Phẫu thuật điều trị u nhày nhĩ phải lớn nhân một trường hợp
U tại tim chỉ chiếm khoảng 0,2% tất cả các loại
u của cơ thể. Các khối u này có thể là nguyên phát,
thứ phát hoặc di căn ung thư [2]. Trong đó, những
khối u thứ phát hoặc di căn nhiều gấp 20 đến 40 lần
u nguyên phát. Do vậy, u nguyên phát ở tim rất hiếm
gặp [4], [7], [11].
U tim nguyên phát có 50% là u nhày. Đây là
những khối phát triển từ các tế bào trung mô của lớp
nội tâm mạc [1]. U nhày có 75-80% nằm ở nhĩ trái,
với biểu hiện lâm sàng tương tự triệu chứng của bệnh
van hai lá cùng các biến chứng tắc mạch cấp tính do
u. Ở nhĩ phải chỉ gặp khoảng 18% [6], [7]. Báo cáo
nhằm tổng kết một trường hợp lâm sàng bệnh nhân
u nhày nhĩ phải kích thước lớn, được phẫu thuật
thành công tại Trung tâm Phẫu thuật Tim mạch và
lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật điều trị u nhày nhĩ phải lớn nhân một trường hợp
CA LÂM SÀNG 78 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Phẫu thuật điều trị u nhày nhĩ phải lớn nhân một trường hợp Phùng Duy Hồng Sơn*, Nguyễn Hữu Ước*, Đặng Tuấn Nghĩa** Trung tâm Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức* Bộ môn Ngoại Lồng ngực, Học viện Quân y** TÓM TẮT Đặt vấn đề: U tim nguyên phát rất ít gặp, trong đó có tới 50% là loại u nhày. U thường có cuống từ nội tâm mạc và phát triển dần vào trong một buồng tim, trong đó u nhày nhĩ trái là vị trí hay gặp nhất, hiếm khi có ở các buồng tim khác. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo dạng ca lâm sàng về một trường hợp u nhày kích thước lớn ở nhĩ phải, được phẫu thuật cắt u thành công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Kết quả: Bệnh nhân nữ - 56 tuổi; biểu hiện khó thở cách vào viện 3 tháng. Khám tim mạch phát hiện u tim và được chuyển đến Bệnh viện Việt Đức. Chẩn đoán ban đầu là u nhĩ phải, có thể tiên phát của cơ tim (ít gặp) hoặc di căn-xâm lấn từ u ác tính trung thất (hay gặp). Phân tích kỹ các hình ảnh trên siêu âm tim Doppler mầu (qua thành ngực và thực quản), chụp cắt lớp vi tính đa dãy, tra cứu y văn đã loại trừ u ngoài tim di căn, huyết khối nhĩ phải; và hướng tới chẩn đoán u nhĩ phải đơn thuần – nhiều khả năng là u nhày rất lớn. Phẫu thuật tim hở qua mở xương ức, chẩn đoán xác định u nhĩ phải kích thước 7x5 cm, cuống bám ở vách liên nhĩ, với kết quả sinh thiết tức thì là u nhầy tim. Cách thức phẫu thuật: cắt hết u và cuống u, vá lại vách liên nhĩ, tạo hình van ba lá. Hậu phẫu thuận lợi, kết quả giải phẫu bệnh là u nhày nhĩ, siêu âm tim kiểm tra tốt, ra viện sau mổ 10 ngày. Kết luận: U nhầy nhĩ phải hiếm gặp hơn các u ác tính; chẩn đoán thường muộn với hình ảnh của loại u khá đặc. Nếu xác định được là u nhĩ phải đơn độc, với khả năng cắt bỏ cao, thì có thể tiến hành phẫu thuật như một chẩn đoán u nhày. Từ khóa: U nhày nhĩ phải, u nhày, Bệnh viện Việt Đức. ĐẶT VẤN ĐỀ U tại tim chỉ chiếm khoảng 0,2% tất cả các loại u của cơ thể. Các khối u này có thể là nguyên phát, thứ phát hoặc di căn ung thư [2]. Trong đó, những khối u thứ phát hoặc di căn nhiều gấp 20 đến 40 lần u nguyên phát. Do vậy, u nguyên phát ở tim rất hiếm gặp [4], [7], [11]. U tim nguyên phát có 50% là u nhày. Đây là những khối phát triển từ các tế bào trung mô của lớp nội tâm mạc [1]. U nhày