Phát triển chế biến các sản phẩm cao su khu vực Tây Nguyên trong hội nhập kinh tế quốc tế

Trong những năm gần đây, cây cao su đang trở thành một cây trồng thế mạnh và thu hút được

nhiều người trồng bởi giá trị kinh tế to lớn. Nông dân ở các tỉnh trồng nhiều cây cao su cũng giàu lên

nhờ cao su. Vị thế của ngành cao su Việt Nam trên thế giới ngày càng được khẳng định, Việt Nam

đứng thứ sáu thế giới về diện tích trồng cao su, thứ năm về sản lượng, thứ tư về xuất khẩu và thứ ba

về năng suất vườn cây. Khu vực Tây Nguyên là một trong những vùng có nhiều tiềm năng để phát

triển nông nghiệp, trong đó phát triển cây cao su được xác định là cây trồng chủ lực bên cạnh các cây

trồng như cà phê, hồ tiêu. Sự phát triển cây cao su đã góp phần thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ

cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm, định canh

định cư đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh việc phát

triển đó, cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc làm hạn chế tiềm năng của ngành cao su tại

Tây Nguyên so với các vùng khác. Vì thế, song song với việc phát triển, thì việc xác định những chính

sách, giải pháp phù hợp là việc hết sức cần thiết để phục vụ cho việc phát triển lâu dài của ngành cao

su tại vùng Tây Nguyên.

pdf 7 trang kimcuc 4200
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển chế biến các sản phẩm cao su khu vực Tây Nguyên trong hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển chế biến các sản phẩm cao su khu vực Tây Nguyên trong hội nhập kinh tế quốc tế

