Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn

Công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Đồng thời góp

phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong

các ngành công nghiệp trong nước, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có tính cạnh tranh, giá trị gia tăng

cao. Bên cạnh đó, công nghiệp hỗ trợ còn góp phần phát triển thị trường nội địa, đảm bảo tăng

trưởng kinh tế và phát triển kinh tế bền vững, đưa nền kinh tế sản xuất hàng hóa hội nhập với chuỗi

giá trị toàn cầu.Vì vậy, để phát triển bền vững, hội nhập quốc tế trong thời gian tới và góp phần thực

hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại”, Việt Nam nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ.

pdf 7 trang kimcuc 9200
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn

Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM - NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
 Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc∗∗
TÓM TẮT
Công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Đồng thời góp 
phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong 
các ngành công nghiệp trong nước, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có tính cạnh tranh, giá trị gia tĕng 
cao. Bên cạnh đó, công nghiệp hỗ trợ còn góp phần phát triển thị trường nội địa, đảm bảo tĕng 
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế bền vững, đưa nền kinh tế sản xuất hàng hóa hội nhập với chuỗi 
giá trị toàn cầu.Vì vậy, để phát triển bền vững, hội nhập quốc tế trong thời gian tới và góp phần thực 
hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để đến nĕm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại”, Việt Nam nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Từ khóa: phát triển, công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam, nhận thức, thực tiễn.
INDUSTRIAL DEVELOPMENT ASSISTANCE IN VIETNAM – 
AWARENESS AND PRACTICE
ABSTRACT
Industry support role is particularly important in economic development. At the same time 
contribute to attracting foreign direct investment (FDI), promote the development of enterprises in 
the domestic industry, create products export competitiveness, high added value. Besides, supporting 
industries also contribute to the development of domestic markets, ensuring economic growth and 
sustainable economic development, bringing the economy to produce goods of integration with 
the global value chain. So, for sustainable development, international integration in the future 
and contribute to the goal “to create a platform by 2020 our country to become an industrialized 
country towards a modern”, Vietnam necessarily promote the development of supporting industries.
Key words: development, industrial support, Vietnam, cognitive, practical.
 Sơ đồ điều khiể các nguồn phân tán ứng dụng bộ điều khiển PSS 
* Giảng viên Trường ĐH Kinh tế Tp.HCM 
** Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan
39
Phát triển công nghiệp . . .
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM - NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
 Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc∗∗
TÓM TẮT
Công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Đồng thời góp 
phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong 
các ngành công nghiệp trong nước, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có tính cạnh tranh, giá trị gia tĕng 
cao. Bên cạnh đó, công nghiệp hỗ trợ còn góp phần phát triển thị trường nội địa, đảm bảo tĕng 
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế bền vững, đưa nền kinh tế sản xuất hàng hóa hội nhập với chuỗi 
giá trị toàn cầu.Vì vậy, để phát triển bền vững, hội nhập quốc tế trong thời gian tới và góp phần thực 
hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để đến nĕm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại”, Việt Nam nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Từ khóa: phát triển, công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam, nhận thức, thực tiễn.
INDUSTRIAL DEVELOPMENT ASSISTANCE IN VIETNAM – 
Industry support role is particularly important in economic development. At the same time 
contribute to attracting foreign direct investment (FDI), promote the development of enterprises in 
the domestic industry, create products export competitiveness, high added value. Besides, supporting 
industries also contribute to the development of domestic markets, ensuring economic growth and 
sustainable economic development, bringing the economy to produce goods of integration with 
the global value chain. So, for sustainable development, international integration in the future 
and contribute to the goal “to create a platform by 2020 our country to become an industrialized 
country towards a modern”, Vietnam necessarily promote the development of supporting industries.
Key words: development, industrial support, Vietnam, cognitive, practical.
