Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Mặc dù nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng trưởng tốt trong nhiều năm

nhưng ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT)của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế khiến luồng vốn đầu

tư nước ngoài vào Việt Nam thiếu tính ổn định, nguy cơ các nhà đầu tư nước ngoài chuyển đầu tư

khỏi Việt Nam sẽ gia tăng nếu các ngành CNHT của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của họ.

Bài báo này làm rõ một số vấn đề cơ bản về CNHT, thực trạng phát triển CNHT tại Việt Nam, khảo

sát ý kiến của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam vềngành

CNHT để làm rõ các vấn đề bất cập của ngànhnày từ góc độ của nhà đầu tư nước ngoài, từ đó đưa

ra mốt số đề xuất phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

Việt Nam. Để thực hiện bài báo này, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê, mô tả, tổng

hợp, khảo sát thực tế và dùng phần mềm excel để xử lý số liệu sơ cấp.

pdf 11 trang kimcuc 17360
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
3Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
1. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ đối 
với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (FDI) 
1.1. Khái niệm về công nghiệp hỗ trợ 
(CNHT)
Junichi Mori (2005) cho rằng có hai cách 
tiếp cận đối với khái niệm CNHT: từ lý thuyết 
kinh tế - CNHT là các ngành sản xuất đầu vào 
(manufactured inputs) gồm: các sản phẩm, 
hàng hóa trung gian (intermediate goods) và 
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NHẰM THU HÚT 
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thu Hà* 
Phan Trần Thảo Phương**
* TS, Trường Đại học Ngoại thương CS2 TP.HCM; Email: hanguyen_ftu@yahoo.com
** CN, Email: phantranthaophuong.ftu@gmail.com
Tóm tắt
Mặc dù nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng trưởng tốt trong nhiều năm 
nhưng ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT)của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế khiến luồng vốn đầu 
tư nước ngoài vào Việt Nam thiếu tính ổn định, nguy cơ các nhà đầu tư nước ngoài chuyển đầu tư 
khỏi Việt Nam sẽ gia tăng nếu các ngành CNHT của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của họ. 
Bài báo này làm rõ một số vấn đề cơ bản về CNHT, thực trạng phát triển CNHT tại Việt Nam, khảo 
sát ý kiến của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam vềngành 
CNHT để làm rõ các vấn đề bất cập của ngànhnày từ góc độ của nhà đầu tư nước ngoài, từ đó đưa 
ra mốt số đề xuất phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào 
Việt Nam. Để thực hiện bài báo này, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê, mô tả, tổng 
hợp, khảo sát thực tế và dùng phần mềm excel để xử lý số liệu sơ cấp.
Từ khóa: Công nghiệp hỗ trợ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mã số: 146.120515. Ngày nhận bài: 12/05/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 19/08/2015. Ngày duyệt đăng: 19/08/2015.
Abstract
In recent years foreign direct investment (FDI ) flow into Vietnam continues to grow steadily. 
Howere shortcomings and limitations of the supporting industries of Vietnam cause FDI enterprises 
difficulties in raising capital and expanding the scale of their production in Vietnam. They are for 
unstable flows of FDI into Vietnam and lead to the risks of transfering foreign capital from Vietnam 
to other countries if supporting industries of Vietnam can not meet their needs. The purposes of 
this paper is to clarify some fundamental issues of supporting industries, the current situation of the 
development of supporting industries in Vietnam; to surveys enterprises with foreign capital operating 
in Vietnam in order to understand the shortcomings of Vietnam’s supporting industries from the 
perspective of foreign investors; to make some proposals to develop supporting industries to attract 
FDI into Vietnam. To write this research paper, the authors used statistical, descriptive, synthetic 
methods, conducted surveys and processed priliminary data by excel software.
Key words: Industrial Support, Foreign Direct Investment.
 Paper No. 146.120515. Date of receipt: 17/03/2015. Date of revision: 19/08/2015. Date of approval: 19/08/2015.
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
4 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
các sản phẩm, hàng hóa phục vụ quá trình sản 
xuất (capital goods). Từ góc độ thực tiễn sản 
xuất, kinh doanh thì CNPT có thể hiểu từ hai 
góc độ: Ở góc độ hẹp là các ngành sản xuất 
phụ tùng linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp 
ráp ra sản phẩm hoàn chỉnh và ở góc độ rộng 
hơn, CNHT được hiểu như toàn bộ các ngành 
tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo 
ra các máy móc, thiết bị hay những yếu tố vật 
chất nào khác góp phần tạo thành sản phẩm.
