Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam

Khách quan mà nói, thời gian qua, ngành

công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam đã gặt hái

được một số thành quả nhất định, đặc biệt là

một số ngành như sản xuất xe gắn máy hay

điện gia dụng đã có bước phát triển nhanh, có

tỷ lệ nội địa hoá cao. Tuy nhiên thực tế cho

thấy, ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam

vẫn được coi là một trong những ngành chậm

phát triển, quy mô ngành công nghiệp phụ trợ

trong nước còn nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất ra

các linh kiện có chi tiết giản đơn, giá trị gia

tăng thấp và có sự chênh lệch về năng lực đối

với yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu.

Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

công nghiệp của đất nước, đặc biệt là những

ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao,

có giá trị gia tăng lớn. Công nghiệp phụ trợ46

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

chậm phát triển đã ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài; trước

đây lợi thế của Việt Nam chủ yếu dựa vào mặt

bằng và giá nhân công rẻ, nhưng ngày nay

những tiêu chí trên không phải là tiêu chí quyết

định đến đầu tư của các nhà đầu tư mà các nhà

đầu tư còn nhắm đến những thị trường có thể

đáp ứng tốt nhất cho việc sản xuất ra các sản

phẩm của họ. Vì vậy, phát triển ngành công

nghiệp phụ trợ được coi là một trong những

yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư, cũng như

giúp kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền

vững hơn trong giai đoạn tới.