Phát triển chế biến các sản phẩm cao su khu vực Tây Nguyên trong hội nhập kinh tế quốc tế
25
PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN CÁC SẢN PHẨM CAO SU KHU VỰC 
TÂY NGUYÊN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
 Võ Hoàng An*
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, cây cao su đang trở thành một cây trồng thế mạnh và thu hút được 
nhiều người trồng bởi giá trị kinh tế to lớn. Nông dân ở các tỉnh trồng nhiều cây cao su cũng giàu lên 
nhờ cao su. Vị thế của ngành cao su Việt Nam trên thế giới ngày càng được khẳng định, Việt Nam 
đứng thứ sáu thế giới về diện tích trồng cao su, thứ năm về sản lượng, thứ tư về xuất khẩu và thứ ba 
về năng suất vườn cây. Khu vực Tây Nguyên là một trong những vùng có nhiều tiềm năng để phát 
triển nông nghiệp, trong đó phát triển cây cao su được xác định là cây trồng chủ lực bên cạnh các cây 
trồng như cà phê, hồ tiêu. Sự phát triển cây cao su đã góp phần thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ 
cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm, định canh 
định cư đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh việc phát 
triển đó, cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc làm hạn chế tiềm năng của ngành cao su tại 
Tây Nguyên so với các vùng khác. Vì thế, song song với việc phát triển, thì việc xác định những chính 
sách, giải pháp phù hợp là việc hết sức cần thiết để phục vụ cho việc phát triển lâu dài của ngành cao 
su tại vùng Tây Nguyên.
Từ khóa: Phát triển chuỗi giá trị, ngành cao su, liên vùng Tây Nguyên
DEVELOPMENT OF PROCESSING OF RUBBER PRODUCTS IN HIGHLANDS 
REGIONAL ECONOMIC INTEGRATION INTERNATIONAL
ABSTRACT
In recent years, rubber trees are becoming a powerful crop and attracting many growers because 
of great economic value. Farmers in the provinces growing rubber trees are also rich in rubber. The 
position of Vietnam’s rubber industry in the world is increasingly affirmed, Vietnam ranks sixth in the 
world in terms of rubber plantation area, fifth in terms of output, fourth in export and third in garden 
productivity. Higlands region is one of the regions with great potential for agricultural development, 
in which the development of rubber trees is identified as a key crop alongside crops such as coffee and 
pepper. The development of rubber trees has contributed to the implementation of the policy of crop 
restructuring and agricultural and rural economic restructuring, job creation and sedentarization 
for people in remote areas. , ethnic minority. However, besides that development, there are still many 
difficulties and obstacles that limit the potential of the rubber industry in higlands compared to other 
regions. Therefore, in parallel with the development, the determination of appropriate policies and 
solutions is essential to serve the long-term development of the rubber industry in Tay Nguyen.
Keywords: Value chain development, rubber industry, inter-region Highlands 
 * ThS. Tập đoàn Cao su VN. Email: vohoangan@rubbergroup.vn. Điện thoại: 0918347552
Phát triển chế biến các sản phẩm...
26
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cao su thiên nhiên là nguồn nguyên liệu 
thiết yếu cho ngành ô tô với 70% sản lượng 
được sử dụng để sản xuất lốp xe và 30% được 
đưa vào chế biến sản phẩm phục vụ cho đời 
sống và nhiều ngành công nghiệp như găng 
tay, đế giày, vòng đệm, băng tải, nệm gối, chỉ 
thunNhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên trên 
thế giới tăng trưởng liên tục trong nhiều năm 
và chỉ tăng chậm lại trong những năm gần đây, 
đạt bình quân khoảng 2,52% hàng năm do ảnh 
hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ 2009 và 