Tại Việt Nam chưa có một khái niệm thống 
nhất về CNHT nhưng về bản chất CNHT được 
định nghĩa tại Quyết định số 12/2011/QĐ-
TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính 
phủ về chính sách phát triển một số ngành 
CNHT, theo đó “Công nghiệp hỗ trợ là các 
ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, 
phụ kiện, phụ tùng, linh kiện, bán thành phẩm 
để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất 
hoặc sản phẩm tiêu dùng”. Mặc dù có nhiều 
cách hiểu khác nhau về CNHT, nhưng có một 
điểm chung: phạm vi cốt lõi của các ngành 
CNHT là tạo ra các bộ phận, thành phần cấu 
tạo trực tiếp nên sản phẩm lắp ráp cuối cùng. 
Nói cách khác, CNHT là một thuật ngữ đề 
cập đến một nhóm các hoạt động công nghiệp 
cung cấp các đầu vào trung gian (không phải 
là nguyên vật liệu thô và không phải là sản 
phẩm hoàn thiện). Các đầu vào trung gian này 
sẽ được cung cấp cho các ngành công nghiệp 
chế biến sản phẩm đầu ra cuối cùng. Phạm vi 
của CNHT khá rộng, bao gồm các ngành chế 
tạo các linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, nguyên 
liệu để sơn, nhuộm và những sản phẩm dùng 
làm bao bì, đóng gói. 
Các nghiên cứu về CNHT chỉ ra các đặc 
điểm chính của ngành là (1) thâm dụng nhiều 
vốn và đòi hỏi nguồn nhân lực trình độ kỹ 
thuật cao, có khả năng tạo ra các sản phẩm 
công nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn và nhu cầu 
của ngành công nghiệp chính; (2) các doanh 
nghiệp trong ngành chủ yếu là doanh nghiệp 
vừa và nhỏ (SMEs) có mối quan hệ kinh tế và 
kỹ thuật chặt chẽ với các nhà sản xuất chính 
và về lâu dài thì họ trở thành vệ tinh của các 
doanh nghiệp này; (3) sản phẩm CNHT được 
định hướng để phục vụ nhu cầu trong nước và 
còn xuất khẩu, phục vụ doanh nghiệp nội địa 
và các nhà đầu tư nước ngoài; (4) phát triển 
CNHT là con đường giúp nền kinh tế của một 
quốc gia tăng năng lực cạnh tranh và tham gia 
sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 
Mối quan hệ giữa công nghiệp hỗ trợ và 
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Như đã đề cập ở trên, có thể thấy CNHT 
là bộ phận đặc thù trong nền công nghiệp 
với chức năng cung cấp sản phầm đầu vào 
cho việc tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh. Có 
nhiều nghiên cứu về CNHT và tác động của 
nó đến năng lực cạnh tranh như các nghiên 
cứu của M. Porter (1990) về lợi thế cạnh 
tranh quốc gia, chuỗi giá trị và cụm công 
nghiệp. M. Porter cũng nhận mạnh mức độ 
quan trọng của CNHT trong việc tạo nên lợi 
thế cạnh trnah quốc gia trong mô hình kim 
cương theo đó một cạnh CNHT mạnh có thể 
mang lại những lợi ích lớn cho quốc gia mà 
trước hết đó là nguồn đầu vào hiệu quả với 
chi phí hợp lý từ nhà cung cấp nội địa. Tác 
giả Jones Ronald (2000) cho rằng các quốc 
gia có lợi thế tuyệt đối về đầu vào sản xuất 
với CNHT phát triển có lợi thế cạnh tranh 
hơn các quốc gia chri dựa vào lao động giá 
rẻ mà không có được công nghệ để sản xuất 
ra các bộ phận, máy móc phụ tùng tại chỗ. 
Do vậy, các quốc gia có CNHT phát triển 
về lâu dài có thể duy trì được sự phát triển 
kinh tế và lợi ích của quốc gia. Theo tác giả 
Trần Quang Lâm (2007), CNHT có thể làm 
tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, giúp 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
5Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
các doanh nghiệp đầu tư vào một quốc gia 
thích ứng nhanh với thị trường nội địa, góp 
phần giúp quốc gia nhận đầu tư tham gia sâu 
rộng hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, hội 
nhập với khu vực và thế giới. Theo ông Đỗ 
Mạnh Hồng (2004) Viện Công nghiệp, Đại 
học Obirin, Nhật Bản, muốn thu hút đầu tư 
nước ngoài (FDI) thì công nghiệp hỗ trợ phải 
đi trước một bước, tạo nên hạ tầng để cung 
cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành 
công nghiệp lắp ráp đầu tư bởi các tập đoàn, 
công ty lớn về lắp ráp giờ đây cũng chỉ giữ 
lại trong quy trình của mình các khâu nghiên 
cứu, phát triển sản phẩm và lắp ráp thay vì 
tất cả gói gọn trong một công ty, nhà máy. 
Những nghiên cứu của Tổ chức xúc tiến 
thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy một 
trong những trở ngại khi doanh nghiệp ngành 
chế tạo Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam, đó là 
nguồn cung linh kiện nội địa rất nghèo nàn. 
