Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam

Nghiên cứu này phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động3

(LLLĐ) của nữ giới tại Việt Nam, sử dụng đến số liệu được thu thập từ bộ điều tra lao động việc

làm và điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình trên 63 tỉnh thành của Tổng cục

Thống kê giai đoạn 2011 – 2014. Bài nghiên cứu đã dựa trên việc xác định được vai trò quan

trọng của LLLĐ nói chung và LLLĐ nữ nói riêng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua

hàm sản xuất Cobb-Douglas và mô hình Solow mà tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân thật sự

khiến cho tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới lại thấp và tăng chậm như hiện nay, từ 72.6% năm

2011 lên 73.6% năm 2014. Sau khi xem xét các mô hình của một số tác giả trên thế giới đã từng

nghiên cứu vấn đề tương tự, mô hình tác động cố định FEM được sử dụng để phân tích các yếu

tố ảnh hưởng tới sự tham gia LLLĐ của phụ nữ Việt Nam. Lúc này, biến phụ thuộc tỷ lệ tham gia

LLLĐ của nữ giới được giải thích bởi các biến: tỷ lệ nữ giới biết chữ, tỷ lệ nữ giới chưa qua đào

tạo, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ giới sống ở thành thị, tỷ lệ nữ giới đã kết hôn, chênh lệch thu nhập bình

quân hàng tháng giữa nam và nữ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng có sự tác động của tỷ

lệ biết chữ, tỷ lệ không có chuyên môn kỹ thuật (CMKT), tỷ lệ kết hôn của nữ giới và GDP là các

yếu tố có tác động đến tỷ lệ tham gia LLLĐ4 của nữ giới nước ta. Trong khi đó, theo kết quả từ

mô hình, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ sống ở đô thị và chênh lệch thu nhập giữa hai giới không được

chứng minh là có ảnh hưởng gì đến tỷ lệ này.

pdf 14 trang kimcuc 14560
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam

Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam
1 
Mã số: 344 
Ngày nhận: 26/12/2016 
Ngày gửi phản biện lần 1: 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 25/1/2017 
Ngày duyệt đăng: 25/1/2017 
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA LỰC LƯỢNG 
LAO ĐỘNG CỦA NỮ GIỚI TẠI VIỆT NAM 
Bùi Anh Tuấn1, Nguyễn Thị Lan Anh2 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động3 
(LLLĐ) của nữ giới tại Việt Nam, sử dụng đến số liệu được thu thập từ bộ điều tra lao động việc 
làm và điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình trên 63 tỉnh thành của Tổng cục 
Thống kê giai đoạn 2011 – 2014. Bài nghiên cứu đã dựa trên việc xác định được vai trò quan 
trọng của LLLĐ nói chung và LLLĐ nữ nói riêng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua 
hàm sản xuất Cobb-Douglas và mô hình Solow mà tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân thật sự 
khiến cho tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới lại thấp và tăng chậm như hiện nay, từ 72.6% năm 
2011 lên 73.6% năm 2014. Sau khi xem xét các mô hình của một số tác giả trên thế giới đã từng 
nghiên cứu vấn đề tương tự, mô hình tác động cố định FEM được sử dụng để phân tích các yếu 
tố ảnh hưởng tới sự tham gia LLLĐ của phụ nữ Việt Nam. Lúc này, biến phụ thuộc tỷ lệ tham gia 
LLLĐ của nữ giới được giải thích bởi các biến: tỷ lệ nữ giới biết chữ, tỷ lệ nữ giới chưa qua đào 
tạo, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ giới sống ở thành thị, tỷ lệ nữ giới đã kết hôn, chênh lệch thu nhập bình 
quân hàng tháng giữa nam và nữ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng có sự tác động của tỷ 
lệ biết chữ, tỷ lệ không có chuyên môn kỹ thuật (CMKT), tỷ lệ kết hôn của nữ giới và GDP là các 
yếu tố có tác động đến tỷ lệ tham gia LLLĐ4 của nữ giới nước ta. Trong khi đó, theo kết quả từ 
mô hình, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ sống ở đô thị và chênh lệch thu nhập giữa hai giới không được 
chứng minh là có ảnh hưởng gì đến tỷ lệ này. 
1
 Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam/Associate Professor, Doctor, President 
of Foreign Trade University, Vietnam 
Email: buianhtuan.bgh@ftu.edu.vn 
2
 Cử nhân, Khoa Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam/Bachelors of International Economics, 
Foreign Trade University, Vietnam 
Email: nguyenlananh3110@gmail.com 
3 Điều kiện về độ tuổi được tính là có thể tham gia lao động được tính là từ 15 tuổi trở lên 
4 Là chỉ tiêu đánh giá sự tham gia LLLĐ, được tính theo công thức của Tổng cục Thống kê: 
 ỷ ệ Đ 
 â ố ổ ở ê ạ độ ế
 â ố ổ ở ê 
2 
Từ khóa: LLLĐ, sự tham gia LLLĐ, nữ giới 
Abstract 
To analyze factors affecting female labour force
5
 participation in Vietnam, statistics utilized was 
collected from labour and employment investigation and population variation and family 
planning carried out by General Statistics Office of Vietnam in 63 Vienamese provinces/cities 
during 2011 - 2014. Basing on defining the important role of labour force, especially female 
labour force to economic - social development through Cobb-Douglas production function and 
Solow model, actual reasons causing low and slowly increasing female labor force participation 