sự phục hồi yếu của nền kinh tế thế giới. 
Với nguồn gốc là cây rừng xuất xứ từ lưu 
vực sông Amazon, Nam Mỹ, cây cao su được 
trở thành cây trồng trong 140 năm qua tại hơn 20 
nước ở châu Á và châu Phi. Đến năm 2015, diện 
tích cây cao su toàn thế giới ước đạt 13,14 triệu 
ha, cung cấp khoảng 12,31 triệu tấn cao su thiên 
nhiên, được tiêu thụ 12,17 triệu tấn, chiếm 45,5% 
tổng nhu cầu cao su của thị trường, còn lại là cao 
su tổng hợp sản xuất từ dầu thô chiếm khoảng 
54,5%, đạt 14,56 triệu tấn (IRSG, 4 – 6/2016). 
Cây cao su được các nước trồng khẳng 
định là giải pháp tích cực để phát triển kinh tế 
kết hợp với cải thiện điều kiện xã hội và môi 
trường. 
Cây cao su mang lại việc làm và cải thiện 
thu nhập cho vùng nông thôn với quy mô rộng 
và liên tục trong năm. Nguồn thu ngoại tệ từ 
cây cao su không chỉ qua xuất khẩu nguyên liệu 
cao su thiên nhiên mà còn nhờ xuất khẩu sản 
phẩm cao su và đồ gỗ cao su. Ngành cao su đặc 
biệt thành công trong việc xóa đói, giảm nghèo, 
chuyển đổi tập quán du canh du cư, đốt rừng 
làm nương rẫy của đồng bào dân tộc ít người 
sang phương thức sản xuất định cư, định canh. 
Mạng lưới các nhà máy sơ chế mủ trong vùng 
trồng cao su đã tạo điều kiện phát triển cơ sơ hạ 
tầng vùng nông thôn (điện, cầu đường, trường 
học, trạm xá). Lượng gỗ từ vườn cao su thanh 
lý khi cây già có thể cung cấp 150 – 200 m3 gỗ 
tròn/ha, mang lại cho người trồng một khoản 
thu nhập thỏa đáng để tái canh cho chu kỳ sau, 
đồng thời, tạo nguồn nguyên liệu phát triển 
ngành chế biến đồ gỗ cao su, làm giảm áp lực 
nhập khẩu nguyên liệu gỗ hoặc hạn chế việc 
phá rừng lấy gỗ. Cây cao su còn đóng góp vào 
việc bảo vệ môi trường qua khả năng che phủ 
đất chống xói mòn và tăng độ ẩm, duy trì dinh 
dưỡng của đất giúp năng suất của cây cao su 
vẫn được đảm bảo sau 3 – 4 chu kỳ tái canh 
trong hơn 100 năm qua. Cây cao su là nơi hấp 
thu khí các-bon góp phần giảm khí thải gây 
hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu với khả 
năng gần bằng cây rừng.
Giá cao su thiên nhiên tăng liên tục từ 
năm 2002 đến 2011, đã đạt mức đỉnh điểm vào 
năm 2011 (chủng loại SMR 20 của Malaysia đạt 
4.472 kg/tấn). Thời kỳ giá cao này đã thúc đẩy 
nhiều nước mở rộng diện tích cây cao su trong 
những năm 2005 – 2013 và diện tích này làm sản 
lượng cao su thiên nhiên tăng đáng kể khi được 
thu hoạch từ năm 2012. Cung vượt cầu liên tiếp 
trong các năm 2012 – 2014 đã làm lượng cao su 
thiên nhiên tồn kho tăng cao và gây áp lực đẩy 
giá giảm từ năm 2012 đến nay. 
Hiện nay, nhiều nước đang tìm cách cân 
đối cung cầu cao su thiên nhiên bằng cách kiềm 
chế sản lượng xuất khẩu và tăng tiêu thụ trong 
nước để chế biến sản phẩm cao su trong những 
ứng dụng mới (phủ mặt đường, gạch cao su, 
thảm sàn, đập thủy lợi). Đồng thời, gỗ cao su 
được sử dụng vào sản xuất đồ gỗ nội thất cao 
cấp để có thêm nguồn thu giúp người trồng ứng 
phó với thời kỳ giá mủ cao su giảm sâu. 
2. HIỆN TRẠNG CHUỖI GIÁ TRỊ CAO SU 
LIÊN VÙNG TÂY NGUYÊN 
Vùng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon 
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. 
Tây Nguyên có tiềm năng lớn về phát triển 
nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông 
lâm sản, du lịch, thủy điện, khoáng sản bô-xít. 
Nông nghiệp Tây Nguyên đã phát triển mạnh 
thành những vùng sản xuất hàng hóa xuất khẩu 
có năng lực cạnh tranh cao như cà phê, cao su, 
27
phẩm và kinh doanh xuất nhập khẩu đã được 
hình thành. 
Năm 2017, diện tích cao su tại Tây Nguyên 
đạt 249 ngàn ha (chiếm 25,7% tổng diện tích cao 
su cả nước), sản lượng 215,4 ngàn tấn (19,7% so 
với cả nước) và năng suất 1.412 kg/ha (84,2% so 
với năng suất trung bình của cả nước). Trong đó, 
