Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận công lý và thực tiễn ở Việt Nam

Theo nghĩa rộng, tiếp cận công lý không

chỉ giới hạn ở quyền tiếp cận với toà án và

các cơ quan tư pháp khi có vi phạm xảy ra,

mà nội hàm của khái niệm này bao gồm cả

việc tiếp cận đến các trật tự chính trị và việc

hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế, xã hội

của quốc gia. Chương trình Phát triển Liên

Hợp Quốc (UNDP) định nghĩa: tiếp cận

công lý là việc người dân được tìm kiếm và

đạt được các hình thức giải quyết tranh

chấp thông qua việc tiếp cận với các biện

pháp đền bù, hoặc khắc phục từ các thiết

chế tư pháp chính thức, như cơ quan điều

tra, truy tố xét xử đến các thiết chế không

mang tính chính thức, như cơ quan nhân

quyền quốc gia, cơ quan thanh tra quốc

hội trên cơ sở tuân thủ theo các chuẩn

mực về quyền con người [7]. Ngân hàng

Thế giới (WB) cho rằng, tiếp cận công lý

cần gắn với việc giải quyết những thách

thức về lý luận và thực tiễn, nhằm bảo đảm

công lý cho các nhóm dễ bị tổn thương

hoặc nhóm bị gạt ra bên lề xã hội ít có cơ

hội hoặc khó khăn trong việc tiếp cận với

hệ thống tư pháp và trợ giúp pháp lý.

pdf 8 trang kimcuc 8640
Bạn đang xem tài liệu "Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận công lý và thực tiễn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận công lý và thực tiễn ở Việt Nam

Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận công lý và thực tiễn ở Việt Nam
69 
Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận công lý 
và thực tiễn ở Việt Nam 
Nguyễn Thị Thanh Hải1 
1
 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Email: thanhhai72@gmail.com 
Nhận ngày 25 tháng 8 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 3 năm 2019. 
Tóm tắt: Luật quốc tế về quyền con người coi tiếp cận công lý không chỉ là quyền được tiếp cận 
với các biện pháp khắc phục của hệ thống tư pháp, mà còn là một cách tiếp cận nhằm bảo đảm 
quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm dễ bị tổn thương và nhóm bị gạt ra bên lề. Về cơ 
bản, quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, việc 
hỗ trợ tiếp cận công lý thì chưa hiệu quả. 
Từ khóa: Pháp luật quốc tế, quyền con người, tiếp cận công lý, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Luật học 
Abstract: Under the international legal framework for human rights, access to justice is not only 
about the right to access remedial measures by the judicial system, but also an approach to ensure 
human rights, in particular, the rights of vulnerable and marginalised groups. The right to access 
justice in Vietnam is compatible with the international legal system; however, supporting the 
access to justice is not yet effective. 
Keywords: International law, human rights, access to justice, Vietnam. 
Subject classification: Jurisprudence 
1. Mở đầu 
Tiếp cận công lý là một khái niệm có nhiều 
cách hiểu và tiếp cận khác nhau. Theo 
nghĩa hẹp, tiếp cận công lý, chủ yếu giới 
hạn trong các hoạt động tố tụng thuộc hệ 
thống tư pháp. Theo đó, tiếp cận công lý, có 
thể hiểu là quyền tiếp cận các cơ chế về thủ 
tục và nội dung trong xã hội nhằm đảm bảo 
để mọi công dân đều có cơ hội được tiếp 
cận, tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường từ 
hệ thống tư pháp khi các quyền pháp lý của 
họ bị vi phạm. Đây là cách tiếp cận truyền 
thống đối với quyền tiếp cận công lý, được 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
70 
Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia 
ghi nhận. 
Theo nghĩa rộng, tiếp cận công lý không 
chỉ giới hạn ở quyền tiếp cận với toà án và 
các cơ quan tư pháp khi có vi phạm xảy ra, 
mà nội hàm của khái niệm này bao gồm cả 
việc tiếp cận đến các trật tự chính trị và việc 
hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế, xã hội 
của quốc gia. Chương trình Phát triển Liên 
Hợp Quốc (UNDP) định nghĩa: tiếp cận 
công lý là việc người dân được tìm kiếm và 
đạt được các hình thức giải quyết tranh 
chấp thông qua việc tiếp cận với các biện 
pháp đền bù, hoặc khắc phục từ các thiết 
chế tư pháp chính thức, như cơ quan điều 
tra, truy tố xét xử đến các thiết chế không 
mang tính chính thức, như cơ quan nhân 
quyền quốc gia, cơ quan thanh tra quốc 
hội trên cơ sở tuân thủ theo các chuẩn 
mực về quyền con người [7]. Ngân hàng 
Thế giới (WB) cho rằng, tiếp cận công lý 
cần gắn với việc giải quyết những thách 
thức về lý luận và thực tiễn, nhằm bảo đảm 
công lý cho các nhóm dễ bị tổn thương 
hoặc nhóm bị gạt ra bên lề xã hội ít có cơ 
hội hoặc khó khăn trong việc tiếp cận với 
hệ thống tư pháp và trợ giúp pháp lý. 
Theo nghĩa hẹp, tiếp cận công lý gắn với 
sự bảo hộ pháp lý cho mỗi cá nhân. Việc 
tìm kiếm sự bảo vệ này chủ yếu giới hạn ở 
khả năng tiếp cận với các dịch vụ thuộc hệ 
thống tư pháp, nhằm thực hiện một số 
quyền tố tụng của hệ thống tư pháp (như 
quyền được tiếp cận luật sư, toà án). Cách 
tiếp cận theo nghĩa rộng là mở rộng việc 
tiếp cận công lý ra hệ thống ngoài tư pháp, 
bao gồm cả quá trình đàm phán để tạo ra 
những thay đổi hiệu quả về quy định pháp 
