Phân tích nội dung và đề xuất một số kĩ thuật dạy học hình học trong chương trình môn Toán Tiểu học mới
Một trong những điểm được quan tâm trong việc đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông của nước ta là xây
dựng chương trình theo tiếp cận phát triển phẩm chất và
năng lực (NL) của học sinh (HS). Ngày 27/12/2018, Bộ
GD-ĐT đã công bố Chương trình giáo dục phổ thông
mới. Trong Chương trình, mỗi môn học bao gồm các
mạch kiến thức khác nhau. Tìm hiểu chương trình giáo
dục phổ thông mới để xây dựng được chương trình giáo
dục đảm bảo yêu cầu về đổi mới giáo dục nhất thiết phải
xem xét đổi mới từ việc xây dựng các nhánh, mạch kiến
thức trong từng môn học. Hình học (HH) có một vị trí
quan trọng trong chương trình giáo dục Toán học phổ
thông. Việc dạy học HH cho học sinh (HS) tiểu học theo
chương trình mới sẽ như thế nào? Dựa trên văn bản
chương trình có thể có những gợi ý, đề xuất gì cho việc
dạy học HH cho HS tiểu học?
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích nội dung và đề xuất một số kĩ thuật dạy học hình học trong chương trình môn Toán Tiểu học mới
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 215 Email: nhungltc@tce.edu.vn PHÂN TÍCH NỘI DUNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC HÌNH HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN TOÁN TIỂU HỌC MỚI Lê Thị Cẩm Nhung - Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Nguyên Khoa Thu Hoài - Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Thái Nguyên Ngày nhận: 12/12/2018; ngày chỉnh sửa: 18/4/2019; ngày duyệt đăng: 28/4/2019. Abstract: Curriculum analysis is a scientific activity that plays an important role in implementing education curriculum. In this study, we based on the analysis of general education curriculum in Mathematics (part for Primary level) to identify some requirements and initially assess visual geometry content in Primary level. This helps teachers to have notes in the teaching process approaching to new curriculum, when textbooks under new curriculum have not been published. Keywords: Content, curriculum, teaching, geometry, elementary. 1. Mở đầu Một trong những điểm được quan tâm trong việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông của nước ta là xây dựng chương trình theo tiếp cận phát triển phẩm chất và năng lực (NL) của học sinh (HS). Ngày 27/12/2018, Bộ GD-ĐT đã công bố Chương trình giáo dục phổ thông mới. Trong Chương trình, mỗi môn học bao gồm các mạch kiến thức khác nhau. Tìm hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới để xây dựng được chương trình giáo dục đảm bảo yêu cầu về đổi mới giáo dục nhất thiết phải xem xét đổi mới từ việc xây dựng các nhánh, mạch kiến thức trong từng môn học. Hình học (HH) có một vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục Toán học phổ thông. Việc dạy học HH cho học sinh (HS) tiểu học theo chương trình mới sẽ như thế nào? Dựa trên văn bản chương trình có thể có những gợi ý, đề xuất gì cho việc dạy học HH cho HS tiểu học? Bài viết này trình bày một số kết quả phân tích về nội dung HH và một số đề xuất cho việc tổ chức dạy học HH ở tiểu học nhằm phát triển NL HS. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hình học và vai trò của hình học trong chương trình HH (geometry) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại: γεωμετρία; geo -”đất”, metron “đo đạc”, nghĩa là đo đạc đất đai. HH là một phân nhánh của toán học liên quan đến các câu hỏi về hình dạng, kích thước, vị trí tương đối của các hình khối, và các tính chất của không gian. HH phát triển trong một số nền văn hóa cổ đại như Ấn Độ, Ba By Lon, Ai Cập, Hy Lạp và Trung Quốc. Trong thời cổ đại HH được sử dụng để đo đạc đất đai trong sản xuất nông nghiệp và trong việc xây dựng các công trình văn hóa, kiến trúc, tôn giáo. HH như một phần của kiến thức thực tiễn liên quan đến chiều dài, diện tích, và thể tích, với một phần các yếu tố của khoa học Toán học đến từ phương Tây như các định lí của Thales (thế kỉ VI TCN). Đến thế kỉ thứ III TCN, HH đã được Euclid hệ thống hóa dưới một hình thức tiên đề mang tên ông, HH Euclid đã trở thành chuẩn mực cho nhiều thế kỉ sau đó. HH thời kì cổ đại nghiên cứu các đại lượng không đổi với các khái niệm cơ sở của các hình HH như: điểm, đường thẳng, tam giác, hình chóp và việc dạy HH cho HS tiểu học ngày nay trên thế giới cũng thường chỉ dạy HH với các đại lượng không đổi. HH là một phân nhánh của Toán học nghiên cứu về hình dạng, kích thước, vị trí tương đối của các hình khối và các tính chất của không gian. HH có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. HH giúp mọi người hiểu biết hơn về thế giới mình đang sống vì hình HH có ở khắp mọi nơi. Chúng ta thấy HH trong thiên nhiên, HH trong nghệ thuật, HH trong giao thông, HH từ ngay cơ thể của các loài động vật Khám phá HH giúp phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề liên quan đến hình dạng, không gian, giúp phát triển “NL để nhận thức thế giới hình ảnh một cách chính xác” (Gardner, 1993, tr. 173) [1]. HH đóng vai trò lớn trong việc nghiên cứu các lĩnh vực khác của toán học, chẳng hạn qua các vấn đề tỉ lệ, giúp hình thành phân số. Ở thế kỉ XXI, HH được ứng dụng trong nhiều vấn đề hiện đại như chụp cộng hưởng từ để khám bệnh, trong hoạt hình máy tính, trong định vị toàn cầu, trong chế tạo rô bốt, trong nghiên cứu thiên văn học. HH được nhiều ngành nghề sử dụng như các nghệ sĩ, các nhà địa chính, kiến trúc sư, nhà xây dựng gắn HH với cuộc sống con người tìm thấy niềm vui, thấy ý nghĩa to lớn của HH. Nghiên cứu HH không chỉ giúp con người hiểu biết về các vấn đề trong thực tế cuộc sống như tính toán, giải quyết vấn đề liên quan đến hình dạng, kích thước, quan hệ trong không gian mà còn giúp cho người nghiên cứu có quá trình suy nghĩ hợp lí, có khả năng VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 216 suy luận phân tích, tổng hợp, tư duy trừu tượng và tưởng tượng sáng tạo. Chương trình Toán phổ thông hiện hành đã đưa HH là một trong những nội dung dạy học quan trọng. Chương trình năm 2018 tiếp tục kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và các chương trình khác coi HH - Đo lường (ĐL) là một trong ba nhánh quan trọng của giáo dục toán học giúp HS tiếp thu các kiến thức về không gian và phát triển các kĩ năng thực tế thiết yếu, hình thành những công cụ nhằm mô tả các đối tượng, thực thể của thế giới xung quanh; cung cấp cho HS kiến thức, kĩ năng toán học cơ bản về HH, ĐL và tạo cho HS khả năng suy luận, kĩ năng thực hiện các chứng minh toán học, góp phần vào phát triển tư duy logic, khả năng sáng tạo toán học, trí tưởng tượng không gian và tính trực giác, góp phần phát triển giáo dục thẩm mĩ và nâng cao văn hóa toán học cho HS. Gắn kết HH - ĐL làm tăng cường tính trực quan, thực tiễn của việc dạy học môn Toán giúp HS hình thành phát triển các phẩm chất chủ yếu, NL chung và NL toán học cho HS, phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để HS được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn [2]. 