diện tích cao su quốc doanh khoảng 122,6 ngàn 
ha, cao su thuộc doanh nghiệp tư nhân khoảng 
39,2 ngàn ha và cao su tiểu điền khoảng 87,1 
ngàn ha. Tỉnh Gia Lai có diện tích và sản lượng 
cao su nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, đạt 100 
ngàn ha và gần 95 ngàn tấn năm 2017.
hồ tiêu, tạo cơ sở để Tây Nguyên phát triển 
các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực, gắn kết từ 
khâu nông nghiệp đến công nghiệp chế biến 
sâu, góp phần nâng cao giá trị của một số mặt 
hàng nông nghiệp Việt Nam và phát triển kinh 
tế xã hội liên vùng trong quá trình tái cơ cấu 
kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở 
Việt Nam.
Trong thời gian qua, vùng cao su Tây 
Nguyên đã trở thành vùng trọng điểm thứ hai 
sau vùng cao su Đông Nam Bộ. Chuỗi giá trị 
ngành hàng cao su tại Tây Nguyên từ khâu trồng 
trọt đến sơ chế, chế biến nguyên liệu thành sản 
Bảng 1. Thống kê diện tích, sản lượng, năng suất cây cao su vùng Tây Nguyên năm 2017
Tỉnh Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (kg/ha)
Quốc 
doanh
Tư 
nhân
Tiểu 
điền
Cộng
Quốc 
doanh
Tư 
nhân
Tiểu 
điền
Cộng
Quốc 
doanh
Tư 
nhân
Tiểu 
điền
Trung 
bình
Kon 
Tum
30.011 15.447 29.298 74.756 27.107 884 25.584 53.575 1.540 1.410 1.421 1.479
Gia Lai 61.692 16.631 22.033 100.356 58.479 10.738 25.742 94.958 1.396 1.265 1.242 1.335
Đắk Lắk 23.794 - 14.587 38.381 26.968 - 10.200 37.168 1.600 - 1.373 1.531
Đắk 
Nông
5.639 1.684 19.025 26.348 2.085 - 24.481 26.566 1.069 - 1.467 1.425
Lâm 
Đồng
1.510 5.475 2.188 9.173 - 1.392 1.715 3.107 - 1.392 1.374 1.382
Tây 
Nguyên
122.646 39.237 87.131 249.014 114.639 13.014 87.721 215.374 1.464 1.286 1.369 1.412
Cả 
nước
405.589 69.063 495.033 969.685 375.254 41.050 678.214 1.094.519 1.626 1.579 1.711 1.676 
Tỷ lệ so 
cả nước 
(%)
30,2 56,8 17,6 25,7 30,5 31,7 12,9 19,7 90,0 81,4 80,0 84,2
Nguồn: Hiệp hội Cao su Việt Nam tổng hợp từ nguồn Tổng cục Thống kê, các Cục thống kê
Trong khâu trồng và sản xuất nguyên liệu 
cao su thiên nhiên, có 25 doanh nghiệp quy mô 
lớn và vừa, trong đó, 15 doanh nghiệp thuộc 
Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) 
(Phụ lục 1).
Về lĩnh vực sơ chế cao su thiên nhiên, có 
23 nhà máy. Ngoài ra, còn có một số nhà máy tư 
nhân sơ chế cao su quy mô nhỏ, góp phần đáp 
ứng nhu cầu sơ chế cao su toàn vùng (Phụ lục 2). 
Năm 2017, có 17 doanh nghiệp tại Tây 
Nguyên tham gia xuất khẩu, ủy thác xuất khẩu 
mặt hàng cao su thiên nhiên so với tổng số 245 
doanh nghiệp xuất khẩu cao su của cả nước (Phụ 
lục 3). Trong đó, Công ty TNHH Vạn Lợi (Kon 
Tum) là doanh nghiệp xuất khẩu cao su thiên 
nhiên đứng thứ hai năm 2017 về kim ngạch.
Phát triển chế biến các sản phẩm...
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Các doanh nghiệp chế biến sản phẩm cao 
su trong vùng Tây Nguyên chưa nhiều, hiện có 2 
doanh nghiệp ở quy mô nhỏ (Phụ lục 4). 
Ngoài ra, còn có 8 doanh nghiệp chế biến 
gỗ cao su giúp nâng cao giá trị cho chuỗi cung 
ứng của ngành hàng cao su trong vùng Tây 
Nguyên (Phụ lục 5).
Liên kết giữa doanh nghiệp Tây Nguyên 
và doanh nghiệp của các vùng kinh tế khác trong 
lĩnh vực cao su đã bước đầu được hình thành, 
chủ yếu là những mô hình cung cấp nguyên liệu 
cao su thiên nhiên và gỗ cao su sơ chế cho các 
nhà sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu ở những 
nơi gần cảng biển như Thành phố Hồ Chí Minh 
(và các tỉnh lân cận), vùng kinh tế trọng điểm 
miền Trung, vùng thủ đô Hà Nội và vùng duyên 
hải Bắc Bộ (chủ yếu Hải Phòng). Trong đó, tiêu 
thụ nhiều nhất là những nhà sản xuất lốp xe như 
Công ty CP Cao su Đà Nẵng, Công ty TNHH 
Cao su Camel Việt Nam (Quảng Trị), Công ty 
CP Cao su Sao Vàng (Hà Nội), Công ty TNHH 
Kinh doanh Lốp xe Bridgestone Việt Nam (Hải 