luật, gây ảnh hưởng đến vai trò chức năng 
của các thiết chế công và là quá trình trao 
quyền cho các nhóm yếu thế để họ có đủ 
khả năng đấu tranh chống lại bất bình đẳng 
[5]. Hiện nay, nhiều quốc gia và tổ chức 
quốc tế thường sử dụng khái niệm tiếp cận 
công lý theo nghĩa rộng. 
Các hệ thống pháp luật quốc tế và pháp 
luật của nhiều quốc gia trong lịch sử đều 
hướng đến mục tiêu bảo đảm tiếp cận công 
lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Đặc biệt, 
tiếp cận công lý và những nội dung liên 
quan đến quyền này không còn là vấn đề 
riêng của một quốc gia, một dân tộc hay 
vùng lãnh thổ, mà được coi là chủ đề quan 
tâm của quốc tế. Quyền tiếp cận công lý, do 
đó, không chỉ giới hạn trong khuôn khổ 
pháp luật quốc gia mà là một quyền con 
người phổ quát. Ngày nay, quyền tiếp cận 
công lý được coi là một chuẩn mực để đánh 
giá mức độ dân chủ, sự phát triển của nền 
pháp quyền và năng lực bảo đảm quyền con 
người của mỗi quốc gia. Bài viết này tìm 
hiểu về quyền tiếp cận công lý trong pháp 
luật quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam. 
2. Pháp luật quốc tế về quyền tiếp cận 
công lý 
Các thảo luận về quyền tiếp cận công lý 
trong luật quốc tế hiện đại thường ghi nhận 
quyền này vừa là một quyền con người cơ 
bản lại vừa là công cụ để bảo vệ các quyền 
con người khác. Với nghĩa là một quyền, 
tiếp cận công lý được quy định trong hệ 
thống pháp luật quốc gia, gắn với các 
đòi hỏi của cá nhân về các biện pháp 
khắc phục tư pháp khi có sự vi phạm 
quyền trong thẩm quyền pháp lý của 
quốc gia đó. Với nghĩa là một công cụ 
bảo vệ quyền con người, thì tiếp cận công 
lý là biện pháp quan trọng để các cá nhân 
có cơ hội bảo vệ quyền lợi của họ. 
 Nguyễn Thị Thanh Hải 
71 
Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con 
người ghi nhận việc tôn trọng, bảo vệ quyền 
chỉ có thể được thực hiện khi có hệ thống 
khắc phục pháp lý hiệu quả. Mối quan hệ 
giữa tiếp cận công lý và quyền con người có 
thể được xem xét ở ba cấp độ khác nhau: (1) 
quyền tiếp cận công lý là một quyền con 
người cơ bản; (2) quyền tiếp cận công lý là 
quyền trực tiếp liên quan đến các quyền trong 
lĩnh vực quản lý tư pháp, đặc biệt là các 
quyền tố tụng; (3) quyền tiếp cận công lý 
được coi như là một khuôn khổ hay cách tiếp 
cận và là công cụ để hỗ trợ thực thi tất cả các 
quyền con người, đặc biệt là trong quá trình 
xét xử khi có vi phạm quyền xảy ra [9]. 
Với nghĩa là một quyền con người cơ 
bản, tiếp cận công lý gắn với quyền được 
xét xử công bằng. Quyền này xuất hiện khi 
các quyền con người khác bị vi phạm và 
các cá nhân bị vi phạm có nhu cầu đòi hỏi 
được khắc phục, bồi thường hậu quả do sự 
vi phạm đó mang lại để đảm bảo sự công 
bằng. Việc thực hiện quyền tiếp cận công lý 
chỉ có thể thực hiện được thông qua một số 
các quyền tư pháp, như quyền được tiếp cận 
luật sư, quyền được xét xử bởi một toà án 
độc lập, không thiên vị. Việc thực thi quyền 
tiếp cận công lý luôn gắn với vai trò và 
trách nhiệm của các cơ quan của hệ thống 
tư pháp như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, 
toà án. 
Cho đến nay, hệ thống pháp luật quốc tế 
về quyền con người đã ghi nhận các quyền 
bảo đảm việc thực hiện tiếp cận công lý 
trong nhiều điều ước quốc tế và khu vực về 
quyền con người. Các công ước quốc tế đều 
nhấn mạnh đến các nội hàm quan trọng của 
quyền tiếp cận công lý (như quyền bình 
đẳng trước pháp luật, quyền được xét xử 
công bằng, quyền được tiếp cận với các 
biện pháp khắc phục hiệu quả). Điều 8 của 
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 
ghi nhận quyền tiếp cận công lý từ góc độ 
tiếp cận với hệ thống tư pháp chính thức 