pdf 7 trang kimcuc 8400
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam

Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
45
Phát triển ngành công nghiệp . . .
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ Ở VIỆT NAM
 Vũ Vĕn Thực*
TÓM TẮT
Những nĕm qua, ngành công nghiệp phụ trợ là một trong những ngành quan trọng được 
Đảng và Nhà nước ta quan tâm đầu tư phát triển, đây là một trong những ngành đã và đang được 
kỳ vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, 
thời gian qua các doanh nghiệp phụ trợ của Việt Nam dường như vẫn loay hoay tìm đường cho phát 
triển. Bài viết này sẽ phân tích thực trạng công nghiệp phụ trợ ở nước ta nhằm tìm ra nguyên nhân 
của sự yếu kém mà ngành này đang gặp phải, từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát triển ngành này 
trong thời gian tới.
Từ khóa: công nghiệp phụ trợ, phát triển
INDUSTRY DEVELOPMENT IN VIETNAM ACCESSORIES
ABSTRACT 
In the few years, the supporting industry is becoming an important sector of the economy 
and is being supported by Party and State. It is promised that this part of the economy will have 
grown into one of the most important factor to boost the industry strengh as well as the fate of 
Vietnam’s economy in the next stage. In spite of the fact above, those enterprises in this sector seems 
struggling to achive their success. The objective of this article is to analyze what the dificulty of 
supporting industries in Vietnam is facing in oder to ind out the root of the problem; from there we 
will propose some answers to develop this industry in the future.
Keywords: supporting industry, development
* TS. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh, CN Tân Bình
1. Đặt vấn đề
Khách quan mà nói, thời gian qua, ngành 
công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam đã gặt hái 
được một số thành quả nhất định, đặc biệt là 
một số ngành như sản xuất xe gắn máy hay 
điện gia dụng đã có bước phát triển nhanh, có 
tỷ lệ nội địa hoá cao. Tuy nhiên thực tế cho 
thấy, ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam 
vẫn được coi là một trong những ngành chậm 
phát triển, quy mô ngành công nghiệp phụ trợ 
trong nước còn nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất ra 
các linh kiện có chi tiết giản đơn, giá trị gia 
tĕng thấp và có sự chênh lệch về nĕng lực đối 
với yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. 
Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển 
công nghiệp của đất nước, đặc biệt là những 
ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao, 
có giá trị gia tĕng lớn. Công nghiệp phụ trợ 
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chậm phát triển đã ảnh hưởng không nhỏ đến 
hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài; trước 
đây lợi thế của Việt Nam chủ yếu dựa vào mặt 
bằng và giá nhân công rẻ, nhưng ngày nay 
những tiêu chí trên không phải là tiêu chí quyết 
định đến đầu tư của các nhà đầu tư mà các nhà 
đầu tư còn nhắm đến những thị trường có thể 
đáp ứng tốt nhất cho việc sản xuất ra các sản 
phẩm của họ. Vì vậy, phát triển ngành công 
nghiệp phụ trợ được coi là một trong những 
yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư, cũng như 
giúp kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền 
vững hơn trong giai đoạn tới.
2. Thực trạng của một số ngành công 
nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
Theo tính toán của các cơ quan chức 
nĕng, ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam 
hiện còn lệ thuộc vào phần lớn nguồn nguyên 
liệu nhập khẩu, điều đó cho thấy mục tiêu đặt 
ra cho ngành công nghiệp phụ trợ chưa đạt 
kết quả như kỳ vọng. Dưới đây là thực trạng 
ngành công nghiệp phụ trợ của một số ngành 