Phòng), Công ty CP Công nghiệp Cao su Miền 
Nam – Casumina (TP.HCM), Công ty TNHH 
Sailun Việt Nam (Tây Ninh) và những doanh 
nghiệp chế biến gỗ cao su, sản xuất ván gỗ MDF 
(Công ty CP gỗ MDF VRG Quảng Trị, Công 
ty CP gỗ MDF VRG Dongwha – Bình Phước, 
Công ty CP gỗ MDF VRG Kiên Giang) (Phụ 
lục 6).
Vùng Tây Nguyên còn có thế mạnh trong 
liên kết phát triển kinh tế của khu vực Tam 
giác phát triển (Việt Nam – Lào – Campuchia). 
Thông qua các cửa khẩu quốc tế, nguồn cao su 
nguyên liệu từ các dự án của doanh nghiệp Việt 
Nam tham gia trồng cao su tại Campuchia và 
Lào được trung chuyển về Việt Nam (Phụ lục 7).
Nhìn chung, chuỗi giá trị ngành cao su tại 
vùng Tây Nguyên đã bao gồm các khâu cơ bản 
từ trồng, sản xuất, sơ chế nguyên liệu đến chế 
biến sản phẩm và kinh doanh phân phối, nhưng 
chủ yếu chỉ tập trung ở khâu sản xuất, xuất khẩu 
nguyên liệu thô, trong khi đó khâu công nghiệp 
chế biến sâu còn yếu nên giá trị gia tăng của ngành 
cao su tại Tây Nguyên chưa cao. Tuy nhiên, hợp 
tác kinh doanh giữa một số doanh nghiệp đã phát 
triển trong thời gian gần đây, bước đầu hình thành 
mối liên kết giữa vùng Tây Nguyên với những 
vùng kinh tế trọng điểm trong nước và hai nước 
láng giềng Lào, Campuchia, giúp tiêu thụ tốt các 
sản phẩm chính của cây cao su là mủ cao su và 
gỗ cao su. Các khu công nghiệp tại Tây Nguyên 
đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp ngành 
cao su có cơ sở hạ tầng thích hợp để sản xuất, chế 
biến công nghiệp sản phẩm cao su và đồ gỗ cao 
su. Đây là những tiền đề để phát triển chuỗi giá 
trị ngành hàng cao su tại vùng Tây Nguyên và tạo 
điều kiện cho ngành cao su đóng góp vào sự phát 
triển liên vùng Tây Nguyên.
2.1. Thuận lợi và cơ hội cho cao su Tây 
Nguyên 
- Thị trường cao su thiên nhiên có triển 
vọng phát triển lâu dài do nhu cầu của thế giới 
được dự báo vẫn tăng liên tục dù tốc độ không 
cao nhưng ổn định và cao su thiên nhiên được 
xem là nguồn nguyên liệu “xanh” do có thể tái 
tạo qua các chu kỳ tái canh. 
- Gỗ cao su là gỗ cây trồng, có nhu cầu 
ngày càng tăng trước đòi hỏi của xã hội không 
phá rừng lấy gỗ làm tác động đến sự biến đổi khí 
hậu toàn cầu. 
- Điều kiện sinh thái Tây Nguyên tuy còn 
một số yếu tố hạn chế nhưng cây cao su vẫn 
đạt hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, đặc biệt trên 
những vùng đất không có hoặc hiếm nguồn 
nước tưới.
- Vườn trồng cao su có khả năng trồng xen 
với các cây trồng khác hoặc cây rừng và kết hợp 
chăn nuôi, giúp tăng thu nhập cho người trồng, 
giảm rủi ro khi giá biến động và duy trì sự đa 
dạng sinh học tại địa phương. 
- Về bảo vệ môi trường, cây cao su được 
đánh giá cao nhờ khả năng thu hút khí phát thải và 
tăng trữ lượng cac-bon, góp phần chống biến đổi 
khí hậu. Mặt khác, cây cao su là cây trồng thân 
thiện môi trường do không sử dụng nước tưới trên 
29
vườn sản xuất nên không làm giảm nguồn nước 
và sử dụng ít phân bón, ít hóa chất phòng trừ sâu 
bệnh so với cây trồng khác. Ngoài ra, bộ lá rụng 
hàng năm là nguồn phân bón hữu cơ cho cây cao 
su và những cây trồng xen. 
- Các nhà máy chế biến cao su, gỗ cao su 
phát triển đồng hành cùng với diện tích cây cao 
su đã và đang cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội 
cho vùng Tây Nguyên, góp phần định canh định 
cư cho đồng bào dân tộc, ổn định việc làm cho 
người dân đến từ tỉnh thành khác và tăng cường 
an ninh quốc phòng trong vùng. 
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc 
đẩy cao su Tây Nguyên hướng đến việc đảm bảo 
chất lượng để tham gia vào chuỗi cung ứng cao 
su toàn cầu và tái cơ cấu sản phẩm để nâng cao 
giá trị gia tăng, chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu 