hiệu quả. Mọi người đều có quyền được các 
toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng 
các biện pháp hữu hiệu để chống lại những 
hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà 
đã được hiến pháp hay luật pháp quy định; 
công ước về các quyền dân sự, chính trị 
1966 cũng nhấn mạnh đến nội dung cốt lõi 
của quyền tiếp cận công lý, bao gồm quyền 
bình đẳng trước pháp luật, được sự bảo vệ 
bình đẳng trước pháp luật (Điều 26), đặc 
biệt là bình đẳng trong tố tụng quản lý tư 
pháp và quá trình tố tụng (Điều 14) bao 
gồm quyền bình đẳng trước toà án và cơ 
quan tài phán, quyền được xét xử công 
bằng và công khai do một tòa án có thẩm 
quyền, độc lập, không thiên vị và được lập 
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời 
buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định 
quyền và nghĩa vụ của người đó trong tố 
tụng dân sự. Công ước quốc tế về các 
quyền kinh tế xã hội 1966 mặc dù không có 
quy định trực tiếp về nghĩa vụ của nhà nước 
trong việc đưa ra các biện pháp khắc phục 
pháp lý giống như Công ước về các quyền 
dân sự chính trị, nhưng công ước cũng 
khẳng định nguyên tắc lý tưởng về con 
người tự do chỉ có thể đạt được nếu như 
mọi người đều được hưởng các quyền kinh 
tế, xã hội và văn hóa cũng như các quyền 
dân sự, chính trị. 
Hệ thống các văn kiện quốc tế về quyền 
con người hiện nay đã ghi nhận khá đầy đủ 
các quyền con người liên quan đến các 
quyền tố tụng, như là những quyền nội 
dung của tiếp cận công lý. 
Ở nhiều quốc gia, quyền tiếp cận công lý 
được coi là một khuôn khổ hay cách tiếp 
cận. Theo nghĩa là một cách tiếp cận, quyền 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
72 
này trước hết được coi là một nguyên tắc cơ 
bản của nhà nước pháp quyền. Khi không 
được tiếp cận công lý thì tiếng nói của 
người dân sẽ không được lắng nghe, các 
quyền của họ sẽ không được thực thi, tình 
trạng phân biệt đối xử cũng không được 
giải quyết. 
Trong những năm gần đây, Liên Hợp 
Quốc đã kêu gọi các quốc gia cần nỗ lực 
để đưa tiếp cận công lý như là một nội 
dung của nhà nước pháp quyền để đảm bảo 
tính độc lập, công bằng của hệ thống tư 
pháp. Tuyên bố tại Cuộc họp cấp cao về 
nhà nước pháp quyền của Liên Hợp Quốc 
nhấn mạnh đến quyền bình đẳng trong tiếp 
cận công lý cho mọi người, và kêu gọi các 
quốc gia cần đưa ra các biện pháp cần thiết 
để cung cấp các dịch vụ công bằng, minh 
bạch. Tiếp cận công lý với nghĩa là một 
cách tiếp cận có phạm vi áp dụng rộng 
hơn, không còn giới hạn ở hệ thống pháp 
luật chính thức, mà còn bao gồm cả hệ 
thống pháp luật phi chính thức. Tuyên bố 
của Hội nghị cấp cao về pháp quyền khẳng 
định, trong pháp luật quốc tế về quyền con 
người, hệ thống tư pháp phi chính thức 
đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc 
giải quyết xung đột, tranh chấp. Ngoài sự 
tham gia của hệ thống các cơ quan tư pháp, 
các thiết chế, cá nhân, thủ tục bán tư pháp 
và ngoài tư pháp cũng đóng vai trò quan 
trọng trong việc áp dụng để hỗ trợ giải 
quyết, ngăn ngừa tranh chấp, xung đột 
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Nếu như hệ thống pháp luật chính thức chủ 
yếu thực hiện quyền tiếp cận công lý thông 
qua áp dụng các quy định pháp luật của 
nhà nước thì hệ thống pháp luật phi chính 
thức (bao gồm tập quán pháp hay luật tục) 
vận dụng linh hoạt giữa các quy định pháp 
luật quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế. 
Ngoài ra, tiếp cận công lý theo cách này 
cũng mở rộng vai trò của các chủ thể tham 
gia từ chỗ chỉ bao gồm cơ quan điều tra, 
viện kiểm sát, toà án đến nhấn mạnh vai 
trò của các thiết chế ngoài tư pháp nhằm 
hướng tới xoá bỏ bất bình đẳng trong xã 
hội. Đây là sự mở rộng quan trọng, phù 
hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực về 
quyền con người. 
Tiếp cận công lý cũng được coi là một 
cách tiếp cận hiệu quả cho các chương trình 
cải cách pháp luật, thể chế nhằm chuyển 
dịch từ cách tiếp cận từ trên xuống sang 
cách tiếp cận từ dưới lên. Theo đó, tiếp cận 
công lý là quá trình tăng cường khả năng 
bảo vệ quyền cho các nhóm bị gạt ra bên lề 
hay nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội như 
người nghèo, người bị mất nơi ở, người 
khuyết tật, phụ nữ, người dân tộc thiểu số... 
Thực tế cho thấy, do những rào cản liên 
quan đến sự yếu kém về năng lực và sự 
thiếu độc lập của nền tư pháp hay sự tồn tại 
của các tập tục văn hoá, mà cách tiếp cận 
truyền thống (chủ yếu thông qua các cơ 
quan tố tụng và dưới hình thức trợ giúp 
pháp lý) không đủ để giải quyết và hỗ trợ 
việc bảo đảm quyền cho các nhóm đối 
tượng này. Ví dụ, đối với nạn nhân của bạo 
lực gia đình, mặc dù, pháp luật đã có những 
quy định rõ ràng về hành vi bạo lực gia 
đình nhưng việc tiếp cận công lý theo hệ 
thống tư pháp chính thức thường gặp phải 
rất nhiều rào cản. Do hạn chế về nhận thức 
và năng lực tìm kiếm công lý mà phụ nữ 
thường tâm lý e ngại, không muốn tiếp cận 
với các cơ quan, dịch vụ của hệ thống pháp 
lý chính thức, trong khi đó với nhóm đối 
tượng này, họ thấy hệ thống pháp lý bán 
chính thức và phi chính thức dễ tiếp cận 
hơn [4]. Hiện nay, nhiều dự án, chương 
trình phát triển của các tổ chức quốc tế như 
 Nguyễn Thị Thanh Hải 
73 
Ngân hàng Phát triển Châu Á, Chương trình 
Phát triển Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế 
giới... đều áp dụng cách tiếp cận công lý 
theo hướng này [6, tr.7]. 
3. Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam 
hiện nay 
Khát vọng về xây dựng một một nền công 
lý đã sớm được ghi nhận trong Bản án Chế 
độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. 
Nguyễn Ái Quốc viết: “Ở Đông Dương có 
hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, 
một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì 
được xử như ở Pháp. Người An Nam thì 
không có hội đồng bồi thẩm, cũng không 
có luật sư người An Nam. Thông thường 
người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, 
vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo 
giữa người An Nam và người Pháp thì lúc 
nào người Pháp cũng có lý cả mặc dù tên 
này ăn cướp hay giết người” [3, tr.420]. 
Ở Việt Nam, khái niệm “công lý” thường 
được tiếp cận từ góc độ tìm kiếm sự công 
bằng, lẽ phải. Tiếp cận công lý cũng được 
coi là một nguyên tắc nền tảng trong quá 
trình xây dựng chính sách, pháp luật của 
Việt Nam. Tiếp cận công lý là một thuật 
ngữ gắn với các hoạt động trong lĩnh vực 
tư pháp. Tiếp cận công lý chính là quá 
trình xử lý các vụ việc thông qua các thủ 
tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm đảm 
quyền con người. Trong quá trình xây 
dựng nhà nước pháp quyền, việc bảo đảm 
bảo và thực thi quyền tiếp cận công lý là 
một chủ trương quan trọng gắn với các 
hoạt động trong lĩnh vực tư pháp của Đảng 
và Nhà nước Việt Nam. 
Thuật ngữ “tiếp cận công lý” cũng đã 
được sử dụng trong một số chương trình, 
chiến lược về cải cách tư pháp. Khái niệm 
“tiếp cận công lý” đã được đề cập đến trong 
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 
(ban hành theo Nghị quyết của Bộ Chính trị 
Ban Chấp hành Trung ương Đảng số 49-
NQ/TƯ ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải 
cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, công 
lý và bảo vệ công lý được xác định là một 
trong những mục tiêu cơ bản của cải cách 
tư pháp ở Việt Nam. Đại hội Đảng XII 
khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực 
hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng 
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân 
chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo 
vệ pháp luật, công lý, quyền con người, 
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ 
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi 
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá 
nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền 
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền 
hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của 
các cơ quan tư pháp” [1, tr.114]. 
Khái niệm “quyền tiếp cận công lý” 
không được ghi nhận trực tiếp trong Hiến 
pháp và các quy định pháp luật của Việt 
Nam. Tuy nhiên, mục tiêu về bảo vệ công 
lý đã được đề cập. Hiến pháp 2013 coi bảo 
vệ công lý là một nhiệm vụ của toà án. Hiến 
pháp 2013 khẳng định: “Toà án nhân dân 
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền 
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ 
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà 
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ 
chức, cá nhân” [8]. Ngoài ra, Hiến pháp 
2013 đã ghi nhận các nội dung của quyền 
tiếp cận công lý, bao gồm bình đẳng trước 
pháp luật (Điều 16); quyền được xét xử 
công bằng, công khai, nhanh chóng bởi toà 
án (Điều 31) [8]. Hệ thống văn bản pháp 
luật của Việt Nam có những đạo luật 
chuyên biệt với các điều khoản cụ thể về hỗ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
74 
trợ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương 
tiếp cận công lý (như Luật Phòng chống 
bạo lực gia đình 2007, Luật Về người 
khuyết tật 2010, Luật Trẻ em 2016), hay 
pháp luật về trợ giúp pháp lý (như Luật trợ 
giúp pháp lý 2017). 
Trước đây, quyền tiếp cận công lý 
thường được coi là quyền của các cá nhân, 
tổ chức về giải quyết tranh chấp thông qua 
tố tụng. Hiện nay, pháp luật Việt Nam cũng 
ghi nhận các quyền nội dung của tiếp cận 
công lý (như quyền tiếp cận thông tin pháp 
luật); quyền trợ giúp pháp lý, quyền tiếp 
cận giáo dục và đào tạo pháp luật [4]. Trong 
những năm gần đây, cách tiếp cận mới về 
tiếp cận công lý cũng được giới thiệu và áp 
dụng ở Việt Nam trong nhiều chương trình, 
dự án nghiên cứu pháp luật. Theo đó, tiếp 
cận công lý được coi là một phương thức 
tiếp cận nhằm thúc đẩy và bảo đảm quyền 
con người. Nhiều dự án, hoạt động về tiếp 
cận công lý đã được triển khai theo hướng 
coi tiếp cận công lý vừa là một công cụ, 
vừa là một mục tiêu của nhà nước pháp 
quyền và quản trị hiệu quả. Liên Hợp Quốc 
và các cơ quan chuyên trách của cơ quan 
này ở Việt Nam đã hỗ trợ thực hiện nhiều 
nghiên cứu, đánh giá về quyền tiếp cận 
công lý, đặc biệt là tiếp cận công lý cho các 
nhóm dễ bị tổn thương. Liên Hợp Quốc coi 
chỉ số công lý như là một hướng tiếp cận 
mới để đánh giá kết quả tiến trình cải cách 
luật pháp và tư pháp của Việt Nam. Theo 
đó, chỉ số đánh giá về bảo đảm công lý ở 
Việt Nam được xây dựng dựa trên các nội 
dung: khả năng tiếp cận; công bằng; liêm 
chính; tin cậy và hiệu quả; bảo đảm các 
quyền con người cơ bản [10]. Bộ Tư pháp 
Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan pháp 
luật và tư pháp khác của Việt Nam cùng với 
UNDP triển khai dự án “Tăng cường tiếp 
cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam 
giai đoạn 2009-2014”. Nội dung của dự án 
này là: đánh giá và hoàn thiện pháp luật; 
tăng cường đối thoại về chính sách pháp 
luật; nâng cao vai trò theo dõi thi hành pháp 
luật; xây dựng bộ chỉ số tư pháp cấp tỉnh; 
hỗ trợ sáng kiến và thử nghiệm cải cách tư 
pháp [11]. Ngoài ra, tiếp cận công lý cũng 
đã được coi là một công cụ hỗ trợ cho việc 