điển hình ở Việt Nam: 
Ngành ô tô: nhằm giúp ngành ô tô phát 
triển, từng bước theo kịp với các quốc gia 
trong khu vực và trên thế giới, những nĕm 
vừa qua, các cấp, các ngành đã đưa ra nhiều 
chính sách để thu hút các doanh nghiệp trong 
và ngoài nước đầu tư vào ngành này, cho đến 
nay đã có rất nhiều hãng ô tô nổi tiếng đã và 
đang tham gia sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam 
như: Toyota, Ford, Kia v.v . Theo kế hoạch, 
các hãng sản xuất ôtô ở trong nước phải tĕng 
dần tỷ lệ nội địa hoá các linh kiện, giảm nhập 
khẩu từ nước ngoài, song cho đến nay khả 
nĕng đáp ứng của các doanh nghiệp phụ trợ 
còn nhiều hạn chế, nhất là các linh kiện, phụ 
kiện đòi hỏi tính chính xác cao. Theo tính toán 
của các doanh nghiệp sản xuất xe ô tô, một 
doanh nghiệp ôtô cần phải có tối thiểu 20 nhà 
cung cấp các loại linh kiện khác nhau phục vụ 
cho việc sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh, 
nhưng cho đến nay chưa một doanh nghiệp 
sản xuất ôtô nào tại Việt Nam có được 20 nhà 
cung cấp linh kiện. Trên thực tế, các doanh 
nghiệp lắp ráp ôtô chỉ có khoảng từ 2 đến 3 
nhà cung cấp linh kiện trong nước và như vậy 
các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở trong nước 
vẫn phụ thuộc vào phần lớn linh kiện nhập 
khẩu từ nước ngoài khiến giá thành sản phẩm 
đứng ở mức cao, khó có khả nĕng cạnh tranh 
so với hàng nhập khẩu, chưa đáp ứng được 
mong mỏi của người tiêu dùng trong nước. Số 
liệu tính toán gần đây cho thấy, hiện nay Việt 
Nam có 50 doanh nghiệp lắp ráp ôtô, song chỉ 
có khoảng trên 60 doanh nghiệp cung cấp linh 
kiện, nhưng chủ yếu là những linh kiện có giá 
trị thấp như vỏ, ruột, kiếng, khung xe v.v, số 
lượng doanh nghiệp như trên được cho là khá 
thấp so với các nước trong khu vực, chẳng 
hạn như ở Malaysia là 385 doanh nghiệp và ở 
Thái Lan là 2.500 doanh nghiệp[4]. 
Ngành xe máy: Việt Nam được coi là một 
quốc gia có số lượng xe máy lớn nhất hành 
tinh, theo số liệu thống kê của Bộ Giao thông 
vận tải, tính đến cuối nĕm 2013, số lượng xe 
máy của cả nước là trên 37 triệu xe, vượt xa 
con số mà Chính phủ đã qui hoạch đến nĕm 
2020 là 36 triệu xe [5]. Hiện nay, có rất nhiều 
doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia 
vào thị trường sản xuất, lắp ráp xe gắn máy, 
trong đó các doanh nghiệp đến từ Nhật Bản 
chiếm phần lớn thị phần, nổi bật trong số đó 
là hãng Honda Việt Nam, có được điều này 
chính là sản phẩm của hãng Honda có chất 
lượng ổn định, mẫu mã đẹp và giá cả cạnh 
tranh so với các sản phẩm cùng loại khác. Có 
thể nói, công nghiệp phụ trợ ngành xe gắn 
máy là một trong những ngành có bước phát 
triển nhanh nhất, từ chỗ phải nhập khẩu 100% 
47
Phát triển ngành công nghiệp . . .
từ nước ngoài, song cho đến nay ngành công 
nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực sản xuất và lắp 
ráp xe máy của Việt Nam đã có thể tự sản 
xuất được trên 70% các loại linh kiện, phụ 
tùng, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa 
sản phẩm, giảm giá thành và nâng cao khả 
nĕng cạnh tranh; nổi bật trong số các doanh 
nghiệp phụ trợ cho ngành xe máy, có doanh 
nghiệp Mạnh Quang là đơn vị sản xuất các 
loại nhông, đĩa, xích, và các loại phụ tùng 
khác, chiếm gần 20% thị phần cung cấp sản 
phẩm cho các công ty sản xuất và lắp ráp 
xe máy trên toàn lãnh thổ Việt Nam, là đối 
tác của nhiều hãng sản xuất lớn như Honda, 
SYM, SuFat, Detech, Lifan [7].
Ngành dệt may: là ngành thu hút lực 
lượng lao động lớn, có đóng góp lớn vào 
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tuy nhiên 
cho đến nay ngành công nghiệp phụ trợ cho 
ngành dệt may còn nhiều bất cập, yếu kém; 
đặc biệt là khả nĕng cung cấp các sản phẩm 
cơ khí còn khá nhỏ bé so với nhu cầu của 