có 75-80% nằm ở nhĩ trái, với biểu hiện lâm sàng tương tự triệu chứng của bệnh van hai lá cùng các biến chứng tắc mạch cấp tính do u. Ở nhĩ phải chỉ gặp khoảng 18% [6], [7]. Báo cáo nhằm tổng kết một trường hợp lâm sàng bệnh nhân u nhày nhĩ phải kích thước lớn, được phẫu thuật thành công tại Trung tâm Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. CA LÂM SÀNG Bệnh nhân nữ 56 tuổi nhập viện tháng 12 năm CA LÂM SÀNG 79TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 2017 do mệt mỏi và khó thở xuất hiện từ trước đó 3 tháng. Khám lâm sàng bệnh nhân thể trạng trung bình (cao 154cm, nặng 47kg), NYHA II, không có biểu hiện nhiễm trùng. Các thăm dò cận lâm sàng. Xquang tim phổi thẳng: chỉ số tim > 50%, cung nhĩ phải giãn (H.1). Hình 1. X quang ngực thẳng Hình 2. Siêu âm tim Hình 4. Khối u chiếm phần lớn nhĩ phải Siêu âm tim: khối u trong nhĩ phải kích thước 64 x 44mm, bờ không đều, chân bám vào vách liên nhĩ vùng 1/3 trên, di động nhiều về lỗ van ba lá - gây hẹp van mức độ vừa ở thì tâm trương, có vôi hoá trong u, van hai lá hở 1,5/4; chức năng tim trái tốt (EF 73%); không có dịch màng tim và u các buồng tim khác (H.2). Cắt lớp vi tính 64 dãy: Nhĩ phải to, khối u nhĩ phải kích thước 68 x 47mm, giảm tỷ trọng, không ngấm thuốc cản quang, bên trong có vôi hoá, ranh giới rõ (H.3). Không có hình ảnh u ở vùng lân cận của nhĩ phải (trung thất và phổi). Hình 3. Cắt lớp vi tính 64 dãy Thăm dò toàn thân: Không có biểu hiện u cơ quan khác, dấu hiệu chỉ điểm u âm tính. Chẩn đoán xác định: U nhĩ phải nguyên phát, đặc điểm lành tính (u nhày), có khả năng cắt bỏ, Điều trị: Phẫu thuật tim hở qua đường giữa xương ức, đặt 2 canuyn tĩnh mạch. Nhĩ phải giãn lớn. Mở nhĩ phải thấy khối u kích thước 70 x 50mm, ranh giới rõ, mặt nhẵn, chân bám diện rộng vào vách liên nhĩ (H.4). CA LÂM SÀNG 80 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Cắt u triệt để - làm khuyết vách liên nhĩ lỗ lớn ở cuống u (H.5); vá phục hồi lỗ khuyết bằng miếng vá nhân tạo PTFE, sửa van ba lá kiểu De Vega. Kết quả giải phẫu bệnh tức thì và sau mổ đều trả lời là u nhày. Hình 5. U sau khi cắt bỏ Diến biến hậu phẫu thuận lợi như mổ tim hở thường qui. Siêu âm tim kiểm tra cho kết quả tốt, hở van hai lá và van ba lá nhẹ. Chức năng tim trong giới hạn bình thường. Bệnh nhân được ra viện vào ngày thứ 10 sau mổ. BÀN LUẬN U nhày nhĩ phải gặp trong 15-20% bệnh nhân có u nhày tại tim. Trong đó, tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 70% và thường gặp ở độ tuổi từ 30-60 tuổi. Triệu chứng lâm sàng phong phú và không đặc hiệu, có thể gặp sốt, gầy sút cân, khó thở, hội chứng Raynaud, thiếu máu, tăng gammaglobulin, đau khớp. Tuy nhiên, biểu hiện khó thở và suy tim phải là hay gặp hơn cả [5], [11]. Triệu chứng lâm sàng phụ thuộc vào vị trí, kích thước, khả năng di động của khối u và thường mất đi sau khi khối u được cắt bỏ [9]. Vị trí cuống u nhày nhĩ phải hay gặp là tại vách liên nhĩ và cạnh lỗ bầu dục. U lớn gây các cản trở dòng chảy về nhĩ phải, gây các thương tổn cấu trúc van ba lá hoặc ảnh hưởng tới dòng chảy qua van [3]. Trước đây, u nhày nhĩ chỉ được phát hiện thông qua giải phẫu tử thi. Ngày nay, chẩn đoán u nhày nhĩ tương đối đơn giản qua siêu âm tim, nhưng những khối u dưới 