rate from 72.6% (2011) to 73.6% (2014) are discovered. 
On the basis of research models for similar subjects by several authors in the world, fixed effects 
model (FEM) is used to analyze the factors affecting the female labor force participation in 
Vietnam. Accordingly, the dependent variable of female labor force participation ratio is 
explained by the variables: the ratio of female literate, the proportion of untrained females, 
fertility rate, the proportion of women living in urban areas, percentage of married women, 
average income disparities between men and women each month. As a result, it is confirmed that 
the impact of the literacy rate, the non-technical expert rate, the proportion of married women 
and GDP have affected participation ratio of female labor force
6
 in our country. Meanwhile, 
according to the results from the model, the birth rate, the percentage of women living in urban 
areas and the income gap between the sexes are not proved to have any effect on this ratio. 
Keyword: labour force, labour force participation, female 
5
 Age condition for calculating is 15 years old and above 
6
 It is the criteria for assessing labour force participation, calculated by General Satistical Office as following: 
*100% 
3 
1. Giới thiệu 
LLLĐ đóng vai trò to lớn trong việc nâng 
cao đời sống vật chất, thúc đẩy kinh tế tăng 
trưởng, tạo sự phồn vinh cho xã hội. LLLĐ 
là “những con người sử dụng sức lao động 
một cách có ý thức nhằm phục vụ cho nhu 
cầu của bản thân cũng như của người khác”, 
và sức lao động không bao giờ cạn kiệt. Bởi 
vậy, theo Mác thì sức lao động được coi là 
một trong ba nguồn lực chính của quá trình 
sản xuất bên cạnh đối tượng lao động và tư 
liệu lao động. Ông cũng cho rằng có 4 yếu 
tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là lao 
động, vốn, đất đai và tiến bộ về mặt công 
nghệ - kỹ thuật. Sự ra đời của hàm sản xuất 
Cobb-Doughlas về sau cũng là dựa trên cơ 
sở đó: 
Trong đó, Y đại diện cho tổng sản lượng 
nội địa mà nền kinh tế sản xuất ra, L là tổng 
số người lao động tham gia các hoạt động 
kinh tế và K là tổng vốn xã hội đầu tư cho 
nền sản xuất. A được xem là hệ số liên quan 
đến công nghệ, khi công nghệ được áp dụng 
cho quá trình sản xuất càng tiên tiến thì hệ 
số này càng lớn. Theo hàm này, LLLĐ đóng 
vai trò trọng yếu vào sự tăng trưởng kinh tế, 
là yếu tố đầu vào của sản xuất không thể 
thiếu và với quy mô LLLĐ lớn thì khả năng 
gia tăng sản lượng quốc dân càng cao. 
Do đó, việc thúc đẩy sự tham gia vào 
LLLĐ là vô cùng cần thiết để có thể góp 
phần tăng trưởng kinh tế. Nhất là đối với nữ 
giới, bởi lẽ nữ giới cũng chiếm gần nửa bộ 
phận lao động, khoảng 48.5% - 48.6% trong 
giai đoạn 2011 – 2013. Nữ giới tuy về mặt 
thể lực thì khó bằng nam giới nhưng về trí 
lực, tay nghề, độ khéo léo cũng không thua 
kém. Bởi thế, khi tham gia vào các hoạt 
động kinh tế, lao động nữ thường tham gia 
vào các ngành dịch vụ - ngành đang được 
đất nước tập trung phát triển và đang nằm 
trong mục tiêu hướng đến của quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. LLLĐ cũng giúp 
tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, giảm đói 
nghèo, nâng cao đời sống của chính họ, và 
sau đó họ lại tiếp tục tái sản xuất, tái đầu tư 
vào lao động để nâng cao chất lượng thông 