2.2. Mục tiêu, yêu cầu của dạy học hình học - đo lường cấp tiểu học Chương trình môn Toán năm 2018 [2], được xây dựng theo hướng bảo đảm tính tinh giản, thiết thực, hiện đại; bảo đảm tính thống nhất, sự nhất quán và phát triển liên tục; bảo đảm tính tích hợp và phân hóa, bảo đảm tính mở. Môn Toán ở tiểu học gồm ba mạch kiến thức: Số và phép tính; HH - ĐL; Thống kê và Xác suất. Mục tiêu của dạy học HH - ĐL là: a) Góp phần hình thành và phát triển NL toán học với yêu cầu cần đạt: thực hiện được các thao tác tư duy ở mức độ đơn giản; nêu và trả lời được câu hỏi khi lập luận, giải quyết vấn đề đơn giản; lựa chọn được các phép toán và công thức số học để trình bày, diễn đạt (nói hoặc viết) được các nội dung, ý tưởng, cách thức giải quyết vấn đề; sử dụng được ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường, động tác hình thể để biểu đạt các nội dung toán học ở những tình huống đơn giản; sử dụng được các công cụ, phương tiện học toán đơn giản để thực hiện các nhiệm vụ học tập toán đơn giản. Góp phần hình thành và phát triển ở HS các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm... và NL chung: NL tự chủ tự học, NL giao tiếp và hợp tác, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo, NL ngôn ngữ, NL tính toán, NL tìm hiểu tự nhiên và xã hội, NL công nghệ, NL tin học, NL thẩm mĩ, NL thể chất. b) Có những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản ban đầu, thiết yếu về: Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm (ở mức độ trực quan) của một số hình phẳng và hình khối trong thực tiễn; tạo lập một số mô hình HH đơn giản; tính toán một số ĐL HH; phát triển trí tưởng tượng không gian, giải quyết một số vấn đề thực tiễn đơn giản gắn với HH - ĐL. c) Giúp HS có những hiểu biết ban đầu một số nghề nghiệp trong xã hội. 2.3. Phân tích nội dung dạy học Hình học ở trường tiểu học Có thể mô tả các nội dung dạy học như bảng dưới đây: Bảng 1. Bảng mô tả một số nội dung HH - ĐL cấp tiểu học Lớp Nội dung Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Hình phẳng và hình khối trong thực tiễn Độ dài Số đo góc Diện tích Dung tích, thể tích Khối lượng Nhiệt độ Thời gian Vận tốc Tiền tệ VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 217 Cụ thể, về nội dung HH được thể hiện như sau: Bảng 2. Bảng mô tả một số nội dung HH ở các lớp cấp Tiểu học Lớp Nội dung Yêu cầu cần đạt Lớp 1 1.1. Quan sát, nhận biết hình dạng của một số hình phẳng và hình khối đơn giản - Nhận biết được vị trí, định hướng trong không gian: trên - dưới, phải - trái, trước - sau, ở giữa. - Nhận dạng được hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật thông qua việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật. - Nhận dạng được khối lập phương, khối hộp chữ nhật thông qua việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật. 1.2. Thực hành lắp ghép, xếp hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đơn giản - Nhận biết và thực hiện việc lắp ghép, xếp hình gắn với sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật. Lớp 2 2.1. Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng của một số hình phẳng và hình khối đơn giản - Nhận biết được điểm, đoạn thẳng, đường cong, đường thẳng, đường gấp khúc, ba điểm thẳng hàng thông qua hình ảnh trực quan. - Nhận dạng được hình tứ giác thông qua việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật - Nhận dạng được khối trụ, khối cầu thông qua việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật 2.2. Thực hành đo, vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học - Thực hiện được vẽ đoạn thẳng có độ dài cho trước - Nhận biết và thực hiện được việc gấp, cắt, ghép, xếp và tạo hình gắn với việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật. - Giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đơn giản liên quan đến hình phẳng và hình khối đã học. Lớp 3 3.1. Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của một số hình phẳng và hình khối đơn giản - Nhận biết được: điểm ở giữa; trung điểm của đoạn thẳng; góc; góc vuông; góc không vuông; tam giác; tứ giác; đỉnh, cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông; tâm, bán kính, đường kính của hình tròn; đỉnh, cạnh, mặt của khối lập phương, khối hộp chữ nhật. 3.2. Thực hành đo, vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học - Thực hiện được việc vẽ góc vuông, đường tròn, vẽ trang trí - Sử dụng được êke để kiểm tra góc vuông, sử dụng được compa để vẽ đường tròn - Thực hiện được vẽ hình vuông, hình chữ nhật bằng lưới ô vuông - Giải quyết một số vấn đề liên quan đến gấp, cắt, ghép, xếp, vẽ và tạo hình trang trí. Lớp 4 4.1. Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của một số hình phẳng đơn giản - Nhận biết được: góc nhọn; góc tù; góc bẹt; hai đường thẳng vuông góc, hai đường thẳng song song; hình bình hành; hình thoi 4.2. Thực hành đo, vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học - Thực hiện được việc vẽ đường thẳng vuông góc, đường thẳng song song bằng thước thẳng và êke. - Thực hiện được việc đo, vẽ, lắp ghép, tạo lập một số hình phẳng và hình khối đã học. - Giải quyết được một số vấn đề liên quan đến đo góc, vẽ hình, lắp ghép, tạo lập hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học. Lớp 5 5.1. Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của một số hình phẳng và hình khối đơn giản - Nhận biết được hình thang, đường tròn, một số loại hình tam giác như tam giác nhọn, tam giác vuông, tam giác tù, tam giác đều. - Nhận biết được hình khai triển của hình lập phương, hình hộp chữ nhật và hình trụ. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 218 5.2. Thực hành vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học - Vẽ được hình thang, hình bình hành, hình thoi(sử dụng lưới ô vuông) - Vẽ được đường cao của hình tam giác - Vẽ được đường tròn có tâm và độ dài bán kính hoặc đường kính cho trước. - Giải quyết được một số vấn đề về đo, vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đã học, liên quan đến ứng dụng của HH trong thực tiễn, liên quan đến nội dung các môn học như Mĩ thuật, Công nghệ, Tin học. Từ việc phân tích chương trình ở trên, có thể sơ bộ đưa ra một số nhận xét: - Các kiến thức về HH được trình bày xen kẽ với các kiến thức về số và phép tính, Thống kê và Xác suất nhằm tạo ra mối liên hệ hữu cơ và sự hỗ trợ chặt chẽ giữa các mạch kiến thức với nhau. Điều này vừa phù hợp với tính thống nhất của toán học hiện đại, vừa giúp đa dạng hóa các loại hình luyện tập toán, làm cho các em ham thích học tập hơn. Làm cho việc tích hợp nội môn, liên môn dễ dàng hơn, phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS, phù hợp lí luận về “vùng phát triển gần nhất” của Vygotsky. - Nội dung HH, xây dựng theo nguyên tắc đồng tâm, xoáy trôn ốc. Chẳng hạn ở lớp 1, HS đã được học về hình vuông nhưng chỉ được học nhận dạng trên tổng thể (chưa đi