5mm cần phải được siêu âm qua thực quản để xác định một cách chính xác hơn [3]. Đặc biệt cần chụp cắt lớp vi tính ngực có cản quang để loại trừ u trung thất xâm lấn nhĩ phải. Trong báo cáo của chúng tôi là một trường hợp bệnh nhân nữ 56 tuổi khởi phát với triệu chứng khó thở 3 tháng trước khi vào viện. Trên siêu âm tim cho thấy u nhĩ phải 64 x 44mm, bờ không đều xuất phát từ vách liên nhĩ, di dộng tốt gây hẹp vừa van ba lá ở thì tâm trương, có vôi hóa trong u. Quan sát tổn thương đại thể trong mổ khối u kích thước lớn lên tới 70 x 50mm, chia nhiều múi, đàn hồi – hình ành ngoài không giống u nhày nhĩ trái thông thường (nhóm bệnh gặp thường qui hơn), chiếm phần lớn diện tích nhĩ phải, gây giãn nhĩ phải và có các biểu hiện ứ trệ tuần hoàn về tim phải, tĩnh mạch chủ trên giãn. Một báo cáo tổng kết CA LÂM SÀNG 81TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 19 năm điều trị u nhày nhĩ của NiNa JS năm 2012 có 7 trường hợp u nhày nhĩ phải, kích thước trung bình của tác giả chỉ là 51mm - so với y văn, đây được biết đến như một báo cáo về u nhày nhĩ phải có kích thước lớn nhất [11]. Điều trị u nhày nhĩ phải dựa vào phẫu thuật, nhằm hai mục tiêu chính là loại bỏ khối u và giảm tối đa nguy cơ tái phát. Những khối u kích thước nhỏ, cuống rõ, ranh giới gọn có thể được lấy qua phẫu thuật tim hở ít xâm lấn (MICS-minimally invasive cardiac surgery), thậm chí có thể không cần làm ngừng tim. Những trường hợp u kích thước lớn, xâm lấn, tổn thương phức tạp khó kiểm soát được, khuyến cáo chung là nên mổ mở để kiểm soát và xử lý tối đa tổn thương, để hạn chế những rối loạn về dẫn truyền và ảnh hưởng tới cấu trúc của van [7], [8]. Nhiều tác giả cũng khuyên nên chủ động kẹp động mạch phổi trước tránh tổ chức u vỡ có thể di chuyển gây tắc động mạch phổi [10], [11]. Bệnh nhân trong báo cáo là trường hợp khối u lớn, bám rộng vào vách liên nhĩ, nhiều múi, do đó được lựa chọn phẫu thuật kinh điển qua mở xương ức. Để cắt triệt để cuống u, đã phải khoét cả vào vách liên nhĩ và phải vá bằng miếng vá nhân tạo; tuy nhiên cần tránh hệ thống dẫn truyền của tim trong khi cắt u. Các tác giả cũng khuyến cáo cắt triệt để khối u để hạn chế khả năng tái phát. Tỷ lệ tái phát theo A.Diaz khoảng 1-14% [6]. Bệnh nhân sau mổ hậu phẫu tốt, không có rối loạn nhịp và được xuất viện sau 10 ngày. KẾT LUẬN U nhầy nhĩ phải hiếm gặp hơn các u ác tính vùng nhĩ phải; đồng thời cũng ít gặp hơn u nhày nhĩ trái. Chẩn đoán thường muộn với hình ảnh của loại u khá đặc. Nếu xác định được là u nhĩ phải đơn độc, với khả năng cắt bỏ cao, thì có thể tiến hành phẫu thuật như một chẩn đoán u nhày. ABTRASCT Introduce: Primary cardiac tumors are rare, of which up to 50% are myxoma. Tumors usually have stems from the endocardium and develops into a heart chamber, where the left atrium is the most common site, rarely found in other heart chambers. Subjects and methods: Clinical case report of a large myxoma at the right atrium, successfully operated at the Viet Duc University Hospital. Results: Female patients - 56 years old; dyspnea for 3 months before hospitalization. Cardiac examination detected heart tumor and she was transferred to Viet Duc Hospital. Initial diagnosis of right atrial tumor, maybe primary