qua hoạt động đào tạo – giáo dục, nhờ thế 
mà tăng cơ hội có việc làm, tăng thu nhập và 
nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, việc 
tham gia LLLĐ của con người trong đó có 
phụ nữ cần được chú trọng thúc đẩy để xây 
dựng nền tảng vững chắc cho quá trình phát 
triển mạnh mẽ về sau của quốc gia. Đặc biệt, 
nữ giới ở nước ta còn chịu nhiều thiệt thòi, 
bất bình đẳng giới tồn tại rất rõ nét trong khi 
Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế 
giới thì việc họ gia nhập vào TTLĐ cần 
được khuyến khích hơn bao giờ hết để góp 
phần đưa đất nước lên tầm cao mới. 
Vậy điều gì sẽ thúc đẩy hay làm giảm đi 
sự tham gia vào LLLĐ của nữ giới Việt 
Nam? Đây là câu hỏi cần được giải đáp kịp 
thời, vì trong bối cảnh toàn cầu hóa, các 
quốc gia cũng dần ý thức được rằng xa hơn 
cả tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội 
mới là điều cần phải đạt đến. Khi sự tham 
gia LLLĐ của nữ được quan tâm một cách 
đầy đủ cũng là lúc nước ta dần tiến sâu hơn 
vào hội nhập quốc tế, tạo cơ hội cho nền 
kinh tế quốc dân được tăng trưởng mạnh mẽ 
và ổn định hơn, đồng thời rút ngắn đi 
khoảng cách về giới và mở ra một tương lai 
tốt đẹp hơn cho Việt Nam. 
Mục tiêu cốt lõi của bài nghiên cứu là 
phân tích sự tác động của một số yếu tố kinh 
4 
tế - văn hóa – giáo dục - xã hội tiêu biểu đến 
sự gia nhập vào TTLĐ của nữ giới Việt 
Nam. Dựa trên cơ sở đó, tác giả sẽ đưa ra 
những giải pháp hợp lý nhằm cải thiện chỉ 
tiêu tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới. 
Đối tượng nghiên cứu được xác định là 
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của 
phụ nữ vào LLLĐ, bao gồm: yếu tố kinh 
tế(GDP), yếu tố bất bình đẳng giới trong 
kinh tế (chênh lệch thu nhập bình quân giữa 
hai giới), yếu tố địa lý - xã hội (tỷ lệ sinh 
sống ở đô thị, tỷ suất sinh, tỷ lệ phụ nữ có 
gia đình), yếu tố giáo dục (tỷ lệ biết chữ, tỷ 
lệ không có CMKT). Các dữ liệu liên quan 
đến những yếu tố này sẽ được thu thập trong 
63 tỉnh thành trên lãnh thổ Việt Nam. 
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình 
nghiên cứu 
2.1 Cơ sở lý thuyết về các yếu tố ảnh 
hưởng đến sự tham gia LLLĐ của nữ giới 
Theo như UNDP, có 5 yếu tố làm nên chỉ 
số bất bình đẳng giới (GII) bao gồm nền 
tảng giáo dục, vị trí trong quốc hội, sinh sản 
tuổi vị thành niên, tử vong ở bà mẹ và đặc 
biệt là sự tham gia vào LLLĐ – một yếu tố 
quan trọng nhằm đánh giá mức độ bất bình 
đẳng trong quốc gia hay trong khu vực. Việc 
xem xét và phân tích các yếu tố tác động đến 
sự tham gia vào LLLĐ của nữ giới là việc 
làm hết sức cần thiết để có thể xây dựng 
được nền tảng đánh giá được các nguyên 
nhân gốc rễ dẫn đến sự thay đổi trong tỷ lệ 
tham gia tại Việt Nam và có thể đưa ra được 
những giải pháp nâng cao tỷ lệ này. Trong 
bài nghiên cứu này, các yếu tố sẽ được phân 
loại thành ba nhóm: các yếu tố liên quan đến 
giáo dục, đến địa lý – văn hóa – xã hội và 
kinh tế. 
2.1.1 Yếu tố giáo dục 
Giáo dục được xem là nguyên nhân đầu 
tiên dẫn đến sự thay đổi đến việc phụ nữ 
tham gia LLLĐ. Trình độ học vấn càng cao 
thì tỷ lệ tham gia LLLĐ nói chung và của nữ 
giới nói riêng càng tăng. Khi một con người 
càng có sự đầu tư cho hoạt động giáo dục 
của mình là họ kỳ vọng sẽ đạt được thu nhập 
cao hơn nhờ sự giáo dục đó, và với kỳ vọng 
này nên khả năng họ tham gia LLLĐ là cao 
hơn. Becker (1964) đã tập trung nghiên cứu 
sự ảnh hưởng của việc đầu tư vào vốn nhân 
lực đến thu nhập, và ông đưa ra kết luận 
quan trọng nhất là bên cạnh những sự đầu tư 
về sức khỏe, sự nhập cư, các vấn đề liên 
quan đến giá cả hàng hóa và thu nhập chung 
trên thị trường, thì đầu tư về giáo dục và đào 
tạo kỹ năng nghề nghiệp vẫn được xem là 
đáng lưu tâm nhất. Ông đã minh chứng được 
mối tương quan giữa trình độ học vấn và thu 
nhập: khi mà học vấn càng cao thì thu nhập 
càng tăng. Ông cho rằng việc thu nhận kiến 
thức ở trường học cũng như là rèn luyện kỹ 
năng chuyên môn nghề nghiệp là hai mảng 
nâng cao trình độ giáo dục có ảnh hưởng 
tích cực đến thu nhập của mỗi cá nhân. 
Thêm nữa, OECD (2001) đã kết luận được 
rằng trình độ học vấn mà cứ tăng lên một 
bậc thì thu nhập lại tăng khoảng 5% đến 
15%. Theo tính toán, nền tảng giáo dục có 
thể chiếm tới 20% kết quả đầu ra công việc 
của mỗi cá nhân. Trên thực tế, tại Việt Nam, 
kết luận này cũng tương đối đúng khi mà 
trình độ của lao động nói chung và lao động 
nữ nói riêng càng cao thì thu nhập bình quân 
hàng tháng của họ càng lớn, nhờ thế mà tỷ lệ 
tham gia LLLĐ của họ cũng gián tiếp tăng 
lên vì kỳ vọng có được mức lương cao nhằm 
trang trải cho cuộc sống. Ở cấp độ học vấn 
hay CMKT càng cao thì thu nhập của lao 
5 
động nữ giới càng lớn. Thậm chí, thu nhập 
giữa các trình độ còn có sự chênh lệch 
không hề nhỏ, nhất là giữa trình độ cao đẳng 
và đại học trở lên. Theo Tổng cục Thống kê, 
tại Việt Nam, nếu như khoảng cách này vào 
năm 2011 là 1.112 triệu đồng/người thì đến 
năm 2014, con số là 1.284 triệu đồng/người, 
tăng trung bình 3.9%/ năm. Trong khi đó, 
nếu như thuộc về nhóm lao động không có 
CMKT, lao động nữ giới sẽ chỉ có được 
mức lương thấp, cách xa trình độ cao nhất từ 
2.04 triệu đồng/người năm 2011 lên 2.813 
triệu đồng/người năm 2014 với mức tăng 
trung bình là xấp xỉ 9.5%/năm. Nhìn vào 
khoảng cách này, có thể nhận thấy rằng trình 
độ học vấn, tay nghề lao động có thể ảnh 
hưởng khá lớn đến thu nhập của người lao 
động nữ giới. 
2.1.2 Yếu tố địa lý – văn hóa – xã hội 
Tình trạng hôn nhân của nữ giới hay tỷ 
suất sinh cũng khiến cho tỷ lệ này có sự thay 
đổi. Phụ nữ đóng góp cho xã hội không chỉ 
thông qua việc tham gia hoạt động kinh tế 
mà còn qua việc tạo ra thế hệ lao động trong 
tương lai. Do phải tập trung vào việc duy trì 
nòi giống nên nhiều phụ nữ không còn cơ 
hội hoạt động kinh tế, tạo ra của cải cho xã 
hội và chấp nhận sống lệ thuộc. Ngược lại, 
nếu như áp lực sinh con được giảm đi thì 
người phụ nữ có thể dành nhiều thời gian 
hơn cho các công việc bên cạnh việc chăm 
sóc con cái. Theo cách giải thích này, tỷ suất 
sinh có tác động tiêu cực đến sự tham gia 
LLLĐ của nữ giới. 
Bên cạnh đó, nơi sinh sống của người phụ 
nữ cũng có thể có tác động không nhỏ tới tỷ 
lệ tham gia LLLĐ của họ. Cụ thể, sinh sống 
ở những nơi hiện đại, phát triển thì sự tham 
gia có thể lớn hơn và ngược lại, những nơi 
còn nghèo nàn, lạc hậu thì khó mà thu hút 
được phụ nữ bước vào TTLĐ. Đó là do 
những khu vực đô thị có trình độ phát triển 
hơn, văn minh hơn nên lối sống, quan điểm 
của những người ở đây cũng hiện đại hơn, 