vào phân tích các chi tiết), chỉ được tập vẽ hình vuông có bốn đỉnh cho trước trên giấy kẻ ô vuông. Sau đó, ở lớp 3, HS lại được học về hình vuông ở mức độ cao hơn, nhận dạng hình vuông dựa trên các đặc điểm về cạnh và góc (có 4 cạnh bằng nhau và có 4 góc vuông), cách tính chu vi, diện tích hình vuông. Đến lớp 4 HS được thực hành vẽ hình vuông có kích thước cho trước bằng thước và êke. Từ những phân tích trên, chúng tôi có một số gợi ý cho giáo viên trong dạy học HH ở tiểu học như sau: - Trực quan được hiểu là nhận thức trực tiếp thông qua các giác quan của con người. Theo Hoàng Phê thì trực quan nghĩa là dùng những vật cụ thể hay ngôn ngữ, cử chỉ làm cho HS có được hình ảnh cụ thể về những điều đã học [3]. Theo Từ điển Giáo dục học của Bùi Hiền: “Trực quan trong dạy học, là nguyên tắc lí luận dạy học mà theo nguyên tắc này thì dạy học phải dựa trên những hình ảnh cụ thể, HS trực tiếp tri giác”. Theo Phan Trọng Ngọ [4] thì trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự vật bằng các giác quan, mà là hành động, tác động lên sự vật, làm biến đổi các dấu hiệu bề ngoài của chúng, làm cho cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của chúng được bộc lộ, phơi bày một cách cảm tính, mà nếu không có sự tác động đó thì chúng mãi còn là bí ẩn đối với nhận thức của con người. Như vậy, chúng tôi cho rằng, cần thiết phải dùng những vật cụ thể để HS cảm nhận bằng các giác quan, hành động, tác động lên vật nhận ra tri thức HH, sử dụng tri thức HH vào một số tình huống đơn giản trong thực tiễn trong dạy học HH ở tiểu học. Quan điểm đó phù hợp với cơ sở triết học, cơ sở tâm lí học và cơ sở giáo dục học. - Dạy học HH ở tiểu học sẽ đảm bảo tính vừa sức trong giáo dục. Ở TH, các em chỉ tiếp thu các kiến thức HH dựa trên những hình ảnh quan sát trực tiếp, dựa trên các hoạt động thực hành như đo đạc, tô, vẽ, cắt, ghép, gấp, xếp hình. Điều này khác với HH ở trung học là môn HH suy diễn, trong đó các kiến thức HH đều phải được lí giải, chứng minh một cách chặt chẽ dựa trên các tiên đề, định nghĩa, định lí, và các quy tắc suy luận. Đảm bảo tính vừa sức cho HS nên HH vẫn tiếp tục được dạy kết hợp với HH phẳng ở các lớp 6, 7, 8, 9. - Giáo viên cần lưu ý dạy, tổ chức cho HS cách quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của một số hình phẳng và hình khối đơn giản trong thực tiễn và thực hành đo, vẽ, lắp ghép, tạo hình gắn với một số hình phẳng và hình khối đơn giản trong thực tiễn. Những sự vật, hiện tượng gắn với HH trong thực tế đời sống thực sẽ là chỗ dựa cho tư duy, hỗ trợ HS nhận thức được và vượt qua được những rào cản của đặc điểm trừu tượng của HH. Cần thiết dạy HH phải bắt đầu từ những hình ảnh, đồ dùng đồ vật thật, phải “trực quan”. - Cũng cần vận dụng theo lứa tuổi phù hợp với những lớp đầu cấp, cuối cấp. Từ đồ vật thật, hình ảnh của đồ vật thật đến sơ đồ, mô hình có tính chất tượng trưng, trừu tượng và khái quát hơn. Khi dạy hình thành một biểu tượng HH thì HS thường tri giác tính đại thể, toàn bộ, hành động cụ thể nên GV cần chuẩn bị đồ dùng đúng, đủ, bộc lộ rõ những dấu hiệu bản chất của biểu tượng. - Dạy HH cần hình thành trí tưởng tượng không gian cho HS nhưng tưởng tượng của HS thường tản mạn, đơn giản. GV cần biết đặc điểm này để hiểu và tìm cách giúp đỡ hình thành, phát triển trí tưởng tượng. Trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ logic nên đây là một lí do nữa khẳng định cần bắt đầu dạy HH từ trực quan hình tượng thì HS mới dễ nhớ từ đó tìm cách để HS có trí nhớ logic, dần thoát ly đồ dùng trực quan. Từ hình thành NL thị giác hình ảnh rồi mới đến NL ngôn ngữ... - Dạy học yếu tố HH ở chương trình hiện hành cũng đã được dạy theo hướng HH nhưng ở một số hoạt động dạy học yêu cầu chưa rõ nên cách thức tiến hành chưa thực sự “trực quan” vừa sức với HS, HS vẫn khó tiếp thu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 219 ở một số nội dung học tập do chưa được trải nghiệm nhiều trên đồ dùng trực quan để tìm ra kiến thức hoặc việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn ít. Cách đặt tên môn và cấu trúc nội dung học tập, với hai yêu cầu rõ ràng có tính đến sự phát triển nhận thức HH của HS như ở chương trình mới sẽ giúp GV tiến hành thiết kế và tổ chức dạy học đạt kết quả hơn. - Có thể sử dụng sơ đồ Van Hiele trong dạy học HH cho HS: + Sơ đồ Van Hiele là kết quả nghiên cứu của hai nhà giáo dục học người Hà Lan là Pierre Van Hiele và Dina Van Hiele-Geldof về năm mức độ tư duy HH của HS. Phần lớn chương trình dạy HH ở phổ thông của các nước trên thế giới theo quan điểm này. Sơ đồ như dưới đây: Hình 1. Sơ đồ năm mức độ tư duy HH của HS tiểu học [4], [5] Trong đó: Mức độ 1: Trực quan hóa (visualization). Những đối tượng của tư duy ở mức này là những hình vẽ và những điều mà HS trông thấy. Các em có một ấn tượng toàn thể về những đặc trưng trực quan của mỗi hình nhưng không rõ ràng. Các em chỉ nhận biết được các hình vẽ qua sự hiện diện tổng quát (hình tam giác, hình vuông, hình tròn...) nhưng không nhận biết được tính chất của các hình vẽ này. Mức độ 2: Phân tích (Analysis). Những đối tượng của tư duy ở đây là một lớp các hình như nhau chứ không còn là từng hình riêng, cụ thể. HS phân tích được các thành phần cấu thành nên các hình vẽ đó nhưng mối quan hệ qua lại giữa hình vẽ và các tính chất là không thể lí giải được. HS có thể tách ra những thông tin không thích hợp như kích thước và vị trí. Các em bắt đầu biết rằng nếu một hình thuộc lớp “vuông” thì nó có mọi thuộc tính của lớp đó (4 góc vuông, 4 cạnh bằng nhau, các đường chéo vuông góc...). Mức độ 3: Suy diễn không hình thức (Informal Deduction). Những đối tượng của tư duy ở đây là những thuộc tính của các hình. Các em bắt đầu suy luận theo dạng “nếu - thì”, chẳng hạn, “Nếu đó là một hình chữ nhật thì nó có tất cả các góc đều vuông”. HS có thể bắt đầu nghĩ về thông tin tối thiểu cần thiết để định nghĩa những hình; chẳng hạn, hình tứ giác có 4 cạnh bằng nhau và một góc vuông là hình vuông. Các em cũng có thể thiết lập mối quan hệ qua lại của các tính chất trong hình vẽ và giữa các hình vẽ với nhau (một hình vuông là một hình chữ nhật bởi vì nó có tất cả các tính chất của hình chữ nhật). Mức độ 4: Suy diễn (Deduction). Những đối tượng của tư duy ở đây là những mối quan hệ về thuộc tính của các hình. HS có thể khám phá ra các mối quan hệ, nêu ra các giả thuyết và tiến hành khẳng định nếu các giả thuyết đưa ra là đúng. Cấu trúc của những tiên đề, các định nghĩa, các định lí... bắt đầu được hình thành. HS có thể làm việc với những phát biểu trừu tượng và chỉ ra được những kết luận trừu tượng cơ bản hơn trên cơ sở logic. Khả năng có thể phát triển một chứng minh theo nhiều cách cũng được đề cập đến. Mức độ 5: Chính xác (Rigor). Những đối tượng của tư duy ở đây là những hệ tiên đề suy diễn trong HH. Chẳng hạn, HS có thể so sánh và đối chiếu những hệ tiên đề HH khác với hệ tiên đề của HH Euclide, chẳng hạn HH phi Euclide. Việc dạy học HH ở tiểu học chủ yếu dựa trên ba mức độ đầu của sơ đồ Van Hiele và tập trung ở mức độ 1 và mức độ 2. 