Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (NGXH) ở Việt
Nam đã xác định: Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp đan kết với nhau, hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
do các chủ tư nhân trực tiếp quản lý, hoặc chi phối, đồng thời với lao động của các chủ thể kinh
tế và sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư bản tư nhân kinh tế cá thể và
tiểu chủ. Theo nghĩa rộng kinh tế tư nhân bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh
không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không
do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không thuộc
thành phần kinh tế tập thể.
Bài viết này sẽ phác họa tính tất yếu, quan điểm và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
81 Phát triển kinh tế . . . PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM Nguyễn Minh Tuấn* TÓM TẮT Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (NGXH) ở Việt Nam đã xác định: Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở hữu hỗn hợp đan kết với nhau, hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do các chủ tư nhân trực tiếp quản lý, hoặc chi phối, đồng thời với lao động của các chủ thể kinh tế và sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư bản tư nhân kinh tế cá thể và tiểu chủ. Theo nghĩa rộng kinh tế tư nhân bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không thuộc thành phần kinh tế tập thể. Bài viết này sẽ phác họa tính tất yếu, quan điểm và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khóa: kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa THE PRIVATE ECONOMIC SECTOR DEVELOPMENT IN THE SOCIALIST-ORIENTED MARKET ECONOMY IN VIETNAM ABSTRACT The guide lines for national construction in the transitional period to socialism in Vietnam were identified: The Private Sector is one of the driving forces of the economy. The forms of ownership have been interwoven, forming various economic organizations, and have ever been growing. The private economic sectors are the economic sectors based on private ownership regime of the means of production, that are directly managed or dominated by private owners, and accompanied by labors of economic actors and their employees. Private sectors including private capitalist economic sectors and individual economic sectors. In broad sense, the private sectors include all businesses, business organizations not owned by the state (or state capital contribution but does not hold a dominant role), not by foreign investors (or foreign capital contribution but does not hold a dominant role), are not the sector of the collective economy. This article will outline the necessity, viewpoints and solutions mainly on private economic sector development in Vietnam in the process of the development of socialist-oriented market economy. Keywords: private economic sectors, socialist-oriented market economy * PGS.TS. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 82 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. Tính tất yếu khách quan của phát triển kinh tế tư nhân Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, gắn liền với nó là quyền sở hữu tư nhân và lợi ích cá nhân là phù hợp với quy luật của tự nhiên. Nhà kinh tế học A. Smith, cha đẻ của kinh tế thị trường đã khẳng định: con người từ khi sinh ra, theo bản năng đã muốn có được lợi ích cho cá nhân mình. Lợi ích cá nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các cá nhân trong xã hội, khi theo đuổi lợi ích của cá nhân mình, con người đồng thời cũng thúc đẩy lợi ích xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các dân tộc” (The Wealth of Nations) A. Smith viết: “khi mỗi cá nhân làm việc, anh tachỉ nghĩ đến cái lợi của mìnhnhưng bị dẫn dắt bởi bàn tay vô hình thúc đẩy anh ta làm việc không theo dự định ban đầukết quả ngoài dự định đó là tăng trưởng kinh tế và cải thiện mức sống cho cả quốc gia” (1). Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân luôn mang trong nó một động lực mạnh mẽ - động lực cá nhân, một thuộc tính tồn tại lâu dài với đời sống con người và xã hội loài người Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tư nhân là một tất yếu, khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, nó đã và đang tiếp tục phát huy tác dụng to lớn trong thời đại ngày nay. Với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà nhân loại đạt được như hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân của bản thân mỗi con người vẫn chưa thể mất đi, do đó nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế vừa tạo động lực để thể kích thích cá nhân con người, vừa có thể thực hiện các mục tiêu xã hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó có sở hữu tư nhân và tương ứng với nó là thành phần kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng của sự phát triển. Trong lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người, nếu so sánh, đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì phải thừa nhận rằng, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu phù hợp hơn cả. Trong hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mục đích của sản xuất hàng hoá, như C. Mác đã khẳng định: không chỉ là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà thông qua sản xuất giá trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hoá và từ đó đạt được giá trị thặng dư, lợi nhuận. Ngày nay, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân đã phát triển lên một trình độ mới về chất, quy mô sở hữu của nhiều doanh nghiệp tư nhân ngày càng đồ sộ và nhiều doanh nghiệp tạo ra một lượng của cải và tài sản có giá trị lớn hơn cả tổng thu nhập của một số quốc gia. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, sở hữu tư nhân cũng có những hình thức mới như: sở hữu thương hiệu, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý, không gian ảo, tài sản ảo trên mạng Internet Kinh tế tư nhân cùng tồn tại và phát triển với kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác, nhưng tại sao kinh tế tư nhân lại năng động hơn, có sức sống hơn, hoạt động hiệu quả hơn và phát triển mạnh mẽ hơn? Câu trả lời là kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự phát triển của kinh tế thị trường, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải rất năng động, linh hoạt, nhạy bén và tự chủ cao trong hoạt động kinh doanh, điều này rất phù hợp với kinh tế tư nhân. Ngoài ra, kinh tế tư nhân còn có khả năng cạnh tranh cao, do nó luôn luôn phải đối mặt với những khắc nghiệt của thương trường để tồn tại và phát triển Kinh tế tư nhân còn tạo ra những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thông qua 83 Phát triển kinh tế . . . hoạt động kinh doanh tư nhân mà mở rộng việc làm cho mỗi cá nhân, phát huy khả năng và trí tuệ của bản thân, thỏa mãn nhu cầu ngày càng caocủa cá nhân và gia đình, tìm kiếm hạnh phúc và để tự khẳng định mình. Kinh tế tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy phát triển kinh tế tư nhân phải dựa trên nền tảng phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng lực cá nhân, phát triển con người. Có thể nói, không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ không có sự phát triển kinh tế tư nhân. Một trong những yếu tố thúc đẩy cạnh tranh của cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự sáng tạo, mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự phát huy đa dạng năng lực cá nhân. Như vậy, có thể nói lý thuyết phát triển kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý thuyết phát triển con người. Ngày nay, quốc tế hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế làm cho các rào cản đầu tư, thương mại, hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia dần dần được dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển và lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân tồn tại dưới nhiều dạng như: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân một chủ, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và những tập đoàn kinh doanh quốc tế. Sự lớn mạnh của các công ty đa quốc gia gắn liền với sở hữu tư nhân cho thấy kinh tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi cả về lượng và chất. 2. Quan điểm của đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khi đánh giá về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở Anh, C. Mác, một mặt phê phán những mặt trái của nó, đồng thời cũng khẳng định đóng góp to lớn của CNTB trong quá trình sản xuất của cải vật chất, theo C.Mác, CNTB ra đời chưa đầy 100 năm nhưng đã tạo ra khối lượng của cải bằng tất cả các xã hội trước cộng lại. Lênin trong chính sách kinh tế mới (NEP) đã nói, cần phải sử dụng CNTB nhà nước với nhiều hình thức đa dạng: cho các nhà tư bản thuê đất, phát triển hình thức hợp tác xã tư bản, sử dụng các nhà tư bản trong lĩnh vực thương mại, học hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý của các nhà tư bản để xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Kết quả của chính sách kinh tế mới đã giải quyết được tình trạng thiếu lương thực, đưa nước Nga thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, khôi phục và phát triển kinh tế, góp phần bảo vệ, củng cố nhà nước vô sản, sau Cách mạng tháng Mười Nga, tuy nhiên chính sách kinh tế mới chỉ được thực hiện đến năm 1928, vì vậy đã không phát huy được tiềm năng của kinh tế tư nhân ở nước Nga lúc bấy giờ. Ở Việt Nam, sau giải phóng năm 1975 do áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cộng với tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí, chúng ta đã tìm cách hạn chế và xóa bỏ kinh tế tư nhân, đưa kinh tế tư bản tư nhân vào đối tượng phải “cải tạo”, “xóa bỏ”, từ đó đã triệt tiêu sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân. Thực tiễn đổi mới kinh tế từ năm 1986 cho thấy, việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sở khoa học và phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tác tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện lịch sử, cụ thể của Việt Nam. Chủ trương đó của Đảng và Nhà nước ta đã được đại đa số nhân dân 84 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đồng tình, ủng hộ. Đường lối đổi mới của Đảng ta bắt đầu từ Đại hội VI và được hoàn thiện đần qua các kỳ Đại hội