chịu ảnh hưởng của các nền tư tưởng mới 
hơn, bởi thế mà nữ giới cũng được quan tâm 
hơn, từ việc đầu tư cho giáo dục cho đến sự 
ủng hộ, khuyến khích nữ giới tham gia vào 
các hoạt động kinh tế nhằm gia tăng thu 
nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Không những thế, ở những nơi như vậy 
cũng sẽ đông dân cư, mọc lên hàng loạt các 
khu công nghiệp, doanh nghiệp, các trung 
tâm thương mại Cộng với lúc này, nhu 
cầu tiêu dùng lớn sẽ giúp tạo ra hàng loạt 
việc làm với các mức thu nhập hấp dẫn, bởi 
vậy mà hơn bao giờ hết, nữ giới cần phải 
tham gia vào LLLĐ nhằm đáp ứng được cả 
thị trường rộng lớn đó. Còn ở các khu vực 
nông thôn còn kém phát triển, tư tưởng xã 
hội cổ hủ, bảo thủ cộng thêm không được 
tiếp nhận nhiều luồng văn hóa, công nghệ 
mới nên việc phụ nữ được theo học ở trình 
độ cao hơn để có được công việc tốt hơn 
không mấy được chú trọng, họ gần như chỉ 
tham gia vào các công việc nội trợ, hoặc 
không thường xuyên và không chính thức để 
có thể có nhiều thời gian nhất dành cho gia 
đình. Như vậy, nếu tỷ lệ nữ giới sinh sống ở 
đô thị càng lớn thì tỷ lệ tham gia LLLĐ càng 
có thể được gia tăng hơn và ngược lại, tỷ lệ 
này càng thấp, hay tỷ lệ nữ sống ở nông thôn 
càng cao sẽ gây ảnh hưởng ngược chiều đến 
tỷ lệ tham gia LLLĐ của họ. 
Tuy nhiên, cũng có một cách giải thích 
khác cho việc nơi sống có ảnh hưởng ra sao 
đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới. Đó là 
do các quốc gia, nhất là những quốc gia 
đang phát triển trong đó có Việt Nam đang 
6 
hướng đến đô thị hóa, nhiều nơi từng là 
nông thôn, kém phát triển nay được trở 
thành các khu đô thị. Để thay đổi một nơi 
từng không hiện đại và thiếu nhiều điều kiện 
để tăng trưởng thành một nơi hoàn toàn mới, 
phát triển hơn hẳn cả bề ngoài lẫn bên trong 
thì cần có độ trễ nhất định. Đó là khoảng 
thời gian để nền văn hóa được tiếp nhận và 
thích ứng với những điều mới, cơ hội mới. 
Nhất là những người phụ nữ trước kia ở 
nông thôn, vốn chỉ làm những công việc 
nông nhàn nay được sống ở một nơi mà họ 
được tiếp cận với khoa học – công nghệ hiện 
đại hơn, các việc làm cũng mở ra nhiều với 
mức lương hấp dẫn hơn. Nhưng trình độ học 
vấn, CMKT của họ thì chưa đạt được tới 
mức có thể chớp lấy các cơ hội đó nên bản 
thân họ cũng khó mà có động lực để tham 
gia LLLĐ (WB, 2009), hoặc có muốn cũng 
cần tạm thời rút khỏi TTLĐ để tập trung 
nâng cao  ... ụng để nghiên cứu có thể được phân tích 
dựa trên 3 mô hình: Mô hình hồi quy gộp 
(POLS), Mô hình tác động cố định (FEM) 
và Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Mô 
hình hồi quy số liệu mảng với 63 đối tượng 
quan sát và 4 thời điểm quan sát có dạng: 
Trong đó: 
 i là các tỉnh thành trên lãnh thổ Việt Nam 
và t là các năm nghiên cứu (2011, 2012, 
2013, 2014) 
 là sai số của quan sát i tại thời điểm t 
và thỏa mãn các giả thiết của OLS. 
 là biến không quan sát được 
Dựa trên những bài nghiên cứu tương tự 
về đề tài này, tác giả có dự đoán như sau. 
Bảng 3. Dự đoán về tác động của các biến độc lập 
lên biến phụ thuộc 
Biến độc lập 
Ký 
hiệu 
Tác động được 
dự đoán đối với 
biến phụ thuộc 
Tỷ lệ biết chữ LIT + 
Tỷ lệ lao động chưa qua 
đào tạo 
UNED - 
Tỷ suất sinh FER - 
Tỷ lệ sống ở thành thị URB +/- 
Tỷ lệ đã lập gia đình MAR - 