2.4. Tổ chức dạy học Hình học ở tiểu học phát triển năng lực cho học sinh Tùy từng nội dung dạy học, GV tiến hành quy trình: Bước 1: Giáo viên (GV) giới thiệu (một số) yếu tố trực quan (ở các vị trí, kích thước, màu sắc khác nhau) và hướng dẫn HS quan sát, nhận xét để chỉ ra dấu hiệu bản chất chứa đựng trong yếu tố trực quan đó. Bước 2: Từ dấu hiệu bản chất này, GV hướng dẫn HS trừu tượng hoá để có tri thức HH cần học. Bước 3: Từ hình ảnh trừu tượng, HS hoạt động tạo ra biểu tượng trên vật thật, ứng dụng vào thực tiễn Ví dụ: Dạy về “Góc vuông. Góc không vuông” ở Toán 3 ta thấy GV cần tổ chức cho HS quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của góc vuông, góc không vuông, HS thực hiện được việc vẽ góc vuông. Sử dụng được êke để kiểm tra góc vuông, góc không vuông. Ở mức độ cao hơn GV có thể tổ chức để HS trải nghiệm gấp được góc vuông, vẽ được góc vuông hoặc vận dụng được việc kiểm tra góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn, trong đo đạc ruộng đất, trong xây dựng. Bước 1: GV giới thiệu yếu tố trực quan: GV giới thiệu mô hình các đồng hồ chỉ các thời gian khác nhau như trong hình 1. Cho HS quan sát, nêu được VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 220 thời gian và nhận xét được: Muốn xác định một thời điểm trên đồng hồ phải dựa vào vị trí của kim phút và kim giờ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ở đây không phải là minh họa cho nội dung nào của đại lượng thời gian mà là hướng HS tới các kim của từng mặt đồng hồ để nhận ra: “Hai kim đồng hồ trong mỗi hình trên tạo thành góc”. Bước 2: Giúp HS trừu tượng hoá thành tri thức HH cần học ở hình 2 Hình 2 Sau đó GV giới thiệu với HS về góc vuông - góc không vuông (Hình 3), HS quan sát hình vẽ, nghe hướng dẫn rồi đọc Hình 3 Bước 3: HS vẽ, gấp, cắt góc vuông, góc không vuông..., nhận ra góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn, ứng dụng của góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn. Có thể tổ chức cho HS các hoạt động như gợi ý dưới đây: Hoạt động 1. Tổ chức cho HS đọc cá nhân, nhóm đôi, nhóm lớn để nói đúng các từ góc vuông, góc không vuông trên hình ảnh. Đọc đúng từ “cái ê ke”. Nói được: “Cái ê ke dùng để kiểm tra góc vuông”. Biết viết đúng từ “Ê ke”, sử dụng đúng các từ “góc vuông”, “góc không vuông”, đỉnh, cạnh ứng với các trường hợp cụ thể. Cho HS kiểm tra các góc vuông, góc không vuông, tìm số góc vuông trong một hình... Hình 4 Hoạt động 2. Tổ chức cho HS tạo góc, chỉ ra các góc vuông trong hình ảnh cho trước (dạng cảm nhận, không đo), ... Có thể dùng hai cánh tay để biểu diễn góc vuông theo nhiều tư thế, “Tay phải ra trước, tay trái sang ngang”, “ Tay trái ra trước, tay phải sang ngang”, “Một tay nằm ngang, một tay thẳng đứng”, Có thể kết hợp dạy từ ngữ “thẳng đứng”, “nằm ngang”, “tung hoành - ngang dọc” trong ngôn ngữ thông thường. Có thể cho HS tạo hình ảnh góc vuông, góc không vuông từ 2 ngón tay, hai bàn tay, một số động tác trong yoga, thể dục thể thao... 4 HS đứng tạo 4 góc vuông.... Hoạt động 3. Tổ chức cho HS vẽ hình: quan sát mẫu rồi thảo luận cách dùng ê ke để vẽ góc vuông. Hoạt động 4. Tổ chức cho HS ghép hình (chẳng hạn như dưới đây). Bài toán: “Hai miếng bìa nào có thể ghép lại được một góc vuông như hình A hoặc hình B” ? Hình 5 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 221 Hoạt động 5. Tổ chức cho HS gấp