 Sơ đồ điều khiể các nguồn phân tán ứng dụng bộ điều khiển PSS 
1. Chủ trương khuyến khích phát triển 
công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam 
Công nghiệp hỗ trợ (supporting industries 
– SI) là các ngành công nghiệp sản xuất 
nguyên vật liệu, phụ kiện, phụ tùng, linh kiện, 
bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công 
nghiệp sản xuất, chế biến, lắp ráp các sản 
phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản 
phẩm tiêu dùng. Sản phẩm công nghiệp hỗ 
trợ gồm có: vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ 
kiện, bán thành phẩm sản xuất tại Việt Nam 
để cung cấp cho khâu lắp ráp, sản xuất sản 
phẩm hoàn chỉnh. Dự án sản xuất sản phẩm 
công nghiệp hỗ trợ: là dự án đầu tư tại Việt 
Nam (kể cả đầu tư mới và đầu tư bổ sung) để 
sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
Với bối cảnh hiện nay, trong quá trình 
phát triển của một nền kinh tế, công nghiệp 
hỗ trợ chính là khu vực chuyển giao, tiếp nhận 
mau lẹ công nghệ mới, đồng thời là khu vực 
mà lao động thực sự được khuyến khích sáng 
tạo để không ngừng cạnh tranh, “chen chân” 
được vào chuỗi cung ứng cho các nhà lắp ráp.
Mặt khác, công nghiệp hỗ trợ là khu vực 
sử dụng nhiều công nghệ, ít hao tốn tài nguyên 
và dễ sử dụng các giải pháp sản xuất thân thiện 
với môi trường, rất phù hợp với chiến lược 
“tĕng trưởng xanh và bền vững”. Vì vậy, nếu 
có định hướng đúng, công nghiệp hỗ trợ được 
phát triển trong các khu công nghiệp chuyên 
môn hóa, tổ chức liên kết trong các cụm, 
nhóm sản phẩm thì có thể góp phần rất lớn để 
giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ngày 
càng trầm trọng, góp phần giải quyết vần đề 
tài nguyên, nhân công giá rẻ đang dần không 
còn là thế mạnh của Việt Nam.
Trước khủng hoảng kinh tế - tài chính 
toàn cầu (từ đầu nĕm 2008), chính xuất khẩu 
liên tục qua các nĕm với tốc độ tĕng trưởng 
GDP trung bình 7-8% mỗi nĕm đã góp phần 
đưa nước ta vươn lên thành một nước đang 
phát triển với thu nhập trung bình thấp. Tuy 
nhiên, những sản phẩm xuất khẩu của Việt 
Nam lại phụ thuộc phần lớn vào các nguyên 
liệu nhập khẩu từ bên ngoài đã dẫn đến tình 
trạng Việt Nam nhập siêu trong thời gian qua. 
Cũng chính nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ 
bên ngoài đã làm khó cho Việt Nam khi kinh 
tế thế giới lâm vào khủng hoảng, khi mà xuất 
khẩu ngày bị thu hẹp, nhưng giá nguyên liệu 
nhập khẩu lại gia tĕng đã làm cho các doanh 
nghiệp Việt Nam gặp muôn vàn khó khĕn, 
đỉnh điểm là phá sản và thất nghiệp, cụ thể là 
nĕm 2012 có khoảng 55.000 doanh nghiệp bị 
phá sản, nĕm 2013 số doanh nghiệp bị phá sản 
cao hơn nhiều, khoảng 65.000 doanh nghiệp.
Trước thực trạng nêu trên, đòi hỏi Việt Nam 
phải có những biện pháp nhằm tĕng cường sự 
chủ động của nền kinh tế và tái cấu trúc mô hình 
phát triển, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ. Phát 
triển công nghiệp hỗ trợ sẽ giúp các ngành sản 
xuất trong nước chủ động được nguồn nguyên 
vật liệu đầu vào, chủ động lựa chọn nhà cung 
cấp, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành từ 
đó tĕng nĕng lực cạnh tranh. Đây chính là vấn 
đề cốt lõi nhằm phát triển một nền công nghiệp 
tự chủ và hiện đại, góp phần thực hiện mục tiêu 
“tạo nền tảng để đến nĕm 2020 đưa nước ta cơ 
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng 
hiện đại” hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ 
XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp 
hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1. 
Mặt khác, phát triển công nghiệp hỗ trợ cũng 
làm gia tĕng nĕng lực cạnh tranh của ngành và 
quốc gia, góp phần bù đắp cho lợi thế nhân công 
rẻ của Việt Nam đang ngày một suy giảm.