thô sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu và từ 
xuất khẩu qua ủy thác sang xuất khẩu trực tiếp.
- Khi tham gia vào các hiệp định thương 
mại tự do, đặc biệt vào Hiệp định Đối tác Xuyên 
Thái Bình Dương (TPP), cao su Việt Nam và 
cao su Tây Nguyên có lợi thế thu hút các nhà 
đầu tư nước ngoài do các nước thành viên trong 
hiệp định áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu 0% 
khi hàng hóa sản xuất tại Việt Nam. Từ đó, các 
khu công nghiệp của Việt Nam và Tây Nguyên 
có cơ hội đón tiếp các nhà đầu tư nước ngoài 
nhiều hơn để tận dụng lợi thế về thuế quan và 
nguyên liệu phong phú tại địa phương.
- Phát triển cao su Tây Nguyên còn tạo 
động lực để thực hiện thành công chủ trương 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông 
thôn và Chương trình xây dựng nông thôn mới 
của quốc gia. Đến năm 2017, bên cạnh 249.000 
ha được phủ xanh vùng đất Tây Nguyên, tạo ra 
việc làm cho hơn 140.000 lao động (công nhân 
và nông dân), đã có 23 nhà máy sơ chế mủ cao 
su được thành lập và 8 doanh nghiệp chế biến gỗ 
cao su giúp nâng cao giá trị cho chuỗi cung ứng 
cao su trong vùng Tây Nguyên. 
Từ thực tế nhiều năm qua cho thấy, sự 
phát triển vùng chuyên canh cao su luôn gắn 
liền với sự hình thành và phát triển các khu vực 
dân cư mới và khu vực hành chính địa phương, 
với ý nghĩa đó sự phát triển cây cao su không 
những chỉ có vai trò về mặt kinh tế, xã hội mà 
còn góp phần đắc lực trong việc xây dựng nông 
thôn mới và thực hiện các nội dung về CNH-
HĐH. Đồng thời phát triển cây cao su ở Việt 
Nam nói chung và ở các tỉnh dọc theo biên giới 
giáp với Campuchia, Lào, cũng như dự án đầu 
tư cao su ở nước bạn Lào và Cămphuchia còn có 
ý nghĩa to lớn trong việc tăng cường bảo vệ an 
ninh quốc gia trong bối cảnh hiện nay. 
2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong 
quá trình phát triển chuỗi giá trị ngành cao 
su tại vùng tây nguyên 
Tuy đạt được nhiều thành tựu khẳng định 
khu vực Tây Nguyên chiếm vị thế thứ hai của 
ngành cao su Việt Nam, chỉ sau vùng cao su 
truyền thống Đông Nam Bộ, nhưng hiện nay, 
vẫn còn những khó khăn, vướng mắc làm hạn 
chế tiềm năng của ngành cao su tại Tây Nguyên 
so với các vùng khác. 
- Điều kiện môi trường của Tây Nguyên 
có một số yếu tố ít thuận lợi cho cây cao su phát 
triển so với vùng Đông Nam Bộ, do đó, năng 
suất cây cao su thường thấp hơn. 
- Nguyên liệu cao su thiên nhiên sản xuất 
tại Tây Nguyên chủ yếu để xuất khẩu, một phần 
trực tiếp và một phần qua ủy thác, nên giá trị thu 
được thấp hơn so với tiềm năng. Cơ cấu chủng 
loại cao su thiên nhiên chưa đa dạng, phần lớn 
xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nên chịu 
ảnh hưởng lớn của thị trường này.
- Chất lượng cao su thiên nhiên của vùng 
Tây Nguyên chưa ổn định, chưa đồng đều, do 
vậy, khách hàng nhập khẩu và doanh nghiệp 
trong nước chưa ưu tiên chọn lựa so với cao su 
Đông Nam Bộ. 
- Đầu tư cho công nghiệp chế biến sản 
phẩm cao su và đồ gỗ cao su trong vùng Tây 
Nguyên còn ít và quy mô nhỏ. 
- Việc xây dựng thương hiệu ít được doanh 
nghiệp trong vùng Tây Nguyên quan tâm.
Phát triển chế biến các sản phẩm...
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
- Chính sách thuế giá trị gia tăng trong 
khâu kinh doanh thương mại đối với cao su sơ 
chế chưa được áp dụng như những nông sản 
sơ chế khác đã gây nhiều khó khăn cho doanh 
nghiệp xuất khẩu do phát sinh chi phí vay vốn 
trong khi chờ đợi hoàn thuế. Thực chất, thuế giá 
trị gia tăng trong khâu kinh doanh thương mại 
là thuế gián thu, Nhà nước thu trước và hoàn 
sau cho doanh nghiệp, gây tốn kém về thời gian, 
nhân lực và dễ bị thất thoát do gian lận trong 
khâu kê khai, hoàn thuế.