Nếu như tỷ lệ nội địa hóa linh kiện, nguyên 
phụ liệu ở Trung Quốc và Thái Lan chiếm 
tới 50~60%, trong khi ở Việt Nam tỷ lệ này 
chỉ là 27,8%, trong đó chỉ có 45% là mua từ 
các doanh nghiệp trong nước. Từ những chi 
tiết, linh kiện đơn giản như ốc vít cũng không 
có nhà cung ứng đảm bảo số lượng lớn sản 
phẩm đạt tiêu chuẩn như yêu cầu của nhà đầu 
tư nước ngoài. Do CNHT của Việt Nam còn 
kém phát triển nên tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm 
của các nhà đầu tư nước ngoài thấp khiến giá 
thành sản phẩm cao và khó cạnh tranh. Một 
ví dụ rõ nét nhất là tập đoàn Điện tử Samsung 
(Hàn Quốc) - một nhà đầu tư lớn vào Việt 
Nam đang nỗ lực tìm kiếm doanh nghiệp nội 
địa tham gia làm nhà cung ứng mình với mong 
muốn tăng số lượng nhà cung cấp Việt trong 
chuỗi cung ứng của Samsung nhằm giảm phụ 
thuộc vào nhập khẩu linh kiện và mở rộng 
quy mô sản xuất tại Việt Nam nhưng đến nay 
mới chỉ có khoảng 20 doanh nghiệp Việt Nam 
đáp ứng được yêu cầu của Samsung. Chính vì 
vậy, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu 
tư vào Việt Nam thì thường phải tìm thêm các 
nhà cung ứng linh kiện cùng đầu tư vào Việt 
Nam để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Có 
thể nói, phát triển CNHT sẽ giúp Việt Nam 
nâng cao khả năng cạnh tranh so với các nước 
trong khu vực trong việc thu hút FDI, giúp 
nền kinh tế hấp thụ tốt hơn nguồn vốn và góp 
phần đưa Việt Nam tham gia sâu hơn vào 
chuỗi cung ứng toàn cầu.
2. Thực trạng phát triển ngành CNHT ở 
Việt Nam 
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh công 
nghiệp Việt Nam năm 2013 do Bộ Công 
thương phối hợp với Tổ chức phát triển Công 
nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO), từ năm 
1995 đến nay, Việt Nam đã cho xây dựng 
khoảng 80 chiến lược phát triển, quy hoạch 
tổng thể và kế hoạch có liên quan đến sự phát 
triển của ngành CNHT. Phân tích trong chuỗi 
giá trị của toàn ngành công nghiệp thì có ba 
giai đoạn: thượng nguồn, trung nguồn và hạ 
nguồn trong đó giai đoạn thượng nguồn giai 
đoạn có giá trị gia tăng cao nhất trong toàn bộ 
chuỗi giá trị. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam 
vẫn chủ yếu tham gia vào giai đoạn hạ nguồn 
- giai đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất, mà 
vẫn chưa chiếm lĩnh được khu vực có giá trị 
gia tăng cao là khu vực thượng nguồn - chính 
là sản phẩm CNHT.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 
2011 số lượng doanh nghiệp hỗ trợ là 4.992 
doanh nghiệp thì đến năm 2013 số lượng 
doanh nghiệp tăng lên 6.102 doanh nghiệp, 
tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 -2013 
là 22,32 %. Tuy nhiên, các doanh nghiệp 
hỗ trợ vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
6 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
và nhỏ, chiếm khoảng 80% tổng số doanh 
nghiệp hỗ trợ hoạt động chính trong các 
nhóm ngành như kim loại, nhựa và plastic, 
điện điện tử, hóa chất công nghiệp, phụ tùng 
chế tạo máy, máy móc công nghiệp. Trong 
các nhóm ngành ở trên, thì nhóm ngành sản 
xuất sản phẩm hỗ trợ nhựa và plastic là có số 
lượng doanh nghiệp hỗ trợ lớn nhất lên tới 
745 doanh nghiệp vào năm 2013, tiếp đến là 
nhóm ngành sản xuất sản phẩm hỗ trợ kim 
loại với số lượng doanh nghiệp là 698 doanh 
nghiệp vào năm 2013. Nhóm ngành sản xuất 
sản phẩm hỗ trợ điện và nhóm ngành sản 
xuất vật liệu, linh kiện điện tử, thiết bị truyền 
thông cũng đang được các doanh nghiệp 
quan tâm đặc biệt là các doanh nghiệp có 
vốn đầu tư nước ngoài thể hiện ở việc số 
lượng doanh nghiệp trong các nhóm ngành 
này tăng từ 362 doanh nghiệp vào năm 2010 
lên 598 doanh nghiệp vào năm 2013. 
