Phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế - Xã hội thời đại cách mạng công nghiệ

Trong mọi thời đại, nguồn lực con người luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu

đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc và điều này lại càng đúng

đắn trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Do đó đối với Việt Nam,

việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người, nâng cao tính tích cực xã hội, khơi

dậy, huy động sức mạnh trí tuệ và tiềm năng sáng tạo của con người được coi là

“khâu đột phá chiến lược”, quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

pdf 11 trang kimcuc 16861
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế - Xã hội thời đại cách mạng công nghiệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế - Xã hội thời đại cách mạng công nghiệ

Phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế - Xã hội thời đại cách mạng công nghiệ
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
42 
PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM 
TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 
THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
 Phạm Thị Minh Nguyệt1 
TÓM TẮT 
Trong mọi thời đại, nguồn lực con người luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu 
đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc và điều này lại càng đúng 
đắn trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Do đó đối với Việt Nam, 
việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người, nâng cao tính tích cực xã hội, khơi 
dậy, huy động sức mạnh trí tuệ và tiềm năng sáng tạo của con người được coi là 
“khâu đột phá chiến lược”, quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu 
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Từ khóa: Nguồn lực con người, cách mạng công nghiệp 4.0 
1. Mở đầu 
Bài học phát triển của các quốc gia 
trên thế giới đã chỉ rõ: quốc gia nào có 
chiến lược bồi dưỡng và phát huy 
nguồn lực con người tốt thì quốc gia đó 
đạt được sự phát triển nhanh và bền 
vững. Nhật Bản, Singapore, Hàn 
Quốc chính là những minh chứng 
điển hình. Chính nguồn lực con người 
với hệ thống quyết sách xây dựng và 
phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, 
hiệu quả là cơ sở, nền tảng quan trọng 
nhất đưa các nước này từ chỗ nghèo 
nàn, lạc hậu, tài nguyên khan hiếm trở 
thành những quốc gia phát triển thịnh 
vượng, bền vững chỉ trong vòng hơn 
kém ba thập kỷ. 
Trong giai đoạn hiện nay, những tác 
động mạnh mẽ đa chiều, đa phương 
diện của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế 
cùng với sự bùng nỗ và lan rộng của 
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm 
cho thế giới thay đổi một cách nhanh 
chóng và hết sức phức tạp. Chính bối 
cảnh mới này cũng đã một lần nữa 
khẳng định: mô hình, chiến lược phát 
triển nhanh, bền vững dựa trên nền tảng 
bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con 
người đã, đang và sẽ là lựa chọn hàng 
đầu đối với các quốc gia trên thế giới, 
nhất là các nước đang phát triển. Với 
Việt Nam, một nước đi sau, muốn đi tắt 
đón đầu để tăng tốc phát triển, từng 
bước hội nhập và bắt kịp với sự tiến bộ 
của thế giới thì không còn con đường 
nào khác ngoài việc “khai thác và sử 
dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong 
đó nguồn lực con người là quý báu 
nhất, có vai trò quyết định” [1, tr. 11] và 
“nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát 
huy nguồn lực to lớn của con người 
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng 
lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa” [1, tr. 21]. 
2. Nội dung 
2.1. Vai trò của nguồn lực con 
người trong sự nghiệp xây dựng và 
phát triển đất nước ta hiện nay 
Nguồn lực con người (hay còn gọi 
là nguồn nhân lực, nhân tố con người) 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: phamminhnguyet155@yahoo.com.vn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
43 
là tổng thể các yếu tố về thể chất, trí 
tuệ, đạo đức, ý thức trách nhiệm, năng 
lực chuyên môn, thái độ, tác phong lao 
động tạo nên năng lực sáng tạo của 
con người, của cộng đồng người có thể 
huy động vào quá trình phát triển xã hội 
theo hướng tiến bộ, văn minh. Nói tới 
nguồn lực con người chính là nói tới 
con người với tư cách là chủ thể sáng 
tạo, cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã 
hội, bao gồm chất lượng và số lượng 
nguồn lực con người. Chất lượng nguồn 
lực con người được thể hiện chủ yếu 
qua các yếu tố: tình trạng thể chất – sức 
khỏe, trình độ học vấn, năng lực, đạo 
đức, ý thức trách nhiệm, năng lực 
chuyên môn, khả năng thích ứng với 
môi trường làm việc, thái độ, tác phong 
nghề nghiệp Số lượng nguồn lực con 
người được xác định qua các chỉ tiêu về 
quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng của 
nguồn lực con người, cơ cấu độ tuổi, sự 
tiếp nối của các thế hệ, giới tính, sự 
phân bố dân cư giữa các vùng miền của 
đất nước, giữa các ngành, các lĩnh vực 
của đời sống xã hội. Chất lượng và số 
lượng của nguồn lực con người có quan 
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chất 
lượng nguồn lực con người đóng vai trò 
quyết định. 
