Từ tháng 10/2016 đến tháng 10/2017 chúng tôi 
đã thực hiện được 60 trường hợp phẫu thuật thoát 
vị bẹn. Tuổi nhỏ nhất là 20 tuổi, tuổi lớn nhất là 95 
tuổi. Lứa tuổi chỉ định phẫu thuật TAPP trong thoát 
vị bẹn trong nghiên cứu của chúng tôi khá rộng. Tuy 
nhiên, theo tác giả Ferrarese và cộng sự thì kết quả 
phẫu thuật TAPP đối với lứa tuổi trên 65 cũng tương 
tự như lứa tuổi dưới 65. Phẫu thuật TAPP an toàn 
79
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
và có thể thực hiện được với đối tượng người cao 
tuổi [6]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vị trí thoát vị 
bẹn phải chiếm 68,3%, kết quả này tương tự với 
nghiên cứu của tác giả Ujiki, trong đó vị trí bên phải 
chiếm đa số [31].
Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus thì loại II (thoát 
vị bẹn gián tiếp, lỗ bẹn rộng) chiếm đa số với 53,3%, 
tiếp đến là IIIb (thoát vị bẹn gián tiếp tới bìu, sàn bẹn 
bị phá huỷ, thoát vị bẹn phối hợp) với 21,7% và loại 
IIIa (thoát vị bẹn trực tiếp) chiếm 15%. Nghiên cứu 
của tác giả Bokeler, Muschalla cho kết quả tương 
tự với loại II, IIIa và IIIb chiếm đa số. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, thoát vị bẹn gián tiếp chiếm đại 
đa số với 55%, hầu hết các trường hợp thoát vị bẹn 
đều phát hiện có túi thoát vị gián tiếp mặc dù trên 
lâm sàng cũng như siêu âm chỉ phát hiện thoát vị 
bẹn trực tiếp. Điều này cho thấy ưu điểm của phẫu 
thuật TAPP là có thể quan sát, đánh giá rất tốt các 
đặc điểm thoát vị, đồng thời có thể xử trí dễ dàng 
[4], [30].
Kết quả phát hiện tạng thoát vị vào ống bẹn 
bằng siêu âm trước mổ và kết quả phát hiện bằng 
nội soi trong mổ có sự khác biệt lớn. Trong mổ các 
tạng thoát vị thường ít thấy hơn so với trong siêu âm 
trước mổ. Điều này có thể giải thích do khi làm xét 
nghiệm siêu âm thường được kết hợp với nghiệm 
pháp gắng sức làm tăng áp lực ổ bụng để tìm kiếm 
tạng thoát vị, trong khi đó trong quá trình mổ thì 
với phương pháp gây mê nội khí quản đồng thời sử 
dụng các thuốc giãn cơ thì hầu hết các tạng thoát vị 
đều chui về lại ổ phúc mạc ngoại trừ các trường hợp 
thoát vị bẹn nghẹt và thoát vị bẹn cầm tù.
Thời gian mổ trung bình một bên của nghiên cứu 
chúng tôi là 45,6±15,1 phút tương tự với thời gian 
mổ của tác giả Bokeler là 46 phút, tác giả Bittner 
là 47 phút. Thời gian này thấp hơn nghiên cứu của 
Ciftci với 55 phút. Kết quả này cho thấy không có sự 
khác biệt nhiều giữa nghiên cứu của chúng tôi và 
nghiên cứu của các tác giả khác. Thời gian mổ của 
các tác giả nói chung thấp hơn nhóm nội soi hoàn 
toàn ngoài phúc mạc (TEP). Điều này có thể do phẫu 
thuật viên khi thực hiện phẫu thuật TAPP thường có 
không gian phẫu tích rộng rãi, các mốc giải phẫu rõ 
ràng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thao tác, 
giúp rút ngắn thời gian phẫu thuật [4], [5], [9], [32].