Nhận thấy vai trò quan trọng và to lớn 
của công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, Đại hội 
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN, 2011, tr.71
40
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
XI của Đảng (2011), trong Chiến lược phát 
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, xác định: 
“Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ”2 và chủ 
trương: “tham gia ngày càng nhiều và có hiệu 
quả vào những khâu, công đoạn có hàm lượng 
khoa học, giá trị gia tĕng cao trong mạng sản 
xuất và phân phối toàn cầu”3, “ưu tiên phát 
triển và hoàn thành những công trình then 
chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, 
thiết bị thay thế nhập khẩu cho công nghiệp, 
nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công 
nghệ cao sản xuất linh kiện điện tử, máy tính, 
công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng, 
hóa chất, luyện thép, xi mĕng, phân, đạm , 
công nghiệp hỗ trợ”4. 
Ngành công nghiệp hỗ trợ đang được các 
nhà đầu tư trong và ngoài nước rất quan tâm, 
đặc biệt là các nhà đầu tư có nhiều cơ sở sản 
xuất, lắp ráp các sản phẩm ôtô, xe máy, hàng 
may mặc, điện tử, da giày Tuy nhiên, tỉ lệ 
cung ứng hàng hóa (giá trị nội địa hóa) trong 
chế tạo các sản phẩm trên ở Việt Nam còn rất 
thấp, phần lớn các linh kiện và nguyên vật liệu 
phục vụ cho sản xuất, lắp ráp các sản phẩm 
này đều phải ngoại nhập nên đẩy chi phí sản 
xuất tĕng cao, không thuận lợi cho các doanh 
nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam kí 
kết Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) thì sẽ mất lợi thế cạnh tranh 
của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, các ngành công nghiệp hỗ trợ 
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó 
khĕn, bất cập trong quá trình phát triển như 
thiếu chính sách thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ 
sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sản xuất trong 
nước. Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ là điều 
kiện cần thiết cũng như bước đi quan trọng 
trong định hướng công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước trong thời gian tới. Đặc biệt, khi 
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và Việt 
Nam tham gia kí kết Hiệp định đối tác kinh tế 
xuyên Thái Bình Dương (TPP) thì Việt Nam 
cần nâng cao doanh nghiệp trong nước để tồn 
tại, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ để giảm chi 
phí, hạ giá thành, tĕng nĕng lực cạnh tranh 
hiệu quả với hàng hóa nhập khẩu và các đối 
thủ cạnh tranh toàn cầu.
Để thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ 
trợ, ngày 24-2-2011, Thủ tướng Chính phủ 
đã ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg 
về chính sách phát triển một số ngành công 
nghiệp hỗ trợ, trong đó xác định: 
1. Về khuyến khích phát triển công nghiệp 
hỗ trợ: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện 
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước 
đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ. Cụ thể:
- Khuyến khích đối với phát triển thị 
trường: dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp 
hỗ trợ được quảng cáo, giới thiệu miễn phí 
sản phẩm trên trang thông tin điện tử của Bộ 
Công Thương và các Sở Công Thương. Dự án 
sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được 
ưu tiên xem xét hỗ trợ nguồn kinh phí của 
các chương trình xúc tiến thương mại, xúc 
tiến đầu tư theo quy chế xây dựng, quản lý và 
thực hiện các chương trình đó. Chủ đầu tư dự 
án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho 
phát triển công nghiệp công nghệ cao được 
Nhà nước tạo điều kiện tham gia hình thành 
mạng lưới cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo 
quy định của pháp luật về công nghệ cao.
- Khuyến khích về hạ tầng cơ sở: các dự 
án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được 
ưu tiên hỗ trợ và dành quỹ đất thích hợp cho 
dự án về diện tích, vị trí, tiền thuê đất. Các dự 
án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sử 
 1 Sđd, tr.112 
3 Sđd, tr.192 
4 Sđd, tr.193
41
Phát triển công nghiệp . . .