Trong mọi thời đại, đặc biệt là thời 
đại ngày nay, khi nhân loại đang bước 
vào thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 
với sự phát triển như vũ bão của khoa 
học - công nghệ thì nguồn lực con 
người, hơn cả là nguồn nhân lực chất 
lượng cao, lại càng khẳng định vai trò 
to lớn của mình đối với sự phát triển 
của đất nước. Có thể khẳng định vai trò 
quan trọng không thể thay thế của 
nguồn lực con người tập trung ở một số 
luận điểm cơ bản sau: 
Thứ nhất, nguồn lực con người là 
nguồn lực quyết định nhất trong các 
nguồn lực của sự phát triển đất nước. 
Sự phát triển của mỗi quốc gia cần 
đến tổng thể các nguồn lực khác nhau, 
như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao 
động... trong đó nguồn lực con người là 
nguồn lực quyết định nhất. Các yếu tố 
như tài nguyên thiên nhiên, vốn qua 
quá trình khai thác, sử dụng sẽ dần cạn 
kiệt theo thời gian. Nhưng nguồn lực 
con người thì khác, nó có giá trị vô tận, 
vô hạn, có thể khai thác không bao giờ 
cạn. Hơn nữa, tài nguyên thiên nhiên, 
vốn là các nguồn lực ở dạng tiềm 
năng, chỉ khi được kết hợp với nguồn 
lực con người thì các nguồn lực đó mới 
có thể phát huy được giá trị của nó. Nền 
sản xuất ngày càng hiện đại, xã hội 
ngày càng văn minh thì xét đến cùng, 
mỗi bước tiến ấy đều bắt nguồn từ 
chính sự phát triển của lực lượng sản 
xuất, trong đó quyết định và quan trọng 
nhất là dựa vào sự huy động và khai 
thác một cách hiệu quả nguồn lực con 
người. Do vậy quá trình xây dựng, phát 
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, 
như Đảng ta nhấn mạnh: “Chúng ta cần 
hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý 
nghĩa quyết định của nhân tố con người, 
chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn 
của cải vật chất và văn hóa, mọi nền 
văn minh của mọi quốc gia” [2]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
44 
Thứ hai, nguồn lực con người là 
một trong những yếu tố quyết định 
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa ở nước ta. 
Ở Việt Nam, thực hiện thắng lợi sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước là nhiệm vụ trọng tâm về kinh 
tế trong suốt thời kỳ quá độ. Tất yếu là 
tốc độ, kết quả của tiến trình đó phụ 
thuộc chủ yếu vào người lao động và 
chính xác là trình độ văn hóa, tri thức, 
trí tuệ, học vấn, năng lực chuyên môn 
của người lao động; bỡi lẽ “việc điện 
khí hóa không thể do những người mù 
chữ thực hiện được” [3, tr. 364] và 
“không thể xây dựng một xã hội cộng 
sản trong một nước có những người mù 
chữ” [3, tr. 374]. Là một nước đi sau, 
trong điều kiện khoa học – công nghệ 
phát triển theo cấp số nhân và “không 
có tiền lệ trong lịch sử” [4] cùng với 
quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế 
không biên giới như hiện nay, Việt 
Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để 
đi tắt, đón đầu, tranh thủ những kinh 
nghiệm thực tiễn, các thành tựu khoa 
học mới, những phát minh, sáng chế 
tiên tiến để từng bước chuyển đổi từ 
một nền sản xuất thủ công, lạc hậu sang 
nền sản xuất công nghiệp hiện đại, tăng 
tốc phát triển bắt kịp với xu thế của thời 
đại. Tuy nhiên việc nhận diện và tận 
dụng thời cơ được đến đâu, tốc độ và 
kết quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đạt được đến mức độ nào 
là phụ thuộc một cách quyết định vào 
phát huy vai trò nhân tố chủ quan của 
nguồn lực con người. 