bảo vệ quyền con người cho các nhóm dễ bị 
tổn thương ở Việt Nam như nạn nhân bạo 
lực gia đình, người nghèo [4]. 
Mặc dù Việt Nam còn thiếu các quy định 
trực tiếp về quyền tiếp cận công lý và việc 
bảo đảm quyền tiếp cận công lý trên thực tế 
còn nhiều trở ngại, nhưng về cơ bản nội 
hàm của quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam 
khá tương thích với sự phát triển của hệ 
thống pháp luật và thực tiễn pháp lý quốc tế 
hiện nay. 
4. Kết luận 
Luật quốc tế ghi nhận tiếp cận công lý vừa là 
mục tiêu vừa là công cụ giúp cho việc tôn 
trọng và bảo vệ các quyền con người và tự 
do cơ bản. Luật quốc tế và hệ thống luật 
quốc gia đều ghi nhận tiếp cận công lý là 
điều kiện quan trọng để bảo đảm quyền con 
người. Hệ thống pháp luật của nhiều quốc 
gia, trong đó có Việt Nam thường đề cập đến 
khái niệm tiếp cận công lý theo nghĩa hẹp 
thông qua việc nhìn nhận khả năng tiếp cận 
với hệ thống tư pháp, hay khả năng tìm kiếm 
trợ giúp pháp lý của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, 
hệ thống pháp luật quốc tế cũng như pháp 
luật của nhiều quốc gia đang có xu hướng 
coi tiếp cận công lý là một nguyên tắc gắn 
với sự công bằng, bình đẳng vượt ra ngoài 
khuôn khổ hạn hẹp của toà án. Ở Việt Nam, 
 Nguyễn Thị Thanh Hải 
75 
về cơ bản so với hệ thống pháp luật quốc tế 
về quyền con người, việc bảo đảm quyền 
tiếp cận công lý hiện nay chủ yếu vẫn được 
áp dụng trong khuôn khổ các quyền tố tụng 
trong hệ thống tư pháp chính thống. Việc hỗ 
trợ tiếp cận công lý theo diện rộng để bao 
gồm cả hệ thống phi chính thức vẫn còn 
chưa được thực hiện phổ biến và hiệu quả. 
Trong bối cảnh, hệ thống tư pháp hiện nay 
còn nhiều hạn chế liên quan đến tính độc 
lập, thẩm quyền và năng lực của đội ngũ cán 
bộ tư pháp thì việc áp dụng quyền tiếp cận 
công lý như một nguyên tắc và cách tiếp cận 
tiếp cận trong các chính sách, chương trình 
trong và ngoài hệ thống tư pháp, nhằm 
hướng tới sự phát triển cả về năng lực xã 
hội, năng lực thể chế và năng lực cá nhân là 
hết sức cần thiết. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Đinh Thế Hưng (2010), “Thực hiện quyền tư 
pháp nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công lý 
trong nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Nhà 
nước và Pháp luật, số 5. 
[3] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.1, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Lê Thị Thục, Lê Thuý Hằng, Nguyễn Thị Thanh 
Hải, Chu Thị Thuý Hằng, (2015), Tiếp cận công 
lý trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên cứu 
điển hình về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở 
Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 
[5] Chiongson, Rea Abada, Deval Desai, Teresa 
Marchiori, and Michael Woolcock (2011), 
“The role of law and justice in achieving 
gender equality”, World development report 
2012 - Gender equality and development. 
[6] Ineke Van De Meene and Benjamin van Rooij 
(2008), Access to Justice and Legal 
Empowerment: Making the Poor Central in 
Legal Development Co-operation, Leiden 
University Press. 
[7] UNDP (2005), Programming for Justice: 
Access for All, Bangkok. 
[8]  
/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTin
TongHop/hienphapnam2013, truy cập ngày 
10/9/2018. 
[9] https://www.abyssinialaw.com/blogposts/ 
itemlist/user/720-ghetnetmetikuwoldegiorgis, 
truy cập ngày 20/6/2018. 
[10]  
me/library/democratic_governance/justice_ind
ex_report.html, truy cập ngày 25/6/2018. 
[11] 
thieu-ve-du-an.aspx?ItemID=1, truy cập ngày 
28/9/2018. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
76 

File đính kèm:

  • pdfphap_luat_quoc_te_ve_quyen_tiep_can_cong_ly_va_thuc_tien_o_v.pdf