dụng đất trong khu cụm công nghiệp được sử 
dụng các công trình kết cấu hạ tầng, các dịch 
vụ công cộng và các dịch vụ khác trong khu, 
cụm công nghiệp; được hỗ trợ và tạo điều 
kiện trong việc tuyển dụng, đào tạo lao động; 
được hưởng các chính sách hỗ trợ khác theo 
quy định tại Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg 
ngày 19 tháng 8 nĕm 2009 của Thủ tướng 
Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản 
lý cụm công nghiệp. Chủ đầu tư dự án sản 
xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là doanh 
nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách 
khuyến khích về mặt bằng sản xuất theo quy 
định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 
tháng 6 nĕm 2009 của Chính phủ về trợ giúp 
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các dự 
án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho 
phát triển công nghiệp công nghệ cao được áp 
dụng chính sách khuyến khích về đất đai theo 
quy định của pháp luật về công nghệ cao.
- Khuyến khích về khoa học và công nghệ, 
đào tạo nguồn nhân lực: dự án sản xuất sản 
phẩm công nghiệp hỗ trợ được xem xét, hỗ 
trợ một phần kinh phí từ nguồn vốn Quỹ phát 
triển khoa học và công nghệ quốc gia và các 
quỹ khác liên quan đến hoạt động khoa học 
và công nghệ đối với các chi phí chuyển giao 
công nghệ, mua bản quyền thiết kế, mua phần 
mềm, thuê chuyên gia nước ngoài. Chủ đầu 
tư dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ 
trợ là doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng 
các chính sách khuyến khích nâng cao nĕng 
lực công nghệ, trình độ kỹ thuật và chính 
sách trợ giúp phát triển nguồn nhân lực theo 
quy định của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP 
ngày 30 tháng 6 nĕm 2009 của Chính phủ 
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và 
vừa. Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp 
hỗ trợ được xem xét hỗ trợ một phần kinh phí 
đào tạo nhân lực từ nguồn vốn ngân sách nhà 
nước theo quy định hiện hành. Dự án sản 
xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát 
triển công nghiệp công nghệ cao được áp 
dụng chính sách khuyến khích về phát triển 
nguồn nhân lực theo quy định của pháp luật 
về công nghệ cao.
- Cung cấp thông tin: các Bộ, ngành, 
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc 
Trung ương thông qua Cổng thông tin điện 
tử thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật 
về các vĕn bản pháp luật liên quan đến việc 
phát triển công nghiệp hỗ trợ và các chương 
trình hỗ trợ kỹ thuật của Nhà nước đối với 
các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ 
trợ. Chủ đầu tư các dự án sản xuất sản phẩm 
công nghiệp hỗ trợ là doanh nghiệp nhỏ và 
vừa được hưởng các chính sách về cung cấp 
thông tin, tư vấn theo quy định tại Nghị định 
số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 nĕm 
2009 của Chính phủ vừa trợ giúp phát triển 
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Tài chính: dự án sản xuất sản phẩm 
công nghiệp hỗ trợ được hưởng ưu đãi về 
thuế xuất nhập khẩu theo quy định của pháp 
luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập 
khẩu. Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp 
hỗ trợ được xem xét vay một phần vốn tín 
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo 
quy định hiện hành. Chủ đầu tư các dự án 
sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ là 
doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các 
chính sách trợ giúp tài chính theo quy định 
tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 
tháng 6 nĕm 2009 của Chính phủ về trợ giúp 
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dự án 
sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho 
phát triển công nghiệp công nghệ cao được 
xem xét, cho hưởng các chính sách về thuế 
theo theo quy định của pháp luật về công 
nghệ cao.
42
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
2. Về ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ: 
các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ 
trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ 
trợ ưu tiên phát triển được xem xét áp dụng cơ 
chế ưu đãi thích hợp. Chủ đầu tư xây dựng dự 
án theo quy định hiện hành, trong đó đề xuất 
cụ thể các cơ chế ưu đãi thích hợp, trình Hội 
đồng thẩm định dự án phát triển công nghiệp 
hỗ trợ xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ 
quyết định5.