tiếp theo. Tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”(2) Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(3) . Trong quá trình đổi mới đó, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Kinh tế tư nhân được coi là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Việc đổi mới nhận thức về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân như trên thể hiện sự đánh giá một cách khách quan và khoa học hơn về khu vực kinh tế này của Đảng và Nhà nước. Thực tế cho thấy, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò của nó, là thành phần kinh tế năng động, hoạt động có hiệu quả, đang ngày càng lớn mạnh trở thành một đối chứng để các thành phần kinh tế khác phấn đấu vươn lên, tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với trình độ phát triển như hiện nay của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của kinh tế tư nhân vẫn là nhu cầu khách quan. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng quy định trình độ phát triển của con người. Khi thừa nhận kinh tế thị trường là cần thiết đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng có nghĩa là phải thừa nhận sự tồn tại tất yếu của kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, đã đóng góp không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước như huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn, góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới, vừa làm tăng của cải vật chất cho xã hội, vừa làm giảm áp lực giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội... Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì những lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.Bởi vậy, có thể khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm sắp tới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã đẩy lùi dần 85 Phát triển kinh tế . . . tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, đặc biệt từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC, WTO và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng đã tạo cơ hội cho các các doanh nghiệp tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Khi những rào cản thương mại dần được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng lợi thế của sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. 3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay Để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân trong thời gian tới, theo chúng tôi cần phải tập trung giải quyết những vấn đề sau: Một là, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về pháp luật, cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính để tạo điều kiện hơn nữa cho kinh tế tư nhân phát triển. Cụ thể, phải cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Khắc phục những nội dung chưa rõ ràng, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật; điều chỉnh cơ chế phân cấp và phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong quản lý nhà nước về đầu tư; quan tâm đến bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông thiểu số; sớm có hướng dẫn đầy đủ việc xử lý các trường hợp doanh nghiệp vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định của Luật; sửa đổi, bổ sung một số quy định để giải quyết những vấn đề bất cập trong thực hiện chính sách về đất đai; sửa đổi các quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý thuế theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính; sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ, quy mô, phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa; chỉ thị của Ban Bí thư nêu rõ yêu cầu có cơ chế để doanh nghiệp của tư nhân được vay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục rà soát bãi bỏ các khoản phí, lệ phí không hợp lý; ưu tiên nhiều hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh ở những khu vực khó khăn, vùng núi, biên giới và hải đảo; quyền lợi của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân phải được bảo đảm; Nghiên cứu để sớm có chương trình quốc gia về hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chương trình quốc gia về đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp tư nhân. Hai là, hình thành những doanh nghiệp tư nhân mạnh đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Để nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp tư nhân, nhà nước cần tiếp tục hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ doanh nghiệp và người lao động, phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, tay nghề; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh 86 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nghiệp ứng dụng công nghệ mới; đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; thiết lập thị trường công nghệ; tiếp tục triển khai tích cực và đồng bộ các chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh hỗ trợ thông tin; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp. Ba là, cần bảo đảm sự bình đẳng thật sự giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là với kinh tế nhà nước trong cùng ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh; khuyến khích và mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh lành mạnh cùng có lợi. Bốn là, khuyến khích, tạo động lực cho kinh tế tư nhân phát triển thành lực lượng mạnh, tạo động lực để khu vực kinh tế này phát triển bền vững, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện nước ta có lực lượng lao động lớn nhưng trình độ, năng suất, hiệu quả lao động còn thấp, nếu các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ, sẽ chuyển dịch lao động vào các doanh nghiệp tư nhân, điều này vừa phát huy được tiềm năng lao động của đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa giải quyết được việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt các mục tiêu xã hội. Năm là, thời gian tới các doanh nghiệp tư nhân phải phát triển cả về số lượng và chất lượng phù hợp với xu hướng tái cơ cấu nền kinh tế. Các doanh nghiệp tư nhân cần tập trung phát triển theo chiều sâu, kết hợp với phát triển bền vững. Tuy nhiên, để doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ về chiều sâu, cơ chế chính sách cần tiếp tục đổi mới, đặc biệt là chính sách về vốn không nên cào bằng. Giai đoạn kinh tế suy giảm, chúng ta áp dụng gói hỗ trợ lãi suất mang tính cào bằng, nhưng những gói hỗ trợ lãi suất tiếp theo (nếu có) nên tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm như hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, cho đổi mới công nghệ và cho các ngành nghề sản xuất kinh doanh có hàm lượng kỹ thuật cao. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận nguồn tài nguyên, thông qua các dự án chế biến khoáng sản để mang lại giá trị gia tăng cao hơn cho xuất khẩu. Mặt khác, nên hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ bằng ưu đãi thuế để giảm nhập khẩu. Sáu là, tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối với kinh tế tư nhân, để có hướng phát triển lâu dài, ổn định với các chính sách đồng bộ. Nhà nước cần xem xét, giải quyết hàng loạt vấn đề với tinh thần không phân biệt đối xử, như đất đai, vốn, thủ tục hành chính, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực... Sớm cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư toàn xã hội theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư nguồn vốn của tư nhân, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân nắm giữ phần vốn hợp lý tại các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hóa. Bảy là, Việt Nam đã mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế của khu vực và thế giới, cùng với những cơ hội mở ra khi rào cản thuế quan được dỡ bỏ, thì các doanh nghiệp phải đối phó với những rào cản phi thuế quan, dựa trên các tiêu chí như: chất lượng quản trị, yếu tố công nghệ, kỹ thuật, các tiêu chí thân thiện với môi trường hay trách nhiệm với cộng đồng... nếu các doanh nghiệp tư nhân của chúng ta không nhanh chóng đáp ứng các tiêu chí này thì rất có thể hàng hoá, dịch vụ của họ sẽ không thể cạnh tranh được ở cả thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân phải 87 Phát triển kinh tế . . . đặc biệt chú ý và đảm bảo được các tiêu chí này, trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Tóm lại: Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, một mặt chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng những đóng góp tích cực của thành phần này, mặt khác cũng phải thấy được những hạn chế nhất định trong quá trình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam như: phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ nếu theo tiêu chuẩn quốc tế; hoạt động phân tán, manh mún, mang nặng tính gia đình, ít liên kết với nhau hoặc với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; đa số doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trước mắt, thiếu chiến lược phát triển lâu dài, ổn định; quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu, không ít doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể còn vi phạm các quy định pháp luật; qui mô của nhiều doanh nghiệp tư nhân tăng chậm do gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn, đất đai; tính chất tự phát, tình trạng cạnh tranh vô chính phủ, không chấp hành nghiêm luật pháp còn diễn ra thường xuyên... Vì vậy, cần phải đánh giá một cách khách quan, công bằng sự phát triển của kinh tế tư nhân, chống khuynh hướng đề cao quá mức dẫn đến tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C. Mác, Tư bản, tập thứ nhất - phần1; Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1987. [2]. V.I.Lênin, toàn tập; tập 29. Nxb. Tiến Bộ Mát-xcơ-va, 1981. [3]. Adam Smith, Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nations), Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1997. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83. [7]. Ban Bí thư Trung ương Đảng. Văn kiện Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. [8]. Phạm Chi Lan. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế [9]. Đặng Minh Tiến. Phát triển kinh tế tư nhân - xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Trường Đại học Thương mại Hà Nội. [10]. Số liệu của Tổng cục Thống kê, Cục thống kê TP. HC
File đính kèm:
- phat_trien_kinh_te_tu_nhan_trong_nen_kinh_te_thi_truong_dinh.pdf