Các doanh nghiệp nội địa chiếm tỷ lệ trên 
80% số doanh nghiệp tham gia vào ngành 
CNHT, thành phần nhà nước chiếm tỷ lệ 
thấp nhất và có xu hướng thay đổi không 
đáng kể trong thời gian qua với tỷ lệ khoảng 
từ 2% đến 3%. Trong khi đó, doanh nghiệp 
FDI có xu hướng tăng qua các năm nếu như 
năm 2010 số lượng doanh nghiệp FDI chiếm 
8,72% thì đến năm 2013, số doanh nghiệp 
FDI chiếm 15,38%. Điều này thể hiện luồng 
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành 
CNHT có xu hướng ngày càng gia tăng thể 
hiện sự hấp dẫn của lĩnh vực CNHT đối với 
các doanh nghiệp. 
Xét về giá trị, nhóm ngành hỗ trợ kim loại 
là ngành có giá trị sản xuất công nghiệp cao 
nhất đạt 76,9 nghìn tỷ đồng vào năm 2013; 
tăng 60,1 nghìn tỷ đồng so với năm 2010. 
Theo Tổng cục thống kê, trong ngành sản xuất 
thiết bị phụ tùng chế tạo máy giai đoạn 2010 
Bảng 1: Tỷ trọng số doanh nghiệp phân theo nhóm ngành CNHT ở Việt Nam 
giai đoạn 2010 - 2013
Đơn vị: %
Ngành 2010 2011 2012 2013
Hỗ trợ kim loại 22,01 21,19 21,89 20,65
Hỗ trợ nhựa và plastic 25,78 25,3 26,89 27,54
Hỗ trợ điện 13,21 13,71 12,67 11,06
Sản xuất thiết bị đo lường, kiểm tra, 
thiết bị quang học
1,11 0,98 1,89 1,96
Sản xuất hóa chất công nghiệp 5,78 5,23 4,49 5,47
Sản xuất thiết bị, phụ tùng chế tạo máy 2,34 3,45 2,13 3,23
Sản xuất vật liệu, linh kiện điện tử, thiết 
bị truyền thông
8,43 10,47 11,7 12,33
Sản xuất bao bì giấy và máy móc công 
nông nghiệp
21,34 19,67 18,34 17,76
Tổng 100 100 100 100
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2013
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
7Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
- 2013, có giá trị sản xuất công nghiệp tăng 
từ 7,6 nghìn tỷ đồng vào năm 2010 lên 31,3 
nghìn tỷ đồng vào năm 2013; tăng 23,7 nghìn 
tỷ đồng so với năm 2010. Ngành sản xuất vật 
liệu, linh kiện điện tử, thiết bị truyền thông 
tuy chỉ mới phát triển trong mấy năm trở lại 
đây nhưng tăng trưởng khá nhanh, giá trị sản 
xuất công nghiệp đạt 37,8 nghìn tỷ năm 2013; 
tăng 31,6 nghìn tỷ đồng so với năm 2010 . 
Nhóm ngành sản xuất sản phẩm hỗ trợ nhựa 
và plastic cũng tăng trưởng cao; từ 2,3 nghìn 
tỷ đồng năm 2010 lên 25,4 nghìn tỷ đông năm 
2013.
Với định hướng thu hút FDI vào lĩnh vực 
công nghệ cao, việc phát triển công nghiệp hỗ 
trợ của ngành điện, điện tử có ý nghĩa đặc biệt 
quan trọng. Từ năm 1993, Hà Nội đầu tư xây 
dựng nhà máy sản xuất Đèn hình Orion - Hanel 
với mức vốn đầu tư lên tới 178 triệu USD. 
Đến năm 2000, tại Đà Nẵng, Công ty Phát 
triển Công nghệ và Tư vấn đầu tư đã đầu tư 
xây dựng dây chuyền sản xuất tụ màng mỏng 
với vốn đầu tư là 1 triệu USD. Năm 2011, mặt 
hàng linh kiện điện tử đã được đẩy mạnh xuất 
khẩu, đạt tới 4,8 tỷ USD và chính thức được 
đưa vào danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ 
yếu, nhóm mặt hàng này tiếp tục tăng trưởng 
mạnh vào năm 2012 và bứt phá trở thành mặt 
hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước 
năm 2013. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu 
linh kiện điện tử tăng lên qua các năm đều nhờ 
sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI. Còn 
đối với các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa thì 
cho tới hiện nay không có cơ sở sản xuất công 
nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu 
điện tử, chỉ có ở dạng nghiên cứu cơ bản hoặc 
sản xuất theo mô hình phòng thí nghiệm. 
Việt Nam hiện nay đang từng bước xác lập 
tên tuổi của mình trên trường quốc tế để thu 
hút đầu tư công nghệ cao vào CNHT ngành 
điện tử. Với những lợi thế so sánh mà Việt 
Nam hiện có như lợi thế về vị trí địa lý, nguồn 
nhân lực dồi dào, chi phí lao động thấp, nguồn 
tài nguyên trí tuệ phong phú thì Việt Nam sẽ 
có nhiều cơ hội để phát triển CNHT ngành 
điện tử.