ngành này và thực tế cho thấy, các doanh 
nghiệp dệt may trong nước vẫn phải nhập 
khẩu từ 70 đến 80% nguyên phụ liệu từ nước 
ngoài phục vụ cho sản xuất. Cho đến nay, 
chỉ có một số ít các doanh nghiệp như Công 
ty cổ phần phụ liệu may Nha Trang, Công ty 
may Việt Tiến, Công ty dệt vải công nghiệp 
và các công ty tư nhân đã tự sản xuất được 
một số phụ liệu như khóa kéo, tấm lót, cúc, 
chỉ v.v. nhưng sản lượng sản xuất ra cũng 
còn khá khiên tốn, chỉ đáp ứng được khoảng 
từ 20 đến 25% nhu cầu của ngành [6].
Ngành da giày: công nghiệp phụ trợ cho 
ngành da giày chưa thực sự phát triển, điều đó 
có thể thấy ngay ở TP. Hồ Chí Minh, một địa 
phương đứng đầu cả nước về cung ứng sản 
phẩm da giày (chiếm hơn 80% sản phẩm 
của cả nước) nhưng cũng chỉ có khoảng 10 
doanh nghiệp phát triển ngành công nghiệp 
phụ trợ phục vụ cho ngành này, trong đó chỉ 
có 2 doanh nghiệp là có sản phẩm đủ chất 
lượng đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu. Lý 
giải về vấn đề này, các doanh nghiệp cho 
rằng, giá nguyên liệu sản xuất ở trong nước 
còn khá cao, chất lượng kém nên chưa được 
thị trường các nước như Mỹ và EU chấp nhận. 
Do đó, cho đến nay tỷ lệ nội địa hóa của da 
tổng hợp đạt 40%, các loại phụ liệu trang trí 
cũng chỉ đạt gần 45%. Theo dự báo của các cơ 
quan chức nĕng, tỷ lệ nội địa hóa các nguyên 
liệu cơ bản cho ngành da giày như da thuộc, 
da tổng hợp, đế giày có thể đạt 50% vào nĕm 
2020 và tĕng lên 70% vào 2025 [8].
 Ngành điện tử, điện máy: là một trong 
những ngành có hàm lượng công nghệ cao 
được khá nhiều doanh nghiệp trong và ngoài 
nước sớm đầu tư vào sản xuất, tuy nhiên cho 
đến nay, các doanh nghiệp điện tử trong nước 
hầu như chỉ sản xuất ra những sản phẩm có 
chất lượng kém, chưa có khả nĕng cạnh tranh 
so với hàng hóa ngoại nhập, sức tiêu thụ thấp, 
ước tính giá trị gia tĕng chỉ đạt từ 5 đến 10%/
nĕm. Thực tế cho thấy, hiện nay nhiều doanh 
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 
(FDI) trong ngành điện tử, điện máy đang 
phải chịu áp lực giảm chi phí linh, phụ kiện để 
giảm giá thành sản phẩm, gia tĕng sức cạnh 
tranh với hàng nhập khẩu, để thực hiện được 
điều đó phải có những doanh nghiệp sản xuất 
hàng phụ trợ linh, phụ kiện trong nước cung 
cấp nhiều sản phẩm có giá cả phải chĕng, tuy 
nhiên trên thực tế doanh nghiệp phụ trợ có 
thể đáp ứng được yêu cầu này là rất ít. Do 
đó, hầu hết các doanh nghiệp ngành điện, điện 
tử phải nhập khẩu linh kiện, phụ kiện từ các 
nước như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc 
hay Trung Quốc. Theo kết quả khảo sát của 
Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam, các 
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (FDI) có “tên tuổi” đều phải nhập khẩu 
trên 90% linh kiện của nước ngoài, thậm chí 
có doanh nghiệp nhập khẩu 100% như Công 
ty Fujitsu Việt Nam [6]. Điều này vừa thiệt 
thòi cho ngành công nghiệp Việt Nam, khiến 
Việt Nam khó thoát khỏi tình trạng gia công, 
lắp ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của các 
doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng điện tử 
trong nước do phải nhập khẩu phần lớn những 
linh, phụ kiện quan trọng. Việc thiếu vắng các 
nhà cung cấp linh, phụ kiện cũng khiến nhiều 
nhà đầu tư trong lĩnh vực này có xu hướng 
ngại đầu tư vào Việt Nam và đây là điểm yếu 
cĕn bản trong thu hút đầu tư nước ngoài vào 
lĩnh vực điện - điện tử. 
Ngành cơ khí chế tạo: là một ngành được 
coi là xương sống cho ngành công nghiệp của 
mỗi quốc gia, nhưng ngành này lại là một 
ngành khá lạc hậu so với các nước phát triển 
trên thế giới, theo tính toán của ngành cơ khí 
chế tạo ở Việt Nam thì công nghệ của ngành 
này có trình độ công nghệ lạc hậu, có khoảng 
cách từ 2 đến 3 thế hệ so với các nước trong 