Thứ ba, nguồn lực con người, đặc 
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, 
là yếu tố nền tảng cho sự phát triển 
nhanh, bền vững và là điều kiện cơ bản 
cho hội nhập quốc tế. 
Thực tiễn lịch sử phát triển của 
nhân loại cho thấy, nguồn lực con người 
vừa là chủ thể phát triển vừa là trung 
tâm của chiến lược và chính sách phát 
triển của mọi quốc gia. Nguồn lực con 
người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất 
lượng cao, là sự tổng hòa, hội tụ, kết 
tinh giữa truyền thống, kinh nghiệm, trí 
tuệ của mỗi dân tộc với tinh hoa tri thức 
nhân loại, tạo thành sức mạnh thực tiễn 
của lực lượng lao động toàn xã hội 
trong quá trình không ngừng sáng tạo, 
đổi mới phương thức lao động sản xuất, 
nâng cao năng suất, chất lượng lao 
động, tạo ra của cải vật chất và tinh thần 
phục vụ cho nhu cầu phát triển hiện tại 
và tương lai của mọi quốc gia. Ðiều này 
lại càng đúng đắn hơn trong thời đại 
ngày nay, khi mà khoa học và công 
nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp, kinh tế tri thức ngày càng 
chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế - 
xã hội của mọi quốc gia - dân tộc; khi 
mà sức mạnh kinh tế và lợi thế cạnh 
tranh trong xu thế toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế chủ yếu dựa vào tốc độ gia 
tăng năng suất lao động trên nền tảng 
công nghệ, tri thức, tư duy đổi mới và 
năng lực sáng tạo của chính nguồn lực 
con người, đặc biệt là nguồn nhân lực 
chất lượng cao. Năng suất lao động 
không chỉ là thước đo năng lực, hiệu 
quả của nền sản xuất, là động lực thúc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
45 
đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và 
bền vững mà còn tăng cường năng lực 
cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả 
nền kinh tế trong điều kiện hội nhập 
quốc tế và cạnh tranh gay gắt. Vì vậy 
Việt Nam, trong công cuộc đổi mới, 
phát triển và hội nhập vì mục tiêu dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh hiện nay, cùng với tranh thủ 
tối đa yếu tố ngoại lực, phải phát huy 
cao độ tổng thể các yếu tố nội lực, trong 
đó cốt lõi và then chốt là phát huy nhân 
tố con người, coi đó là yếu tố cơ bản 
cho sự phát triển nhanh, bền vững và 
hội nhập quốc tế. 
2.2. Cách mạng công nghiệp 4.0 
và một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn 
lực con người Việt Nam 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ tư hay “Công nghiệp 4.0” lần đầu 
tiên được đề cập tại Hội chợ Công nghệ 
Hannover ở Cộng hòa Liên bang Đức 
năm 2011 và đã được Chính phủ Liên 
bang Đức cùng giới nghiên cứu và các 
hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức 
hiện thực hóa trong bản “Kế hoạch hành 
động chiến lược công nghệ cao” năm 
2012 nhằm cải thiện quy trình quản lý 
và sản xuất trong các ngành chế tạo 
thông qua “điện toán hóa”. Sau đó, 
thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp 4.0” 
đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia 
phát triển và nhanh chóng lan rộng khắp 
thế giới khi nó được kỳ vọng sẽ đem lại 
một sự thay đổi toàn diện, đột phá về hệ 
thống sản xuất, quản lý và quản trị. 
Ra đời trên cơ sở kế thừa những 
thành tựu to lớn từ ba cuộc cách mạng 
công nghiệp trước đó, cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư chủ yếu diễn ra trên 
ba lĩnh vực chính: công nghệ sinh học, 
kỹ thuật số và vật lý học. Bản chất của 
cuộc cách mạng công nghiệp lần này là 
dựa trên nền tảng công nghệ số và tích 
hợp tất cả các công nghệ thông minh để 
tối ưu hóa quy trình, phương thức sản 
xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang 
và sẽ có tác động lớn nhất là: công nghệ 
in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ 
vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, 
người máy... Điều khác biệt giữa Công 
nghiệp 4.0 với ba cuộc cách mạng trước 
đó là nó không gắn với sự ra đời của 
một công nghệ nào cụ thể mà là kết quả 
hội tụ của nhiều công nghệ khác nhau 
và do đó ranh giới giữa các lĩnh vực: 
vật lý, kỹ thuật số và sinh học đã trở 
nên mờ nhạt. 