2. Thực trạng công nghiệp hỗ trợ ở Việt 
Nam thời gian qua
Nhìn tổng quát chúng ta có thể dễ dàng 
nhận thấy chủ trương phát triển công nghiệp 
hỗ trợ của nước ta còn rất hạn chế và công 
nghiệp hỗ trợ của Việt Nam hiện nay cũng 
còn rất nhỏ bé, manh mún, kém phát triển. Cụ 
thể là các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô (mới 
nội địa hóa khoảng 5% - 10%); cơ khí (mới 
tham gia sản xuất được một phần sản phẩm 
phi tiêu chuẩn, chiếm khoảng 20% trong tổng 
giá trị thiết bị); điện tử (lĩnh vực sản xuất 
linh phụ kiện điện tử chỉ chiếm 21,5% tổng 
vốn đầu tư của ngành)6; đặc biệt là ngành 
may mặc (thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam, 
hiện chiếm vị trí thứ 5 trong số các nước xuất 
khẩu lớn trên thế giới với cơ hội thấy rõ khi 
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm 
phán các Hiệp định Thương mại tự do song 
phương và đa phương, Hiệp định Thương mại 
xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tuy nhiên, để 
được hưởng các ưu đãi như giảm, miễn thuế 
từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và 
sắp tới là Hiệp định Thương mại xuyên Thái 
Bình Dương (TPP), thì nguyên tắc xuất xứ về 
sợi và vải luôn được các đối tác đặt ra khắt 
khe, nhất là tiêu chuẩn vải, sợi phải có xuất 
xứ từ trong nước hoặc nhập khẩu từ các quốc 
gia thành viên TPP) có tới 80% - 85% tỷ lệ 
nguyên, phụ liệu phải nhập khẩu. Trong số 
các ngành công nghiệp hỗ trợ hiện nay ở Việt 
Nam, có lẽ công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho 
ngành xe máy được coi là thành công nhất với 
việc hình thành một hệ thống các nhà cung 
ứng ngay trong nội địa. Trong quá trình hợp 
tác, đã có sự chuyển giao công nghệ từ các 
công ty lắp ráp nước ngoài đến các doanh 
nghiệp Việt Nam cung ứng linh kiện. Tỷ lệ 
nội địa hoá các loại xe gắn máy do trong nước 
sản xuất đã đạt khoảng 85 - 90%. Hầu hết các 
linh kiện của xe số, kể cả linh kiện động cơ, 
đều đã được sản xuất trong nước. Các sản 
phẩm chính trong xe máy hầu hết đã được sản 
xuất với số lượng lớn, đạt tiêu chuẩn của các 
nhà lắp ráp và tạo thành hệ thống cung ứng 
khá hiệu quả. Tuy nhiên, những linh kiện, phụ 
kiện này phần lớn do doanh nghiệp FDI sản 
xuất, cò tỉ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia 
sản xuất còn hạn chế.
Một thực tế khác, đó là các doanh nghiệp 
Nhật Bản đang có động thái rõ rệt dịch 
chuyển đầu tư về Việt Nam (trong bối cảnh 
tình hình không ổn định về chính trị ở Thái 
Lan và chanh chấp ở Trung Quốc), tiêu biểu 
là khu công nghiệp Thĕng Long, một cứ điểm 
đầu tư Nhật Bản ở Hà Nội. Để đi vào hoạt 
động thì chi phí nhiên liệu chiếm 60% chi phí 
sản xuất nên để giảm giá thành thì các doanh 
nghiệp sẽ phải giảm chi phí nhiên liệu này. 
Thế nhưng, việc mua được nguyên vật liệu 
từ Việt Nam lại là vô cùng khó khĕn. Tỷ lệ 
nội địa hóa ở Việt Nam vẫn còn quá thấp, chỉ 
chiếm 32,2%, trong khi tỷ lệ này tại Trung 
Quốc là 64%, Thái Lan 53%, Malaysia 42%, 
Indonesia 41%7. Vì vậy ở Việt Nam, để phục 
vụ cho sản xuất của mình, “vệ tinh” phụ trợ 
 5  
6 Cần đẩy mạnh thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ (dangcongsan.vn) 
7 Phạm Huyền: Ngán Trung Quốc, sợ Thái Lan: Vốn Nhật về Việt Nam. (vef.vn)
43
Phát triển công nghiệp . . .
cho các doanh nghiệp Nhật Bản phần lớn là 
từ các doanh nghiệp nước ngoài khác, hoặc 
chính doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam, 
chiếm hơn 60%. Số nguyên vật liệu vật tư mà 
doanh nghiệp mua từ Việt Nam chỉ chiếm có 
13,2% nhu cầu của họ.