3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 
CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH CAO SU LIÊN 
VÙNG TÂY NGUYÊN VÀ HỘI NHẬP KINH 
TẾ QUỐC TẾ.
Để vượt qua khó khăn do giá thấp kéo 
dài nhiều năm cũng như ứng phó thành công 
với những thách thức phải đối diện và tận 
dụng các cơ hội mang đến, ngành cao su cần 
chủ động xây dựng chiến lược phát triển và kế 
hoạch hành động phù hợp, hiệu quả trong giai 
đoạn mới hội nhập kinh tế quốc tế cho cao su 
Tây Nguyên.
Với mục tiêu nâng cao chuỗi giá trị ngành 
hàng cao su vùng Tây Nguyên và sự đóng góp 
của ngành cao su vào sự phát triển của liên vùng 
Tây Nguyên, bên cạnh những chính sách vĩ mô 
của Nhà nước quy hoạch cho các ngành nghề 
trong toàn vùng và liên vùng, cần có những giải 
pháp của Nhà nước, địa phương và Bộ, ngành để 
hỗ trợ, tạo cơ chế, chính sách cụ thể cho ngành 
cao su, khuyến khích phát triển các mối liên kết 
giữa các doanh nghiệp và tăng cường hiệu quả sự 
hợp tác phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi 
trường giữa vùng Tây Nguyên, các vùng kinh tế 
trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế. 
Những kiến nghị được đề xuất như sau:
Quy hoạch ổn định diện tích cây cao su 
trong những vùng có điều kiện sinh thái phù hợp 
và cân đối năng lực về sản lượng, xuất khẩu với 
nhu cầu của thị trường nhằm góp phần cải thiện 
giá cao su, tham gia vào các chương trình phủ 
xanh đất, phục hồi rừng và bảo vệ rừng.
Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu 
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật để cây 
cao su tăng năng suất về mủ cao su và cả về gỗ 
cao su nhằm tăng hiệu quả kinh tế và trữ lượng 
cac-bon, phát huy vai trò như cây rừng trong thu 
hút khí phát thải, làm giảm tác động tiêu cực của 
biến đổi khí hậu.
Chuyển phương thức độc canh cây cao 
su sang đa canh trong những mô hình xen canh 
và nông lâm kết hợp có hiệu quả, giúp đa dạng 
nguồn thu nhập, giảm rủi ro về thị trường và 
giữ được sự đa dạng sinh học của địa phương, 
đồng thời, giảm xói mòn đất trên vùng có độ 
dốc cao.
Tăng cường công tác quản lý chất lượng 
cao su thiên nhiên Việt Nam để nâng cao 
năng lực cạnh tranh và giá trị của cao su Tây 
Nguyên để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng 
cao su toàn cầu.
Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện những hoạt 
động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại 
mở rộng nguồn khách hàng, tránh lệ thuộc vào 
một số ít thị trường truyền thống. Nâng cao kiến 
thức hội nhập kinh tế quốc tế cho doanh nghiệp 
nhằm tận dụng những cơ hội kinh doanh và thuế 
quan ưu đãi.
Thành lập sự liên kết giữa các doanh 
nghiệp lớn trong chuỗi giá trị ngành hàng cao 
su liên vùng Tây Nguyên, phát huy thế mạnh 
của các bên nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho 
ngành cao su và phát triển liên vùng, thúc đẩy 
chương trình “Người Việt Nam dùng hàng Việt 
Nam”. Tiếp tục củng cố, phát triển sự hợp tác 
giữa Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam và 
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, ổn định việc cung 
cấp và tiêu thụ nguồn nguyên liệu cao su trong 
sản xuất săm lốp. 
Có chính sách ưu đãi cho các doanh 
nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp chế biến 
sản phẩm cao su và gỗ cao su như giảm thuế thu 
nhập doanh nghiệp, giảm thuế đất, không phải 
kê khai tính nộp thuế giá trị gia tăng trong khâu 
kinh doanh thương mại
31
Xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng 
cao su cả nước và hỗ trợ doanh nghiệp vùng Tây 
Nguyên đảm bảo chất lượng cao su thiên nhiên 
(đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn công 
nghệ).
Tạo điều kiện cho Viện Nghiên cứu Cao 
su Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên 
cứu, chuyển giao giống mới cao sản cả mủ và 
gỗ, tiến bộ kỹ thuật và các mô hình xen canh 
trên vườn cao su để tăng năng suất cây cao su 
và đa dạng hóa nguồn thu nhập, giảm thiểu rủi 
ro cho người trồng trong điều kiện nguồn cung 
cao su thế giới vượt cầu, gây nhiều biến động 
về giá.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, 
quảng bá nguồn cao su thiên nhiên vùng Tây 
Nguyên đến với các nhà công nghiệp trong 
nước và quốc tế. Hỗ trợ thực hiện việc khảo sát, 
nghiên cứu thị trường để có cơ sở chuyển đổi 
cơ cấu nguyên liệu cao su thiên nhiên phù hợp 
với nhu cầu của công nghiệp chế biến sâu trong 
nước và quốc tế, cân đối công suất các nhà máy 
và vùng nguyên liệu, đồng thời, định hướng cho 
các sản phẩm chủ lực của công nghiệp chế biến 
cao su và gỗ cao su. Hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng 
và bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệp, tiến 
đến xây dựng thương hiệu ngành. 
4. KẾT LUẬN 
Ngành cao su tại Tây Nguyên đã hình 
thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung và lớn 
thứ hai trong cả nước, với diện tích hiện nay 
trên 249 ngàn ha và sản lượng trên 215 ngàn 
tấn (25,7% diện tích và 19,7% sản lượng của 
cả nước), có sự tham gia của những thành phần 
kinh tế chủ lực từ doanh nghiệp quốc doanh, 
doanh nghiệp tư nhân và nông hộ tiểu điền, tạo 
nguồn nguyên liệu quan trọng về cao su thiên 
nhiên và gỗ cao su cho các nhà công nghiệp 
chế biến sâu trong nước và nước ngoài. Đó là 
những điều kiện cơ bản đã giúp ngành cao su 
tại Tây Nguyên tạo nên chuỗi giá trị sản phẩm 
nông nghiệp chủ lực của vùng, liên kết phát 
triển kinh tế xã hội với các vùng khác trong 
nước và nước ngoài, góp phần nâng cao sức 
cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam trên thị 
trường trong nước và quốc tế. 
Để chuỗi giá trị của ngành cao su được 
nâng cao hơn nữa và đóng góp hiệu quả cao hơn 
vào sự phát triển vùng kinh tế Tây Nguyên và 
liên vùng Tây Nguyên, hướng đến các mục tiêu 
theo Quy hoạch xây dựng vùng Tây Nguyên 
đến năm 2030 theo Quyết định số 1194/QĐ-
TTg ngày 22/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ, 
bên cạnh chiến lược tái cơ cấu kinh tế chung 
cho toàn vùng, đặc biệt là theo ngành và lĩnh 
vực, ngành cao su cần được Chính phủ, các Bộ, 
ngành và địa phương quan tâm giải quyết những 
kiến nghị trên và tiếp tục hỗ trợ ngành cao su 
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để tiến đến phát 
triển bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế, 
góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển liên 
vùng Tây Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Chính phủ, 2013. Phê duyệt Đề án 
tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt 
Nam giai đoạn 2012 – 2015. Quyết định số 
38/QĐ-TTG, ngày 05/01/2013.
2. Thủ tướng Chính phủ, 2013. Quyết định phê 
duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp 
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát 
triển bền vững. Quyết định số 899/QĐ-TTg, 
ngày 10/6/2013.
3. Thủ tướng Chính phủ, 2014. Quyết định phê 
duyệt chiến lược phát triển công nghiệp Việt 
Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. 
Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09/6/2014. 
4. Chu Quỳnh Nhựt Thiện, 2013. Exporting 
rubber tires of Vietnam. Graduation Thesis, 
Foreign Trade University, Ho Chi Minh City 
Campus, .
5. Insdustrial Estate Authority of Thailand, 2016. 
Rubber City Industrial Estate. Nguồn: http://
www.ieat.go.th/en/rubbercity, 16/4/2016.
Phát triển chế biến các sản phẩm...

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_che_bien_cac_san_pham_cao_su_khu_vuc_tay_nguyen_t.pdf