Theo nhìn nhận của các chuyên gia 
kinh tế thế giới, nếu với các cuộc cách 
mạng công nghiệp trước đó đã phát 
triển theo tốc độ cấp số cộng thì cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ phát 
triển đột phá theo cấp số nhân và sẽ 
“không có tiền lệ trong lịch sử” [4]. Với 
những biến đổi to lớn về khoa học công 
nghệ, cách mạng công nghiệp 4.0 đã và 
đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các 
quốc gia trên thế giới trên mọi lĩnh vực 
của đời sống xã hội. Không chỉ đem lại 
thuận lợi, cơ hội xen lẫn khó khăn, 
thách thức, cuộc cách mạng công 
nghiệp lần này cũng đặt ra không ít yêu 
cầu mới đối với mô hình phát triển kinh 
tế - xã hội cũng như chiến lược phát 
triển nguồn lực con người ở mỗi quốc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
46 
gia và Việt Nam không ngoại lệ. Hiện 
nay, nguồn lực con người Việt Nam cần 
phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản, cụ 
thể như sau: 
Một là, đảm bảo hợp lý về số lượng 
nguồn lực con người thông qua các chỉ 
tiêu về quy mô dân số, tốc độ tăng 
trưởng của nguồn lực con người, cơ cấu 
độ tuổi, sự tiếp nối của các thế hệ, giới 
tính, sự phân bố dân cư giữa các vùng 
miền của đất nước, giữa các ngành các 
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là 
tập trung ưu tiên đối với các vùng kinh 
tế trọng điểm và những lĩnh vực sản 
xuất mũi nhọn mà Việt Nam có lợi thế 
cạnh tranh. 
Hai là, phát triển và nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn 
nhân lực chất lượng cao với đội ngũ cán 
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ 
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, 
lao động lành nghề. Chất lượng nguồn 
lực con người không những là nhân tố 
quyết định tiến độ và kết quả của quá 
trình chuyển đổi, ứng dụng và phát triển 
khoa học - công nghệ vào sản xuất, từng 
bước cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi 
mô hình tăng trưởng kinh tế - xã hội của 
đất nước mà đây còn là lợi thế cạnh 
tranh quan trọng nhất để tham gia vào 
chuổi giá trị toàn cầu trong thời kỳ hội 
nhập quốc tế. Để có thể đáp ứng được 
yêu cầu của thời kỳ mới, nguồn lực con 
người Việt Nam cần phải được phát 
triển toàn diện về “nhân cách, đạo đức, 
trí tuệ và năng lực sáng tạo, thể chất, 
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ 
công dân, ý thức tuân thủ pháp luật” [5, 
tr. 29], “hiểu biết sâu sắc, tự hào tôn 
vinh lịch sử, văn hóa dân tộc” [5, tr. 
127]; đặc biệt hướng tới “hình thành 
những giá trị mới về con người với các 
phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức 
công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, 
khát vọng vươn lên” [5, tr. 123]. 
Ba là, quy hoạch, đào tạo, huy động 
sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lực 
con người để phát triển kinh tế - xã hội. 
Đào tạo nguồn nhân lực hướng tới đáp 
ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công 
nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh 
vực, ngành nghề. Quy hoạch, đào tạo và 
sử dụng nguồn nhân lực không chỉ thể 
hiện ở chỗ đào tạo nhân lực, phát hiện, 
bồi dưỡng, phát huy nhân tài, thu hút 
lao động vào các lĩnh vực lao động dựa 
theo nhu cầu thực tiễn của xã hội mà 
còn phát huy sức mạnh nội lực của mỗi 
người, khơi dậy và nâng cao tính tự 
giác, năng động, tự chủ, sáng tạo trong 
mỗi cá nhân, thúc đẩy mạnh mẽ tiến 
trình, tốc độ và kết quả của công cuộc 
xây dựng và phát triển đất nước. 