khu vực. Ngành công nghiệp phụ trợ trong 
lĩnh vực chế tạo máy Việt Nam được đánh 
giá là khá yếu kém, đang có một lỗ hổng lớn 
ở “chân móng”, sản phẩm thép dùng để chế 
tạo chưa hề có mặt tại Việt Nam, việc kết hợp 
trong công tác nội địa hóa còn thiếu sự liên 
kết giữa các doanh nghiệp cơ khí trong nước 
dẫn đến thiếu thông tin kịp thời và cụ thể cho 
việc cung cấp các sản phẩm. Số liệu thống kê 
cho thấy, khoảng 80% giá trị kim ngạch nhập 
khẩu của Việt Nam dành cho nguyên liệu đầu 
vào, thiết bị và máy móc phục vụ sản xuất 
trong nước, điều đó cho thấy ngành công 
nghiệp phụ trợ của ngành cơ khí chế tạo còn 
khá yếu kém [6]. 
3. Nguyên nhân hạn chế
 - Chưa xây dựng được chiến lược phát 
triển công nghiệp phụ trợ để các doanh nghiệp 
dựa vào đó xây dựng chiến lược phát triển cho 
riêng mình, từ đó các doanh nghiệp mới có 
thể yên tâm đầu tư.
- Chưa có chính sách ưu đãi đối với các 
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp phụ trợ, 
đặc biệt là chính sách về vốn vay, lãi suất ưu 
đãi, chính sách thuế v.v, điều đó đã ảnh hưởng 
không nhỏ đến sự phát triển của ngành công 
nghiệp phụ trợ.
- Mặc dù ngành công nghiệp phụ trợ đã 
được qui hoạch tổng thể nhưng việc qui hoạch 
lại chưa được thực hiện cho từng vùng miền, 
từng địa phương, do đó việc phát triển công 
nghiệp phụ trợ còn mang tính tự phát, chưa 
có sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp nói 
chung và ngành công nghiệp phụ trợ nói riêng.
- Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được 
yêu cầu, trình độ công nghệ kỹ thuật của các 
doanh nghiệp phụ trợ còn khiêm tốn, khó có 
khả nĕng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là 
những ngành có hàm lượng công nghệ, kỹ 
thuật cao.
- Sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong 
ngành công nghiệp phụ trợ chưa được thực 
hiện nhiều, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư 
trực tiếp nước ngoài (FDI) muốn tĕng cường 
hợp tác với các doanh nghiệp công nghiệp 
phụ trợ của Việt Nam nhưng còn thiếu thông 
tin và cơ hội. 
- Chưa thành lập cơ quan độc lập của 
nhà nước để có chính sách hỗ trợ các doanh 
nghiệp có điều kiện tiếp cận những tập đoàn, 
doanh nghiệp công nghiệp lớn để những 
doanh nghiệp sản xuất hàng phụ trợ có điều 
kiện tiếp cận, học hỏi, giao lưu và ký kết hợp 
đồng cung ứng sản phẩm.
- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công nghiệp 
phụ trợ còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu 
phát triển ngành công nghiệp phụ trợ.
49
Phát triển ngành công nghiệp . . .
- Hiện nay các trường, viện nghiên cứu 
trong nước được thành lập khá nhiều nhưng 
chất lượng nghiên cứu khoa học nói chung, 
nghiên cứu khoa học đối với những sản phẩm 
phụ trợ nói riêng còn hạn chế, chưa thực sự 
đáp ứng được yêu cầu đối với sự phát triển 
nhanh của ngành công nghiệp trên thế giới. 
4. Một số khuyến nghị nhằm phát triển 
ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
Một là, xây dựng chiến lược phát triển 
công nghiệp phụ trợ: nhà nước cần xây dựng 
chiến lược phát triền ngành công nghiệp phụ 
trợ để định hướng cho các doanh nghiệp yên 
tâm đầu tư. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ 
chức các cuộc gặp mặt giữa các doanh nghiệp 
nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp có 
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với 
các doanh nghiệp trong nước (nhà nước và tư 
nhân) có điều kiện gặp gỡ, tìm hiểu và hợp tác 
làm ĕn với nhau.
Hai là, qui hoạch ngành công nghiệp 
phụ trợ: thực hiện công tác qui hoạch ngành 
công nghiệp phụ trợ theo từng ngành, vùng 
và từng địa phương. Theo đó, phải qui hoạch 
từng vùng, miền, từng địa phương cần đầu tư 
phát triển ngành phụ trợ nào, số lượng doanh 