Lao động trong các lĩnh vực CNHT cũng 
có sự cải thiện trong thời gian vừa qua. Tỷ lệ 
lao động tốt nghiệp trung học là 69%; tỷ lệ lao 
Bảng 2. Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành điện tử giai đoạn 2006 - 2013
Đơn vị: doanh nghiệp
Ngành 2006 2008 2010 2012 2013
Doanh nghiệp CNHT
Số lượng 2.643 4.161 4.992 6.000
Tốc độ tăng trưởng (%) 27,9 20 21 21,9
CNHT ngành điện tử
Số lượng 120 219 372 510 630
Tốc độ tăng trưởng (%) 45 32 2 ...  cho ngành CNHT không có 
nhiều ưu đãi để doanh nghiệp hỗ trợ phát triển 
và thu hút doanh nghiệp FDI vào lĩnh vực này. 
Mặt khác, các doanh nghiệp FDI còn cho rằng 
hoạt động của các ngành công nghiệp cơ bản 
và khu vực hạ nguồn ở Việt Nam chưa đáp 
ứng được nhu cầu của ngành CNHT. Ngoài 
ra, 78% doanh nghiệp FDI được khảo sát cho 
rằng khoa học công nghệ áp dụng trong lĩnh 
vực CNHT ở Việt Nam còn lạc hậu và 64% 
doanh nghiệp cho rằng khả năng tiếp thu khoa 
học công nghệ của ngành CNHT chưa hiệu 
quả. Một trong những nguyên nhân đó chính 
là vấn đề nguồn nhân lực. 69% doanh nghiệp 
FDI được hỏi cho rằng độ chuyên môn của 
nhân lực trong ngành CNHT của Việt Nam 
còn thấp, tay nghề không đồng đều và thiếu 
nhân lực được đào tạo bài bản theo tiêu chuẩn 
quốc tế trong khi chất lượng đào tạo của Việt 
Nam còn rất thấp, ảnh hưởng tới hiệu quả của 
việc chuyển giao công nghệ cũng như khả 
năng phát triển ngành CNHT của Việt Nam. 
Hầu như các doanh nghiệp FDI được khảo 
sát đều mong muốn ngành CNHT của Việt 
Nam phát triển để có thể đáp ứng được yêu 
cầu của họ về nguồn nguyên liệu đầu vào đặc 
biệt là CNHT ngành cơ khí, CNHT dệt may 
và CNHT điện - điện tử. Các doanh nghiệp đề 
xuất rằng: ngành CNHT Việt Nam cần được 
nhà nước quan tâm đúng mức hơn nữa, Nhà 
nước cần có các chính sách phát triển CNHT 
một các hợp lý, tăng cường hỗ trợ các doanh 
nghiệp hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng. Bên cạnh 
đó, các doanh nghiệp hỗ trợ cần phải chủ động 
trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực, cải thiện hệ thống chia sẻ 
thông tin giữa doanh nghiệp hỗ trợ nội địa và 
doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp hỗ trợ 
nội địa cần cải thiện chất lượng sản phẩm hỗ 
trợ, giảm giá thành, nâng cao trình độ khoa 
học công nghệ, đổi mới thiết bị, máy móc lạc 
hậu của doanh nghiệp hỗ trợ.
4. Một số đánh giá và đề xuất nhằm phát 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
10 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
triển ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm thu 
hút FDI vào Việt Nam
Từ những phân tích ở trên và kết quả khảo 
sát, có thể thấy rằng sự phát triển của ngành 
CNHT là một trong những yếu tố quan trọng 
trong việc ra quyết định đầu tư của các doanh 
nghiệp FDI. Mặc dù ngành CNHT của nước 
ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng 
bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế mà 
chúng ta cần phải khắc phục thì ngành CNHT 
mới phát triển và mới kích thích thu hút vốn 
đầu tư trực tiếp nước ngoài được. Một số hạn 
chế có thể kể đến như: 
Thứ nhất, số lượng, trình độ và quy mô các 
DNHT tại Việt Nam còn hạn chế. Như phân 
tích ở trên, hiện hầu hết các DNHT của Việt 
Nam là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Bên 
cạnh đó, mặc dù số lượng các doanh nghiệp 
FDI trong lĩnh vực CNHT có tăng qua các năm 
nhưng tỷ lệ còn chỉ chưa tới 15% nên đóng góp 
của nhóm doanh nghiệp này vào CNHT của 
Việt Nam chưa nhiều, chuyển giao công nghệ 
từ nhóm doanh nghiệp này còn hạn chế. Theo 
đánh giá của các doanh nghiệp FDI nguyên 
nhân một phần do chính sách của chính phủ 
Việt Nam trong việc phát triển CNHT chưa rõ 
ràng, thiếu sự hỗ trợ các doanh nghiệp trong 
nước và nhà đầu tư nước ngoài nên số lượng 
doanh nghiệp đầu tư vào CNHT còn ít. Với tỷ 
trọng doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực CNHT 
15% trong khi các doanh nghiệp trong nước 
còn yếu kém đồng nghĩa với việc Việt Nam 
chưa tận dụng được công nghệ và nguồn nhân 
lực chất lượng cao từ các nước phát triển để 
phát triển CNHT;
Thứ hai, ngành CNHT chưa đáp ứng đúng 
nhu cầu của doanh nghiệp FDI. Như phân tích 
ở mục 2, nhóm doanh nghiệp CNHT ngành 
nhựa chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khi kết quả 
khảo sát cho thấy các doanh nghiệp FDI có 
nhu cầu về sản phẩm CNHT nhóm ngành cơ 
khí, điện tử với các sản phẩm công nghệ cao. 