2.3. Vài nét về thực trạng và một 
số giải pháp cơ bản phát huy nguồn 
lực con người ở nước ta trong thời đại 
cách mạng công nghiệp 4.0 
2.3.1. Vài nét về thực trạng nguồn 
lực con người ở nước ta trong những 
năm qua 
Hiện nay, Việt Nam là đang trong 
thời kỳ “dân số vàng” với cơ cấu dân số 
trẻ, nguồn nhân lực dồi dào. Dân số 
trung bình năm 2016 của cả nước ước 
tính 92,7 triệu người, trong đó lực 
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
47 
nước đạt 54,8 triệu người, chiếm 
58,48% [6, tr. 75]. Nguồn lực lao động 
đang dần chuyển dịch theo hướng công 
nghiệp hóa: lao động khu vực nông, lâm 
nghiệp và thủy sản là 22,3 triệu người, 
chiếm 41,9%; khu vực công nghiệp và 
xây dựng là 13,2 triệu người, chiếm 
24,7%; khu vực dịch vụ 17,8 triệu 
người, chiếm 33,4,% [6, tr. 75]. Chất 
lượng nguồn n ... ang từng bước đáp 
ứng nhu cầu của xã hội. Số lượng nhân 
lực được tuyển để đào tạo ở các cấp 
tăng nhanh. Điều này có thể được xem 
như là một thành tựu quan trọng trong 
lĩnh vực đào tạo nhân lực. Lực lượng 
lao động được thu hút vào làm việc 
trong ngành, các lĩnh vực, các thành 
phần kinh tế khá cao. Theo báo cáo 
chính trị tại đại hội Đảng lần thứ XII, 
thị trường lao động có bước phát triển, 
trong 5 năm (2011 - 2015) “đã tạo việc 
làm cho khoảng 7,8 triệu người, trong 
đó đi lao động ở nước ngoài khoảng 469 
nghìn người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình 
quân khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối 
năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015. 
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ 
tuổi năm 2015 là 2,3%” [5, tr. 238-239]. 
Nhìn chung, trong những năm qua, 
việc phát huy nguồn lực con người phục 
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội 
của đất nước đã đạt được những kết quả 
nhất định. Song bên cạnh đó, những hạn 
chế, tồn tại là không tránh khỏi, trong 
đó nổi lên là “cơ cấu nguồn nhân lực 
mất cân đối, chất lượng nguồn nhân lực 
còn thấp; là những yếu tố cản trở sự 
phát triển” [5, tr. 60-61]. Phát triển 
nguồn nhân lực đang đối mặt với tình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
48 
trạng mất cân đối giữa các ngành nghề, 
giữa các lĩnh vực kinh tế và giữa địa 
phương, vùng miền trong cả nước. Sự 
phân bổ lao động theo ngành nghề cũng 
chưa hợp lý: các ngành kỹ thuật - công 
nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và 
chiếm tỷ trọng thấp, trong khi đó các 
ngành khoa học xã hội như: luật, kinh 
tế, ngoại ngữ... lại chiếm tỷ lệ khá cao. 
Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình 
trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Xét 
về mặt chất lượng nguồn lực con người, 
các phương diện về thể chất, tác phong 
công nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ 
năng lao động, năng lực sáng tạo vẫn 
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của 
nền công nghiệp hiện đại. Đây chính là 
những “điểm yếu” ở một bộ phận không 
nhỏ người lao động. Sức khỏe, thể chất 
nguồn lực con người hiện đang có sự 
“chênh lệch chỉ số sức khỏe giữa các 
vùng, miền còn lớn. Tỷ lệ suy dinh 
dưỡng thể thấp còi còn cao. Tầm vóc 
người Việt Nam chậm được cải thiện. 
Số năm sống khỏe chưa tăng tương ứng 
với tuổi thọ” [7]. Theo đánh giá của 
Ngân hàng Thế giới, trình độ chuyên 
môn, kỹ năng lao động của nguồn nhân 
lực Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều 
nước, đặc biệt là thiếu lao động có trình 
độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc 
cao. Khi so sánh với các nước trong khu 
vực, chất lượng nhân lực của Việt Nam 
chỉ đạt 3,79/10 điểm (xếp thứ 11/12 
nước châu Á tham gia xếp hạng của 
WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn 
Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan 
là 4,94... [8]. Thêm vào đó, sự thích ứng 
của người lao động với công việc chưa 
cao; khả năng tiếp nhận, ứng dụng và 
sáng tạo tri thức của người lao động còn 
thấp; năng lực làm việc theo nhóm, tính 
chuyên nghiệp, tính linh hoạt, năng lực 
xã hội, năng lực sử dụng ngoại ngữ còn 
rất hạn chế. Đội ngũ nhân lực chất 
lượng cao, công nhân lành nghề đang 
còn khoảng cách khá xa cả về số lượng 
và chất lượng so với nhu cầu phát triển 
các ngành kinh tế chủ lực của Việt 
Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá 
trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế 
của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó. 