nghiệp là bao nhiêu và phải gắn kết giữa việc 
qui hoạch các ngành công nghiệp và công 
nghiệp phụ trợ đi kèm, không nên coi nhẹ vai 
trò của công nghiệp phụ trợ đối với sự phát 
triển của các ngành công nghiệp nói chung.
Ba là, xây dựng chính sách ưu đãi đối với 
các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ: nhằm 
khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài 
nước tham gia đầu tư ngành công nghiệp phụ 
trợ, nhà nước cần xây dựng chính sách ưu đãi 
đối với các doanh nghiệp công nghiệp phụ 
trợ, chính sách đó cần được thực hiện đồng bộ 
trên các mặt: ưu đãi về thuế, thuê đất, thủ tục 
hành chính, được miễn thuế đối với phần lợi 
nhuận để tái đầu tư và xây dựng hệ thống bảo 
lãnh tín dụngnên chú trọng ưu đãi đối với 
những ngành nghề có hàm lượng công nghệ 
cao, có giá trị gia tĕng lớn và những ngành thu 
hút nhiều lao động cho xã hội.
Bốn là, có chính sách ưu đãi về vốn cho 
các doanh nghiệp phụ trợ: để các doanh 
nghiệp phụ trợ có đủ tiềm lực tài chính đầu 
tư cho sản xuất, thiết nghĩ nhà nước nên có 
chính sách cho vay ưu đãi đối với các doanh 
nghiệp phụ trợ thông qua ngân hàng phát triển 
Việt Nam như: cho vay dài hạn với lãi suất 
ưu đãi đối với các doanh nghiệp phụ trợ; bảo 
lãnh cho các doanh nghiệp phụ trợ vay vốn 
tại các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. 
Đối với những ngành quan trọng, có tầm ảnh 
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, khoa học 
kỹ thuật và an ninh quốc gia, nhà nước có thể 
cho vay ưu đãi với lãi suất bằng 0, việc cho 
vay ưu đãi cần được thực hiện một cách công 
bằng, công khai, minh bạch từ đó sẽ thu hút 
được các doanh nghiệp thực sự có nĕng lực 
tham gia đầu tư.
Nĕm là, chính sách ưu đãi về chuyển giao 
công nghệ: để nâng cao chất lượng sản phẩm, 
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách 
hàng trong và ngoài nước, cũng như nâng cao 
khả nĕng cạnh tranh của các doanh nghiệp 
phụ trợ, thiết nghĩ nhà nước cần có chính 
sách thông thoáng về chính sách nhập khẩu 
máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ cho 
sản xuất công nghiệp phụ trợ; nhà nước cần 
có chính sách miễn, giảm các loại thuế nhập 
khẩu, đơn giản hóa thủ tục nhập khẩu v.v 
cho các doanh nghiệp nhập khẩu dây chuyền 
công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ cho 
công nghiệp phụ trợ. Bên cạnh đó, các doanh 
nghiệp sản xuất công nghiệp phụ trợ cũng cần 
phải chủ động tìm kiếm và lựa chọn đối tác 
chuyển giao công nghệ, lựa chọn dây chuyền 
50
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm 
có chất lượng, giá cả cạnh tranh so với các 
doanh nghiệp ngoài nước.
Sáu là, đào tạo cán bộ quản lý và công 
nhân lành nghề phụ vụ cho ngành công 
nghiệp phụ trợ: nguồn nhân lực là một yếu 
tố quan trọng đối với sự thành bại của các 
doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp phụ 
trợ nói riêng. Để ngành công nghiệp phụ trợ 
phát triển thì việc đào tạo cung ứng nguồn 
lao động có chất lượng cao cho các doanh 
nghiệp là một yêu cầu bức thiết đang đặt ra 
hiện nay. Do vậy, nhà nước cần định hướng 
cho các trường đại học, cao đẳng, trung học 
chuyên nghiệp và viện nghiên cứu đào tạo ra 
đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật 
có đủ nĕng lực trình độ phục vụ cho ngành 
công nghiệp phụ trợ; bên cạnh đó các doanh 
nghiệp nên chủ động đào tạo, đào tạo lại đội 
ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề của 
mình để phục vụ cho ngành công nghiệp phụ 
trợ phát triển.
Bảy là, xây dựng mối liên kết giữa các 
doanh nghiệp trong và ngoài nước: để tranh thủ 
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các 
doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp 
sản xuất công nghiệp phụ trợ trong nước cần 