myocardial tumor (rare) or metastatic-invasive lesion from mediastinal malignant tumor. Thorough analysis of images on Doppler echocardiography (trans-thoracic and esophagus), multidimensional computerized tomography, and literature ... excluded metastatic out-side cardiac tumors, atrial thrombosis; And to diagnose the simple right atrial tumor - it's likely to be a very large myxoma. Open heart surgery through sternotomy, confirmed diagnosis of right atrium 7 x 5 cm tumor, stem was on atrial septum, with immediate biopsy result was myxoma. Surgical procedure: removal of tumors and stem, patch reconstruction atrial septum and tricuspid valve. Post-operation was favorable, anatomy-pathology results were myxoma, echocardiographic check was well, discharge hospital on 10 days after surgery. CA LÂM SÀNG 82 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Croti U. A., Braile D. M., Souza A. S., et al. (2008), “[Right ventricle and tricuspid valve myxoma]”, Rev Bras Cir Cardiovasc, 23(1), 142-4. 2. Arruda M. V., Braile D. M., Joaquim M. R., et al. (2008), “Resection of left ventricular myxoma after embolic stroke”, Rev Bras Cir Cardiovasc, 23(4), 578-80. 3. Oliveira R., Branco L., Galrinho A., et al. (2010), “Cardiac myxoma: a 13-year experience in echocardiographic diagnosis”, Rev Port Cardiol, 29(7-8), 1087-100. 4. Vale Mde P., Freire Sobrinho A., Sales M. V., et al. (2008), “Giant myxoma in the left atrium: case report”, Rev Bras Cir Cardiovasc, 23(2), 276-8. 5. Azevedo O., Almeida J., Nolasco T., et al. (2010), “Massive right atrial myxoma presenting as syncope and exertional dyspnea: case report”, Cardiovasc Ultrasound, 8, 23. 6. Diaz A., Di Salvo C., Lawrence D., et al. (2011), “Left atrial and right ventricular myxoma: an uncommon presentation of a rare tumour”, Interact Cardiovasc Thorac Surg, 12(4), 622-3. 7. Pinede L., Duhaut P., Loire R. (2001), “Clinical presentation of left atrial cardiac myxoma. A series of 112 consecutive cases”, Medicine (Baltimore), 80(3), 159-72. 8. Samanidis G., Perreas K., Kalogris P., et al. (2011), “Surgical treatment of primary intracardiac myxoma: 19 years of experience”, Interact Cardiovasc Thorac Surg, 13(6), 597-600. 9. Yuce M., Dagdelen S., Ergelen M., et al. (2007), “A huge obstructive myxoma located in the right heart without causing any symptom”, Int J Cardiol, 114(3), 405-6. 10. Jung Joonho, Hong You Sun, Lee Cheol Joo, et al. (2013), “Successful Surgical Treatment of a Right Atrial Myxoma Complicated by Pulmonary Embolism”, The Korean Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, 46(1), 63-67. 11. Nina Vinícius J. S., Silva Nathalia A. C., Gaspar Shirlyne F. D., et al. (2012), “Atypical size and location of a right atrial myxoma: a case report”, Journal of Medical Case Reports, 6, 26-26. Conclusion: Right atrial myxoma was rarer than malignant tumor; diagnosis was always late with solid tumor’s images. If the diagnosis is sure like simple tumor that is high surgical removing possibility, we can practice the surgery, and myxoma may be existed. Keywords: Right atrial myxoma, cardiac myxoma, Viet Duc Hospital.
File đính kèm:
- phau_thuat_dieu_tri_u_nhay_nhi_phai_lon_nhan_mot_truong_hop.pdf