Nguyên nhân của thực trạng phát triển 
công nghiệp hỗ trợ nêu trên là do đa số doanh 
nghiệp vẫn sử dụng công nghệ, máy móc 
cũ, lạc hậu, vì vậy, chưa đáp ứng được các 
yêu cầu khắt khe của nhà lắp ráp, đặc biệt là 
những linh kiện, phụ liêu của công nghệ cao.
Do sản xuất trong nước còn khá hạn chế, 
các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp 
hỗ trợ chủ yếu là các doanh nghiệp FDI. Nĕm 
2012, có 1.631 doanh nghiệp FDI đầu tư vào 
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ với số vốn đĕng 
ký lên tới trên 22,8 tỷ USD, chiếm 13,2% số 
dự án và 20,8% tổng vốn đầu tư nước ngoài 
vào ngành công nghiệp. Lĩnh vực công nghiệp 
hỗ trợ thu hút được nhiều vốn FDI là điện - 
điện tử với số vốn thu hút trên 10 tỷ USD, cơ 
khí: 5,2 tỷ USD, dệt may: 5,1 tỷ USD8.
Ngoài ra, nhân lực phục vụ công nghiệp 
hỗ trợ chưa đáp ứng được cả về số lượng và 
chất lượng. 
Để đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ 
trợ ở Việt Nam trong thời gian tới theo chúng 
tôi, Việt Nam cần phải đẩy mạnh thực hiện:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về công 
nghiệp hỗ trợ. Để nâng cao nhận thức về 
công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần xây dựng 
các chương trình quảng bá quy mô và chuyên 
nghiệp về sản xuất công nghiệp hỗ trợ. Bên 
cạnh hệ thống mô hình đề xuất, kêu gọi hệ 
thống doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các 
doanh nghiệp nhà nước với vai trò quan trọng 
trong nền kinh tế quốc dân tham gia sản xuất 
công nghiệp hỗ trợ, dần dần phát triển thành 
các tập đoàn lớn chuyên cung ứng và xuất 
khẩu chi tiết, linh kiện không chỉ cho trong 
nước mà còn cho thị trường quốc tế.
Thứ hai, khuyến khích tư nhân đầu tư vào 
lĩnh vực sản xuất các ngành công nghiệp hỗ 
trợ, với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn và những 
ưu đãi đặc biệt về thuế. Mặc dù mặc cho đến 
nay Việt Nam đã có các vĕn bản, quyết định 
chỉ đạo điều hành quan trọng như: Quyết định 
số 34/2007/QĐ-BCN nĕm 2007 của Bộ Công 
Thương, phê duyệt Quy hoạch phát triển công 
nghiệp hỗ trợ đến nĕm 2010, tầm nhìn đến 
nĕm 2020; Quyết định về chính sách phát 
triển một số ngành CNHT số 12/2011/QĐ-
TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 
22/2/2011; Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 
17/10/2012 về việc phê duyệt Đề án “Trợ giúp 
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh 
vực công nghiệp hỗ trợ”. Tuy nhiên, những 
vĕn bản này vẫn chưa thật cụ thể để khuyến 
khích tư nhân đầu từ vào công nghiệp hỗ trợ 
nên khó thu hút vốn của tư nhân đầu tư vào 
lĩnh vực quan trọng này.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư 
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong công nghiệp 
hỗ trợ, kêu gọi các tập đoàn sản xuất các sản 
phẩm của công nghiệp hỗ trợ xây dựng nhà 
máy sản xuất ở Việt Nam. Để thu hút đầu tư 
trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp 
hỗ trợ thì Nhà nước cần phải đưa ra những 
chính sách ưu đãi cao hơn, đủ sức hấp dẫn, tạo 
thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư để phát 
triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện nay, 
nguồn nhân lực giá rẻ không còn là một lợi 
thế cạnh tranh trong việc thu hút FDI của Việt 
Nam khi mà các thỏa thuận về miễn giảm thuế 
nhập khẩu chính thức được thực hiện. Vấn đề 
 8 TS. Phạm Tất Thắng: Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Một số vấn đề đặt ra. (tapchicongsan.org.vn)
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cần phải quan tâm là làm thế nào để sản xuất 
được các mặt hàng vừa có chất lượng tốt, vừa 
có giá thành rẻ. Bởi sản phẩm rẻ nhưng chất 
lượng kém hay sản phẩm tốt nhưng giá thành 
cao về lâu dài đều rất khó có thể cạnh tranh 
được trước các sản phẩm nhập khẩu. Vì thế, 
điều cốt yếu hiện nay là cần phải đào tạo được 
nguồn nhân lực có khả nĕng quản lý, khả nĕng 
ứng dụng và có tính sáng tạo để sản xuất ra 
được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. 