Mặc dù chính sách của chính phủ Việt Nam 
ưu tiên thu hút đầu tư vào ngành công nghệ 
cao nhưng khi CNHT không thể đáp ứng nhu 
cầu của nhóm doanh nghiệp này thì mục tiêu 
thu hút FDI để phát triển công nghệ của chính 
phủ cũng sẽ khó có thể đạt được. Thực trạng 
này xuất phát từ quy hoạch phát triển CNHT 
của chính phủ chưa rõ ràng, thiếu sự phối hợp 
giữa Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ Công thương 
trong việc định hướng thu hút luồng vốn nói 
chung trong đó có nguồn vốn FDI vào phát 
triển CNHT; 
Thứ ba, sản phẩm CNPT tại Việt Nam có 
cơ cấu không cân đối, sức cạnh tranh kém, 
chất lượng chưa đồng đều, chưa đáp ứng tiêu 
chuẩn của doanh nghiệp FDI với giá thành 
cao. Theo ý kiến các doanh nghiệp FDI thì 
nguyên nhân chính là do trình độ công nghệ 
và nhân lực của các doanh nghiệp Việt Nam 
còn thấp. Hầu hết các sản phẩm CNHT là sản 
phẩm gia công, đơn giản, có giá trị gia tăng 
thấp. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp hỗ 
trợ vẫn phải nhập nguyên liệu đầu, ví dụ vào 
như ngành dệt, ngành nhựa khiến giá thành 
sản phẩm cao và thiếu tính cạnh tranh. Tình 
trạng này khiến các doanh nghiệp FDI vẫn 
phải nhập khẩu nguyên liệu đầu vào để lắp ráp 
khiến tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm của doanh 
nghiệp FDI thấp, phụ thuộc phần lớn vào nhà 
cung cấp nước ngoài;
Cuối cùng, tính kết nối giữa các doanh 
nghiệp FDI và doanh nghiệp các ngành CNHT 
còn lỏng lẻo. Theo kết quả khảo sát, các doanh 
nghiệp FDI thiếu thông tin về DNHT trong 
nước và chưa có sự kết nối với nguồn cung 
sản phẩm CNHT. Nhiều doanh nghiệp như 
Samsung phải tổ chức các hội thảo về CNHT 
nhằm tìm kiếm các nhà cung cấp nội địa, bên 
cạnh đó, để có thể phát triển bền vững và mở 
rộng đầu tư tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
11Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
FDI có kế hoạch đầu tư phát triển CNHT. 
Một số đề xuất phát triển CNHT nhằm 
thu hút FDI vào Việt Nam
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT 
đến năm 2020 của Bộ Công thương thì quan 
điểm phát triển CNHT của Việt Nam theo 
hướng tăng tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm 
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước 
và thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài vào các lĩnh vực công nghệ cao; đẩy 
mạnh phát triển CNHT theo hướng bền vững 
và chiều sâu, thân thiện môi trường. Mục tiêu 
đặt ra là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở 
thành nước công nghiệp, với sản phẩm CNHT 
có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được 
45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng 
trong nội địa và xuất khẩu 25% giá trị sản xuất 
công nghiệp. Đến năm 2030, sản phẩm CNHT 
đáp ứng được 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu 
dùng trong nội địa.