hình (chẳng hạn như dưới đây). Yêu cầu: Gấp mảnh giấy để tạo ra góc vuông (Gấp cái ê ke) Hình 6 3. Kết luận Muốn triển khai tốt trong thực tiễn việc dạy học các môn học theo tiếp cận phát triển NL cho HS, đạt mục tiêu đổi mới giáo dục phổ thông cần tiếp tục tìm hiểu không chỉ nội dung các mạch kiến thức, nội dung các môn học mà còn cần thiết tìm hiểu các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá kết quả học tập, thiết bị dạy học, cơ sở vật chất đi kèm. Mục tiêu, nội dung chương trình là yếu tố đầu tiên quyết định thành công của chương trình, tìm hiểu nội dung chương trình để thấy những điểm mới, những yêu cầu của chương trình từ đó tiếp tục tìm hiểu các yếu tố còn lại, xác định những nội dung dạy học cụ thể trong mỗi tiết học. Qua tìm hiểu tin tưởng chương trình và nội dung môn học đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông. Tài liệu tham khảo [1] Clements, D. H. (1999).”Geometric and spatial thinking in young children”. In J. V. Copley (Ed.), Mathematics in the early years, Reston, VA: National Council of Teachers of Mathematics, pp. 66-79. [2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán. [3] Hoàng Phê (2018). Từ điển Tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học. [4] Van Hiele, Piem M (1984). A Child's Thought and Geometry. National Science Foundation, Washington D.C [5] Cobb, P., - Steffe, L. P. (1983). The constructivist researcher as teacher and model builder. Journal for Research in Mathematics Education, Vol. 14, pp. 83-94. [6] William F. Burger - J. Michael Shaughnessy (1986). Characterizing the van hiele levels of development in geometry. Journal for Research In Mathematics Education (1986), Vol. 17 (1), pp. 31-48. [7] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm. [8] Đỗ Đức Thái - Đỗ Tiến Đạt - Nguyễn Hoài Anh - Trần Ngọc Bích - Đỗ Đức Bình - Hoàng Mai Lê - Trần Thúy Ngà (2018). Dạy học phát triển năng lực môn Toán tiểu học. NXB Đại học Sư phạm. THỰC TRẠNG TỰ HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 312) Tài liệu tham khảo [1] Candy, P. (1988). On the attainment of subject- matter autonomy. In D. Boud (Ed.). Developing student autonomy in learning (2nd Edition). New York: Kogan, pp. 59-76. [2] Lê Viết Chung (2018). Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Cảnh Sát Nhân dân. Tạp chí Khoa học Giáo dục - Cảnh sát Nhân dân, số tháng 6. [3] Lê Thị Hồng Lam (2013). Hoạt động tự học Tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 11, số 4, tr 574-581. [4] Nguyễn Cảnh Toàn (1999). Luận bàn và kinh nghiệm tự học. NXB Giáo dục. [5] Aoki, N. - R. Smith (1999). Learner autonomy in cultural context: the case of Japan. [6] Dam, L. (1995). Learner Autonomy 3: From Theory to Classroom Practice. Dublin: Authentik. [7] Little, D. (1991). Learner autonomy: Definition, issue and problem, Dublin: Authentic. [8] Littlewood, W. (1997). Self-access: why do we want it and what can it do?. In P. Benson & P. Voller(Eds). Autonomy and independence in language learning, New York: Longman, pp. 79-92 [9] Rhoads, K., - DeHaan, J. (2013). Enhancing student self-study attitude and activity with motivational techniques. Studies in Self-Access Learning Journal, Vol. 4(3), pp. 175-195. [10] Rubakin. N.A (1982). Tự học như thế nào. NXB Thanh niên. [11] Hồ Ngọc Đại (2002). Tâm lí học dạy học. NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- phan_tich_noi_dung_va_de_xuat_mot_so_ki_thuat_day_hoc_hinh_h.pdf