đẩy mạnh liên kết với những doanh nghiệp 
nước ngoài để sản xuất linh, phụ kiện phụ trợ 
cung ứng sản phẩm cho ngành công nghiệp 
trong nước, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu.
Tám là, nhà nước thành lập cơ quan 
chuyên trách hỗ trợ các doanh nghiệp phụ 
trợ: giao cho cơ quan quản lý nhà nước, có 
thể là Bộ công thương thành lập một đơn vị 
chuyên trách hỗ trợ cho các doanh nghiệp, 
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để 
làm cầu nối cung cấp linh, phụ kiện cho các 
doanh nghiệp công nghiệp, việc làm này sẽ có 
ý nghĩa tích cực, giúp các doanh nghiệp sản 
xuất hàng phụ trợ có nhiều cơ hội hơn để mở 
rộng thị trường, ổn định sản xuất.
Chín là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học: 
cần có chính sách khuyến khích hoạt động 
nghiên cứu khoa học của một số viện, trường 
đại học trọng điểm, đẩy mạnh xã hội hóa các 
hoạt động nghiên cứu khoa học chuyên sâu 
về các ngành công nghiệp, công nghiệp phụ 
trợ để nghiên cứu ra những sản phẩm có chất 
lượng cho ngành công nghiệp phụ trợ, đồng 
thời làm cầu nối giữa nghiên cứu, thiết kế ứng 
dụng và sản xuất để giúp doanh nghiệp phụ 
trợ phát triển; khuyến khích các cơ sở đào tạo 
nghiên cứu khoa học mở rộng liên doanh, liên 
kết quốc tế để nghiên cứu ra các sản phẩm đáp 
ứng yêu cầu cho các ngành công nghiệp.
Mười là, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ 
cho công nghiệp phụ trợ: để thực hiện được 
điều này, trước hết nhà nước cần tập trung 
phát triển cơ sở hạ tầng giao thông như đẩy 
mạnh xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp các 
tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, đường cao tốc, đặc biệt 
là các tuyến quốc lộ, đường cao tốc ở các tỉnh 
thành có các khu, cụm công nghiệp lớn, kế 
đến là đầu tư nâng cấp và đầu tư mới các cảng 
ở một số tỉnh thành có lợi thế phát triển về 
cảng biển, cảng hàng không; tập trung xây 
dựng một số khu, cụm chuyên sản xuất công 
nghiệp phụ trợ có dây chuyền máy móc thiết 
bị tiên tiến, công nghệ hiện đại để phục vụ 
cho ngành công nghiệp chuyên ngành của 
một số vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước.
Mười một là, giải pháp về nguyên liệu: 
liên kết các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong 
nước để xây dựng hệ thống liên kết sản xuất 
và cung ứng nguyên liệu trong chuỗi sản xuất 
sản phẩm, từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm, 
nâng cao sức cạnh tranh so với các sản phẩm 
nhập khẩu, từng bước chiếm lĩnh thị trường, 
thị phần đối với ngành công nghiệp phụ trợ.
51
Phát triển ngành công nghiệp . . .
Tóm lại: để các ngành công nghiệp thực 
sự phát triển nhanh và bền vững, sớm đạt 
được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
vào nĕm 2020 thì phát triển công nghiệp phụ 
trợ là yêu cầu hết sức bức thiết trong giai đoạn 
hiện nay. Hy vọng rằng những giải pháp đã đề 
xuất nếu được triển khai và áp dụng đồng bộ 
thì trong một thời gian không xa, ngành công 
nghiệp phụ trợ ở Việt Nam sẽ phát triển tốt, 
đáp ứng yêu cầu cho ngành công nghiệp trong 
nước và xuất khẩu, từng bước đưa ngành công 
nghiệp nước ta sánh vai cùng với các nước 
trong khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Duy Hiếu (2009). Công nghiệp phụ trợ và sự phát triển nền kinh tế Việt Nam. Tạp chí Thương 
mại số 20.
[2]. Khánh Hòa (2007). Công nghiệp phụ trợ-Vì sao chậm phát triển. tạp chí Châu á Thái Bình Dương 
số 44(187).
[3]. Bộ công thương. Quyết định phê duyệt tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến nĕm 2020 tầm 
nhìn 2030.
[4]. 
[5]. 
[6]. 
[7].
lo/1078770/
[8].
phat_trien_nganh_cong_nghiep_phu_tro_tai_viet_nam_t10_2014
[9]. 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nganh_cong_nghiep_phu_tro_o_viet_nam.pdf