Để có thể thực hiện được các mục tiêu nói 
trên cũng như thúc đẩy ngành CNHT của Việt 
Nam phát triển theo hướng đáp ứng nhu cầu 
của các nhà đầu tư nước ngoài, đưa Việt Nam 
có vị thế cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn 
cầu, cần có các giải pháp mang tính đồng bộ 
và cơ bản. Xuất phát từ những đánh giá ở trên, 
nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp như sau
Thứ nhất, Bộ Công thương - đơn vị được 
Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì trong chiến 
lược phát triển CNHT của Việt Nam cần cụ 
thể hóa chiến lược phát triển CNHT theo đó 
cần có quy hoạch các ngành mũi nhọn phát 
trỉển CNHT phù hợp với định hướng công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Với 
các ngành mũi nhọn thì cần có chính sách ưu 
tiên phát triển với doanh nghiệp trong nước 
thông qua việc hỗ trợ về nguồn vốn, thu hút 
đầu tư, đào tạo nhân lực. Để làm được điều 
này thì trước hết cần hoàn thiện khung pháp 
lý về CNHT. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch 
đầu tư Bùi Quang Vinh, một trong những khó 
khăn trong phát triển CNHT của Việt Nam, đó 
là khái niệm CNHT chưa thống nhất. Do vậy, 
Bộ Công thương là đơn vị được chính thức 
giao nhiệm vụ xây dựng cơ chế, chính sách 
phát triển CNPT của đất nước cũng gặp những 
khó khăn trong việc xác định danh mục các 
ngành CNHT và theo đó là chính sách ưu tiên 
phát triển, thu hút đầu tư cho các ngành này 
chưa nhất quán. Mặt khác, các doanh nghiệp 
hỗ trợ hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
do vậy, cần thúc đẩy việc soạn thảo và thông 
qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để 
tạo ra cơ chế cho SMEs phát triển; 
Thứ hai, nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà 
đầu tư FDI về sản phẩm CNHT thì Bộ Công 
thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối 
hợp trong việc nghiên cứu nhu cầu của nhà 
đầu tư nước ngoài về sản phẩm CNHT, có 
sự phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội ngành 
nghề nhằm kết nối các doanh nghiệp FDI với 
các doanh nghiệp hỗ trợ qua các hội trợ, triển 
lãm, xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp 
hỗ trợ một cách đầy đủ với thông tin đáng tin 
cậy. Hiện nay có nhiều triển lãm sản phẩm 
CNHT được tổ chức hàng năm để giới thiệu 
các doanh nghiệp hỗ trợ và sản phẩm của họ 
vớ khác hàng trong và ngoài nước. Các doanh 
nghiệp hỗ trợ khi tham gia được hỗ trợ một 
phần mặt kinh phí từ các Chính phủ, Tổ chức 
xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, mức hỗ trợ 
cho nhiều triển lãm, hội chợ nhất là ở nươc 
ngoài còn ít trong khi chi phí vận chuyển hàng 
triển lãm và các chi phí khác quá cao cũng 
là rào cản khiến nhiều doanh nghiệp chưa thể 
tham gia. Mặt khác, theo Cục xúc tiến thương 
mại, nhiều doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm 
tham gia hội chợ, thiếu sự chuẩn bị chu đáo 
cho gian hàng, không đào tạo nhân viên cách 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
12 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
thức giới thiệu sản phẩm và tiếp cận khách 
hàng, kết nối với các doanh nghiệp khác tại 
hội chợ, thiếu các công tác sau hội trợ như 
chăm sóc khách hàng, đánh giá hiệu quả. Cục 
xúc tiến thương mại và các hiệp hội ngành 
nghề cũng cần hỗ trợ doanh nghiệp trong công 
tác này thay vì chỉ là đơn vị tổ chức.
Thứ ba, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển 
trình độ khoa học công nghệ trong nước, cải 
thiện khả năng R&D cũng như nâng cao hiệu 
quả chuyển giao công nghệ từ các quốc gia 
phát triển. Nhằm hỗ trợ Việt Nam cũng là hỗ 
trợ các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam, 
Chính phủ Nhật phối hợp với Bộ Lao động và 
Thương binh, Xã hội lựa chọn một số trường 
nghề của Việt Nam để cho vay vốn ODA, giúp 
các trường nâng chất lượng đào tạo nghề đạt 
chuẩn quốc tế nhưng vẫn chưa thể giúp Việt 
Nam có đủ nguồn nhân lực chất lượng cao. 
Do vậy, Chính phủ cần tiếp tục có các chính 
sách ưu tiên phát triển và đầu tư trọng điểm để 
phát triển nhân lực cho ngành CNHT như tạo 
quỹ đào tạo nhân lực cho các ngành mũi nhọn, 
ưu tiên các nhà đầu tư giáo dục trong và ngoài 
nước phát triển các ngành cơ khí, chế tạo, 
công nghệ thông tin, tăng cường hợp tác trong 
lĩnh vực đào tạo với các quốc gia có vốn đầu 
tư lớn vào Việt Nam và các ngành Việt Nam 
ưu tiên phát triển. Việc phối hợp ở cấp chính 
phủ như cách làm với Nhật Bản hiện nay tạo 
cơ hội để Việt Nam phát triển CNHT đáp ứng 
đúng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài 
một cách bền vững. Từ phía các trường đại 
học, cao đẳng, cần liên kết với doanh nghiệp 
trong việc xác định nhu cầu về nguồn nhân 
lực, tăng cường kết nối lý thuyết và thực tiễn, 
đào tạo theo địa chỉ, đặc biệt là đầu tư nâng 
cao năng lực ngoại ngữ của người học. 
Thứ tư, tăng cường thu hút nguồn vốn đầu 
tư trực tiếp nước ngoài để phát triển CNHT. 