Mặt khác, để có được nguồn nhân lực chất 
lượng cao chúng ta phải đào tạo cho được 
những kỹ sư có đủ trình độ về kỹ thuật thực 
hành và thực tiễn, trang bị cho họ kiến thức 
cần thiết về công nghệ hiện đại; mở rộng sự 
liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học 
trong nước và các trường đại học có uy tín 
trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng 
cấp các cơ sở đào tạo, từ các trường đại học 
cho đến các trường nghề. Ngoài ra, việc cử 
người đi đào tạo ở những quốc gia có truyền 
thống mạnh về phát triển công nghiệp hỗ trợ 
nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho 
việc phát triển công nghiệp hỗ trợ của nước ta 
cũng là cần thiết.
3. Kết luận
Tóm lại, công nghiệp hỗ trợ là một công 
cụ cho quá trình hội nhập về mặt chất của nền 
công nghiệp của một quốc gia, hội nhập từ 
trong quá trình hợp tác sản xuất công nghiệp. 
Công nghiệp hỗ trợ tạo cơ sở cho việc tái cơ 
cấu nền công nghiệp theo hướng bền vững. 
Xét trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, 
đang trong quá trình đẩy mạnh tái cơ cấu nền 
kinh tế, thì phát triển công nghiệp hỗ trợ là 
cực kỳ cấp thiết và phát triển công nghiệp hỗ 
trợ cũng góp phần giúp cho Việt Nam tránh 
được bẫy thu nhập trung bình, hội nhập sâu 
hơn với khu vực và quốc tế trong quá trình 
toàn cầu hóa. Mặt khác, hệ thống công nghiệp 
hỗ trợ cũng là cơ sở để cơ cấu lại nền công 
nghiệp cả nước về cơ cấu ngành, cơ cấu quy 
mô, tái cơ cấu bản thân doanh nghiệp, đặc biệt 
nó còn là một quan hệ kinh doanh mới theo 
nguyên tắc hợp đồng sẽ dần hoàn thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, HN
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN
3. Nguyễn Vĕn Thạo – Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2011), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Vĕn kiện 
Đại hội XI của Đảng, Nxb.CTQG-ST, HN
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN
5. Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN của Bộ Công nghiệp: Phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ 
đến nĕm 2010, tầm nhìn đến nĕm 2020 (chinhphu.vn)
6. Quyết định số 12/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Về chính sách phát triển một số ngành công 
nghiệp hỗ trợ (chinhphu.vn)
7. TS. Phạm Tất Thắng: Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Một số vấn đề đặt ra. (tapchicongsan.org.vn)
8. Phạm Huyền: Ngán Trung Quốc, sợ Thái Lan: Vốn Nhật về Việt Nam. (vef.vn)
9. ThS. Nguyễn Thị Kim Đoan, Ths. Phạm Quốc Tuấn: Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam - Thực trạng và 
giải pháp. (khucongnghiep.com.vn)
10. Trần Vũ Nghi-Lê Nguyên Minh: Công nghiệp phụ trợ: “Đứa con không chịu lớn”. (tuoitre.vn)
11. Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam: Công nghiệp phụ trợ 10 nĕm vẫn chưa lớn. (vcci.com.vn)
12. Tuấn Phát: Phát triển công nghiệp phụ trợ cần một mạng lưới. (Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 12/1/2011)
13. Cần đẩy mạnh thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ (dangcongsan.vn)

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_cong_nghiep_ho_tro_o_viet_nam_nhan_thuc_va_thuc_t.pdf