Biến chứng sau mổ tương đối ít với 1 trường 
hợp máu tụ thành bụng (1,7%), 2 trường hợp tụ 
dịch vùng bẹn bìu (3,3%) và 2 trường hợp sưng bìu 
(3,3%). Trường hợp máu tụ thành bụng được phát 
hiện do bệnh nhân đau thành bụng cùng bên, xuất 
hiện mảng bầm tím lan rộng thành bụng cùng bên 
lan rộng, siêu âm thấy một lớp dịch mỏng trong 
thành bụng. Hai trường hợp tụ dịch huyết thanh 
vùng bẹn bìu kích thước nhỏ <5cm, được phát hiện 
qua khám lâm sàng, siêu âm và chọc hút kiểm tra. 
Các biến chứng này không rơi vào những trường 
hợp xử lý bệnh kèm theo.
Các trường hợp này được điều trị nội khoa bảo 
tồn. Theo Bittner thì các biến chứng phù nề bìu thì 
phẫu thuật TAPP thường nhiều hơn TEP, còn tụ dịch 
thành bụng thì phẫu thuật TAPP lại ít hơn [3].
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 4 
trường hợp phát hiện thoát vị bẹn đối bên chiếm 
6,7% nhưng không chỉ định phẫu thuật đồng thời do 
chưa giải thích trước với bệnh nhân cũng như người 
nhà về phẫu thuật phía đối bên. Những trường hợp 
này chỉ được phát hiện được trong mổ với túi thoát 
vị bẹn gián tiếp kích thước nhỏ. Trước đây, các phẫu 
thuật viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát 
hiện thoát vị bẹn 2 bên ở người trưởng thành, nhưng 
từ khi có nội soi ổ phúc mạc, nhiều báo cáo cho thấy 
tỷ lệ phát hiện đã có sự gia tăng đáng kể. Phẫu thuật 
TAPP cho thấy hiệu quả trong việc phát hiện sớm các 
dị tật bên trong, đồng thời cho phép phẫu thuật viên 
tiếp cận hiệu quả cả 2 bên ngay sau khi phát hiện. 
Điều quan trọng là phẫu thuật viên cần phải trao 
đổi với bệnh nhân và người nhà trước khi giải quyết 
đồng thời 2 bên nếu thấy cần thiết [33].
Tỷ lệ thoát vị bẹn 2 bên ở người trưởng thành có 
sự khác biệt giữa các nghiên cứu của các tác giả khác 
nhau. Khi nghiên cứu dịch tể học của bệnh lý thoát 
vị bẹn, Akin phát hiện tỷ lệ này chỉ 6,2%, el-Quaderi 
5%, Weber 22%. Khi nghiên cứu qua phẫu thuật mở 
thoát vị bẹn, Glasow phát hiện được 12%, trong khi 
đó tỷ lệ phát hiện trong nghiên cứu của Rutkow là 
25,2%. Khi thực hiện phẫu thuật nội soi ổ phúc mạc, 
tỷ lệ phát hiện đã được cải thiện như nghiên cứu 
của tác giả Weber (36%), MCKernan (36%) và Phillips 
(64%). Với phẫu thuật xuyên ổ phúc mạc có thể dễ 
dàng phát hiện những khiếm khuyết này mà những 
phẫu thuật khác cũng như lâm sàng khó có thể phát 
hiện được [33].
Ngoài khả năng phát hiện thoát vị bẹn đối bên, 
phẫu thuật TAPP còn có thể xử trí những bệnh lý 
lành tính đi kèm (những phẫu thuật vô khuẩn để 
không gây nguy cơ nhiễm trùng tấm lưới nhân tạo) 
như bệnh lý túi mật, ruột thừa viêm mạn. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi thì có tới 5 trường hợp có 
bệnh lý kèm theo được xử trí. Việc xử trí các bệnh lý 
đơn giản kèm theo này có thể làm giảm một lần mổ 
cho bệnh nhân, giảm bớt chi phí điều trị cũng như 
tâm lý cho người bệnh.