CNHT là ngành đòi hỏi vốn đầu tư và trình 
độ công nghệ cao, tuy nhiên, do đặc điểm 
của ngành nên những dự án FDI vào CNHT 
thường có số vốn không lớn so với các dự án 
FDI nói chung mặc dù đóng vai trò rất quan 
trọng trong việc thu hút và hấp thụ nguồn vốn 
FDI vào các ngành khác. Do vậy, các chính 
sách của Chính phủ cần điều chỉnh theo hướng 
ưu tiên và khuyến khích các doanh nghiệp 
FDI vào lĩnh vực này thay vì ưu tiên các dự 
án có quy mô vốn lớn và siêu dự án. Những 
ngành cần được ưu tiên thu hút FDI phải là 
những ngành phục vụ cho các doanh nghiệp 
FDI hiện đang hoạt động tốt tại Việt Nam, các 
ngành mà Việt Nam còn kém phát triển nhưng 
có lợi thế so sánh như chế tạo máy, điện tử, 
các ngành phục vụ cho công nghiệp chế biến 
nông sản;
Cuối cùng, chính các doanh nghiệp trong 
ngành CNHT cần phải năng động trong việc 
nắm bắt nhu cầu của các nhà đầu tư nước 
ngoài về các sản phẩm đầu vào, chủ động tái 
cơ cấu nguồn lực nhằm tập trung vào lĩnh vực 
doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tận dụng 
các cơ hội từ chính sách ưu đãi của chính phủ 
đối với CNHT cũng như xu hướng nguồn vốn 
đầu tư vào Việt Nam để có chiến lược phù 
hợp. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần tận 
dụng tốt các kênh quảng bá như trang web, 
công cụ tìm kiếm để kết nối với doanh nghiệp 
FDI có nhu cầu về sản phẩm của mình một 
cách hiệu quả. 
Kết luận
Phát triển công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa 
vô cùng quan trọng trong việc thu hút nguồn 
vốn FDI, tăng tỷ lệ nội địa hóa và giúp nền 
kinh tế các quốc gia hội nhập bền vững vào 
chuỗi cung ứng toàn cầu. CNHT tại Việt Nam 
còn kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
13Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
cầu về nguyên liệu đầu vào cho các các doanh 
nghiệp FDI khiến hiệu quả hấp thu nguồn vốn 
cũng như sức hấp dẫn với nhà đầu tư nước 
ngoài của Việt Nam kém hơn các nước trong 
khu vực. Những giải pháp được đề xuất từ 
thực trạng phát triển ngành CNHT của Việt 
Nam cngx như kết quả khảo sát hy vọng có 
thể phần nào giúp Việt Nam phát triển CNHT 
của Việt Nam theo hướng đáp ứng nhu cầu các 
nhà đầu tư hiện tại, tăng tính hấp dẫn của Viêt 
Nam trong việc thu hút thu hút FDI, trong đó 
có FDI vào ngành CNHT.q
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Công thương, Quyết định số 002/2007/QĐ - BCT phê duyệt Quy hoạch phát triển 
ngành công nghiệp, xe máy Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, có xét đến năm 2020, Hà 
Nội.
2. Hoàng Văn Châu, 2010, Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, Nhà 
xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
3. Daisuke HIRATSUKA, 2013, Phó Chủ tich điều hành Tổ chức Xúc tiến Thương mại 
Nhật Bản, Hội thảo Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam-Nhật Bản
4. Lê Thế Giới, 2009, Tiếp cận lý thuyết cụm công nghiệp và hệ sinh thái kinh doanh trong 
nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, Tạp chí Khoa 
học và Công nghiệp, số 30.
5. Michael Porter, 2009, Lợi thế cạnh tranh, nhà xuất bản Trẻ
6. Nguyễn Đức Hải, 2005, Phát triển ngành CNHT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, 
Thông tin những vấn đề kinh tế - chính trị học, Viện Kinh tế chính trị học, Học viện 
Hành Chính quốc gia, số 6, tr.31 - 32. 
7. Nguyễn Quang Hồng, 2009, Phát triển công nghiệp hỗ trợ; Giải pháp quan trọng đối 
với doanh nghiệp Việt Nam trong việc hấp thu công nghệ từ FDI, Tạp chí Quản lý kinh 
tế, số 27.
8. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành, 2010, Phát triển CNHT Việt Nam: Trước làn sóng 
đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái 
Bình Dương, Số 21.
9. Abony G.,2007, Linking greater Mekong subregion Enterprises to international Market: 
The role of global value chains, International production networks, New York.
10. Asia Productivity Organization APO, 2009, Strengthening of supporting industries: 
Asian experience, Tokyo.
11. Department of Energy, 2005, Supporting industries - Industries of the future: Fiscal 
year 2004 annual report, Washington DC.
12. Do Manh Hong, 2004, Promotion of Supporting Industries: The Key for Attracting FDI 
in Developing Countries.
13. Junichi Mori, 2005, Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization, 
The Fletcher School, Tufts University.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_cong_nghiep_ho_tro_nham_thu_hut_von_dau_tu_truc_t.pdf