Công tác quản lý nhà nước, nhất là các 
khâu quy hoạch, kế hoạch, định hướng 
phát triển nguồn nhân lực của các ngành 
vẫn còn yếu kém, khá manh mún và 
thiếu đồng bộ. Công tác dự báo nhu 
cầu, quy hoạch, đào tạo, sử dụng nguồn 
nhân lực trước mắt và dài hạn cho phát 
triển kinh tế - xã hội cũng như xây dựng 
khung tiêu chuẩn trình độ đối với người 
lao động chưa bám sát thực tế thị 
trường lao động trong nước và quốc tế. 
Theo dự báo của các chuyên gia, dưới 
tác động của những đột phá về công 
nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp 
4.0, trong tương lai không xa, nguồn lao 
động dồi dào, giá rẻ sẽ không còn là lợi 
thế của Việt Nam. Nhiều lao động trong 
các nhóm ngành, nghề chủ lực như 
nông nghiệp, kế toán, lắp ráp và sửa 
chữa thiết bị có thể bị thất nghiệp, 
đặc biệt lao động trong ngành dệt may 
và giày da sẽ đối mặt với nguy cơ mất 
việc cao nhất. Điều này sẽ gây thiệt hại 
rất lớn đối với nền kinh tế nước ta bởi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
49 
số lao động này hiện đang chiếm một tỷ 
trọng khá lớn trong nguồn lực lao động 
hiện nay. Số lượng lẫn chất lượng 
nguồn nhân lực chưa đảm bảo thì tất 
yếu kéo theo năng suất lao động sẽ 
thấp. Xét trên mặt bằng chung, “năng 
suất lao động của Việt Nam thấp hơn 
năng suất lao động của Singapore gần 
17 lần, thấp hơn năng suất lao động của 
Nhật Bản 11 lần, thấp hơn năng suất lao 
động của Hàn Quốc 10 lần, bằng 1/5 
năng suất lao động của Malaysia và 2/5 
năng suất lao động của Thái Lan” [8]. 
Đây chính là tín hiệu cảnh báo “sự tụt 
hậu của nền kinh tế nước ta” hiện đang 
là một trong những nguy cơ lớn ở nước 
ta hiện nay. 
Nhìn một cách tổng thể, bên cạnh 
những kết quả đáng ghi nhận, những 
tồn tại, hạn chế trong quá trình phát huy 
nguồn lực con người Việt Nam đang 
chính là “những điểm nghẽn cản trở sự 
phát triển”. Những hạn chế, tồn tại nêu 
trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, 
bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và 
nguyên nhân khách quan, trong đó 
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. 
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản 
phát huy nguồn lực con người ở nước 
ta trong thời đại cách mạng công 
nghiệp 4.0 
 Với yêu cầu ngày càng cao của sự 
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước 
trong thời đại toàn cầu hóa và cách 
mạng công nghiệp 4.0, nguồn lực con 
người Việt Nam cần được xây dựng, 
bồi dưỡng, phát triển cả về số lượng và 
chất lượng thông qua một hệ thống các 
giải pháp đồng bộ, kịp thời, trong đó 
cần tập trung vào những giải pháp trọng 
tâm sau: 
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn 
liền với hội nhập quốc tế và cách mạng 
công nghiệp 4.0. Giải pháp này nhằm 
hiện đại hóa nền sản xuất, nâng cao 
năng suất lao động và năng lực cạnh 
tranh của nền kinh tế, nhờ đó từng bước 
cải thiện, nâng cao mức sống, chất 
lượng sống cũng như các điều kiện để 
phát triển toàn diện nguồn lực con 
người. Mặt khác, làm việc trong môi 
trường công nghiệp hiện đại vừa đặt ra 
yêu cầu vừa tạo động lực cho người lao 
động không ngừng nỗ lực vươn lên, tự 
học, tự bồi dưỡng về mọi mặt để thích 
ứng với những tiến bộ của tri thức, khoa 
học - công nghệ. Đẩy mạnh nghiên cứu, 
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới 
sáng tạo để nâng cao năng suất lao 
động, nhập khẩu công nghệ mới; thực 
hiện phương thức quản lý, quản trị hiện 
đại; phát huy tiềm năng con người và 
khuyến khích tinh thần sản xuất kinh 
doanh của mọi người để chủ động khai 
thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao 
giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc 
gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi 
giá trị toàn cầu. Phát triển thị trường lao 
động, bảo đảm đồng bộ, liên thông, 
minh bạch và tạo thuận lợi cho việc 
tự do dịch chuyển lao động. Phát triển 
mạnh thị trường nhân lực chất lượng 
cao, nhất là lao động kỹ thuật và nhân 
lực quản trị kinh doanh. Tăng cường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
50 
quản lý, mở rộng thị trường và nâng cao 
hiệu quả đưa người lao động đi làm việc 
ở nước ngoài. 
Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục – đào tạo. Đổi mới giáo dục – 
đào tạo theo hướng theo hướng chuẩn 
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và 
hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ 
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ 
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then 
chốt nhằm phát triển nguồn lực con 
người cả về chất và lượng, đặc biệt là 
nguồn nhân lực chất lượng cao. Đổi mới 
phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện 
về chương trình, nội dung, phương pháp 
dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra; 
vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên, cơ 
chế quản lý giáo dục đào tạo trên cơ sở 
ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, 
hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri 
thức. Xây dựng xã hội học tập cho mọi 
người, khuyến khích và tạo điều kiện và 
cơ hội cho mọi cá nhân được tiếp cận 
với các hình thức, loại hình, phương 
thức học tập đa dạng, thực hiện học tập 
suốt đời. Cần hướng đào tạo gắn với nhu 
cầu xã hội, thực hiện gắn kết chặt chẽ 
giữa nhà nước – nhà trường – nhà tuyển 
dụng trong xây dựng chương trình, dự 
báo nhu cầu, quy hoạch, đào tạo, sử 
dụng người lao động. Chủ động, tích cực 
hội nhập quốc tế về giáo dục, tranh thủ 
các nguồn lực về con người, kỹ thuật, 
vốn từ các nước tiên tiến, các tổ chức 
quốc tế và cá nhân ở nước ngoài để hiện 
đại hóa nền giáo dục. 
Ba là, hoàn thiện và thực hiện tốt 
chính sách xã hội. Giải pháp này có ý 
nghĩa rất quan trọng bởi “Chính sách 
xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con 
người là động lực to lớn phát huy mọi 
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong 
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” 
[9, tr. 13]. Việc đổi mới, hoàn thiện cơ 
chế, chính sách để tạo động lực cho sự 
phát triển nguồn lực con người cần phải 
được thực hiện đồng bộ trên nhiều 
phương diện, như: giáo dục - đào tạo, 
khoa học - công nghệ, môi trường làm 
việc, chính sách việc làm, thu nhập, an 
sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, 
chăm sóc sức khỏe, chính sách phát 
triển thị trường lao động, các điều kiện 
nhà ở, sinh sống, định cư... Trong đó 
cần tạo bước chuyển nhanh chóng, rõ 
rệt trong đổi mới chính sách đào tạo, sử 
dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và 
tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam 
ở nước ngoài, chính sách gắn kết chặt 
chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với 
phát triển và ứng dụng khoa học, công 
nghệ, chính sách tiền lương, khen 
thưởng, chính sách việc làm, thu nhập, 
bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chính sách thu 
hút, chính sách quốc gia về nâng cao 
sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. 
Bốn là, dân chủ hóa, nhân văn hóa 
đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả 
các giá trị văn hóa truyền thống và hiện 
đại. Đây là quan điểm nhằm tạo môi 
trường lành mạnh cho các giá trị sống 
của nguồn nhân lực phát triển. Để có 
được môi trường đó, trước hết phải coi 
trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức, 
trách nhiệm công dân, tinh thần yêu 
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
51 
sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc 
dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của 
mỗi người và tiền đồ của đất nước. Mở 
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố 
con người, coi con người là chủ thể, 
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự 
phát triển, là nguồn lực quan trọng nhất 
quyết định sự phát triển xã hội và là sự 
nghiệp của cách mạng Việt Nam. Mọi 
quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải 
hướng tới mục tiêu cao cả là vì con 
người, vì sự phát triển toàn diện của 
nguồn lực con người. 