Thời gian nằm viện trong nghiên cứu của chúng 
tôi là khá cao, 3,9±1,1 ngày. Điều này có thể giải 
thích do bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi 
80
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nằm viện rơi vào ngày thứ 7, chủ nhật nhiều nên có 
thể góp phần tăng số ngày điều trị lên cao.
5. KẾT LUẬN
Phẫu thuật xuyên phúc mạc tiếp cận khoang tiền 
phúc mạc điều trị thoát vị bẹn là một phẫu thuật 
an toàn, có thể thực hiện được trên người trưởng 
thành, người cao tuổi nếu điều kiện gây mê cho 
phép. Phẫu thuật này có thể dễ dàng phát hiện 
những khiếm khuyết trong ổ phúc mạc cũng như 
phát hiện tình trạng thoát vị bẹn đối bên. Ngoài ra, 
phương pháp này có thể xử trí những tổn thương 
bệnh lý đơn giản đi kèm mà các phương pháp khác 
không phát hiện được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arregui M.E. (1993), “Laparoscopic inguinal 
herniorrhaphy. Technique and controversies”, Surgical 
clinics of North America, 73(3), pp.513-527.
2. Bittner R. (2017), “Evidence-based TAPP technique”, 
Der Chirurg, 88(4), pp.281-287.
3. Bittner R., Montgomery M., Arregui E., et al 
(2015), “Update of guidelines on laparoscopic (TAPP) 
and endoscopic (TEP) treatment of inguinal hernia 
(International Endohernia Society)”, Surgical endoscopy, 
29(2), pp. 289-321.
4. Bökeler U., Schwarz J., Bittner R., Zacheja S., Smaxwil 
C. (2013), “Teaching and training in laparoscopic inguinal 
hernia repair (TAPP): impact of the learning curve on patient 
outcome”, Surgical endoscopy, 27(8), pp. 2886-2893.
5. Ciftci F., Abdulrahman I., Ibrahimoglu F., Kilic G. 
(2015), “Early-stage quantitative analysis of the effect of 
laparoscopic versus conventional inguinal hernia repair on 
physical activity”, Chirurgia (bucur), 110(5), pp. 451-6.
6. Ferrarese A. M., Enrico S., Solej M., et al. (2013), 
“Transabdominal pre-peritoneal mesh in inguinal hernia 
repair in elderly: end point of our experience”, BMC 
surgery, 13(2), pp. S24.
7. Hay J.-M., Boudet M.-J., Fingerhut A., et al. (1995), 
“Shouldice inguinal hernia repair in the male adult: the 
gold standard? A multicenter controlled trial in 1578 
patients”, Annals of surgery, 222(6), pp. 719.
8. Kriplani A., Pachisia S. S., Ghosh D. (2007), 
“Laparoscopic Trans Abdominal Pre-peritoneal (TAPP) 
Repair of Inguinal Hernia”, Comprehensive laparoscopic 
surgery, pp. 119-130 .
9. Leblanc K. (2002), Laparoscopic hernia surgery: an 
operative guide, CRC Press.
10. Muschalla F., Schwarz J., Bittner R. (2016), 
“Effectivity of laparoscopic inguinal hernia repair (TAPP) in 
daily clinical practice: early and long-term result”, Surgical 
endoscopy, 30(11), pp. 4985-4994.
11. Ujiki M. B., Gitelis M. E., Carbray J., et al. (2015), 
“Patient-centered outcomes following laparoscopic 
inguinal hernia repair”, Surgical endoscopy, 29(9), pp. 
2512-2519.
12. Vãrcuæ F., Duåã C., Dobrescu A., et al. (2016), 
“Laparoscopic Repair of Inguinal Hernia TEP versus TAPP”, 
Chirurgia, 111, pp. 308-312.
13. Weber-Sánchez A., Weber-Alvarez P., Garteiz-
Martínez D. (2016), “Laparoscopy and Bilateral Inguinal 
Hernias”, J Surg Transplant Sci, 4(1), pp. 1019.

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_noi_soi_xuyen_phuc_mac_tapp_trong_dieu_tri_thoat.pdf