3. Kết luận 
Phát triển bền vững trên nền tảng 
bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con 
người là lựa chọn ưu tiên hàng đầu và là 
quyết sách chiến lược của các quốc gia 
trên thế giới. Bài học này càng khẳng 
định giá trị to lớn của nó trong thời đại 
cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. 
Với Việt Nam, là một nước đi sau, trên 
cơ sở kế thừa bài học kinh nghiệm từ 
các nước đi trước, dựa trên thực tiễn 
của thời đại và nhiệm vụ phát triển kinh 
tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, nguồn 
lực con người chính là nguồn lực quyết 
định nhất trong các nguồn lực của sự 
phát triển, là một trong những yếu tố 
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là 
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, 
bền vững và là điều kiện cơ bản cho hội 
nhập quốc tế. Đứng trước bối cảnh hội 
nhập quốc tế với sự tác động to lớn của 
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện 
nay, việc phát huy nguồn lực con người 
Việt Nam đang đặt ra những yêu cầu 
mới trên các phương diện: số lượng, 
chất lượng và công tác quy hoạch, đào 
tạo, huy động sử dụng hợp lý, có hiệu 
quả nguồn lực con người để phát triển 
kinh tế - xã hội. Việc nhìn nhận, đánh 
giá một cách tổng thể, toàn diện kết quả 
đạt được cũng như hạn chế, tồn tại 
trong quá trình phát huy nguồn lực con 
người thời gian qua và nguyên nhân của 
nó chính là cơ sở rất quan trọng trong 
việc hoạch định các giải pháp khả thi. 
Hệ thống các giải pháp xây dựng, bồi 
dưỡng, phát triển nguồn lực con người 
hiện nay không chỉ dừng lại ở việc nhận 
thức một cách đúng đắn, đầy đủ mà 
quan trọng hơn phải trở thành nhiệm vụ, 
quyết tâm chính trị và hành động quyết 
liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã 
hội nhằm “đưa nhân lực Việt Nam trở 
thành nền tảng và lợi thế quan trọng 
nhất để phát triển bền vững đất nước, 
hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, 
nâng trình độ năng lực cạnh tranh của 
nhân lực nước ta lên mức tương đương 
các nước tiên tiến trong khu vực, trong 
đó một số mặt tiếp cận trình độ các 
nước phát triển trên thế giới” [9]. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 11 - 2018 ISSN 2354-1482 
52 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), “Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ tư 
BCHTW Đảng (khóa VII), ngày 4/1/1993”,  
(17/9/2018) 
3. Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 
4. Trần Đại Quang (2016), “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Thời cơ 
phát triển và các thách thức an ninh phi truyền thống”, 
 Thứ Hai, (03/10/2018) 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII”, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 
6. Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám Thống kê 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), “Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 
25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng 
cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình 
mới”,  29/10/2017, (23/10/2018) 
8. Nguyễn Đình Bắc, “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước 
tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, 
 22/5/2018, (22/10/2018) 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nưởc trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
10. Thủ tướng Chính phủ (2011), “Quyết định Phê duyệt Chiến lược phát triển 
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020”,  (14/10/2018) 
PROMOTING THE HUMAN RESOURCES OF VIETNAM FOR 
THE SOCIO - ECONOMIC DEVELOPMENT IN THE INDUSTRIAL 
REVOLUTION ERA 4.0 
ABSTRACT 
In all time, human resources always play a leading role in the sustainable 
development of each nation, and nowadays this is even truer in the industrial 
revolution era 4.0. Thus, for Vietnam, the fostering and promoting human resources 
to enhance the social activeness, to increase and mobilize the intellectual power and 
the creative potential of human beings are considered as a "strategic breakthrough" 
that determines the victory of the renewal process for the purpose of "prosperous 
people, strong country, democracy, justice and civilization". 
Keywords: Human resources, the industrial revolution era 4.0 
(Received: 9/11/2018, Revised: 25/11/2018, Accepted for publication: 24/12/2018) 

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_nguon_luc_con_nguoi_viet_nam_trong_su_nghiep_phat_t.pdf