Chênh lệch thu nhập giữa 
nam và nữ giới 
GAP - 
GDP GDP + 
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 
3.3 Phương pháp ước lượng 
Đầu tiên, tác giả sử dụng kiểm định 
Breuch – Pagan Lagrange để quyết định lựa 
10 
chọn mô hình POLS hay REM, và kết quả 
cho thấy REM là sự lựa chọn tốt hơn. Vì 
vậy, kiểm định Hausman sẽ được đưa vào sử 
dụng để xác định REM hay FEM là mô hình 
hợp lý. Kết quả là p-value nhỏ hơn 10%, hay 
nói cách khác FEM là mô hình tốt nhất để 
chạy bộ số liệu đã thu thập. Sau khi tiến 
hành chạy mô hình FEM, kết quả hồi quy 
cho thấy có một số hệ số hồi quy không có ý 
nghĩa ở mức ý nghĩa 10%, đó là FER, URB 
và GAP, do p-value của chúng đều lớn hơn 
0.1. 
Bảng 4. Kết quả hồi quy của 3 mô hình 
POLS, FEM, REM 
Biến số OLS REM FEM 
LIT -0,141525*** -0,1094294* 0,442531*** 
 (0,0352584) (0,0598882) (0,0844333) 
UNED -0,457420*** -0,03780*** 0,170666*** 
 (0,0926855) (0,0747626) (0,0641689) 
FER 5,395125*** 1,470686** 0,9021933 
 (0,9133568) (0,7002603) (0,567573) 
URB -0,064717*** -0,08935*** 0,0095511 
 (0,0201804) (0,0292634) (0,0315994) 
MAR 0,3819754*** -0,1053434 -0,322749*** 
 (0,0902624) (0,0961555) (0,0855747) 
GDP -0,000011*** -0,000015** 0,0000157** 
 (0,0000035) (0,000006) (0,00000008) 
GAP -0,005602*** -0,00252*** -0,0009987 
 (0,0008865) (0,0008525) 0,0007226 
Hệ số tự 
do 
96,37152*** 127,2101*** 69,89971*** 
 (12,91193) (13,40664) 13,69634 
R
2
 0,7156 0,619 0,3450 
F-test 87,72 71,15 10,77 
Hausman 
test 
_ _ 158,37 
Giá trị sai số chuẩn ở trong dấu ngoặc đơn 
***p-value<0,01,**p-value<0,05,*p-value<0,1 
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ kết quả 
trên phần mềm STATA 
Khác với dự đoán ban đầu, tỷ suất sinh 
FER không có tác động đến quyết định của 
một người phụ nữ về việc tham gia vào 
LLLĐ. Có thể giải thích điều này là do ở 
Việt Nam, số con cái chưa thể khẳng định 
được là người mẹ có cần thiết phải dành 
toàn bộ thời gian cho con hay không. Nếu 
như có nhiều con khiến phụ nữ chịu áp lực 
về tài chính, họ sẽ có động lực mạnh mẽ để 
tham gia TTLĐ để đảm bảo cuộc sống đầy 
đủ hơn cho con. Mặt khác, cũng có ý kiến 
cho rằng, việc phụ nữ đi làm không mang lại 
ích lợi, người chồng có thể trang trải được 
thì họ sẽ ở nhà nội trợ và chu toàn cho con 
cái. Hơn nữa, nhiều người vốn có tư tưởng 
phụ thuộc vào chồng, hoặc không thể phân 
bổ thời gian hợp lý giữa công việc ngoài xã 
hội và trong gia đình nên đã lựa chọn gia 
đình sẽ là mối quan tâm hơn cả và không 
muốn gia nhập TTLĐ. Như vậy, tỷ suất sinh 
tại Việt Nam sẽ không tác động tới sự tham 
gia LLLĐ của nữ giới. 
Còn đối với biến URB, như đã được phân 
tích và dự đoán trước đó, tác giả chưa thể 
khẳng định được sự tác động của tỷ lệ nữ 
giới sinh sống ở thành thị đến sự tham gia 
của phụ nữ vào TTLĐ. Một phần vì thành 
thị là nơi đông dân cư và phát triển sẽ mở ra 
nhiều cơ hội việc làm hơn so với nông thôn, 
nên sẽ hấp dẫn LLLĐ. Mặt khác, có thể sự 
đô thị hóa mạnh mẽ và nhanh chóng của 
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước sẽ biến những môi trường 
vốn dĩ nhiều cổ hủ trở thành nơi hiện đại. Để 
những người sinh sống ở đó, đặc biệt là 
những người phụ nữ vốn quen việc lao động 
chân tay, giản đơn nhiều hơn phải thích 
nghi, làm quen với hoàn cảnh mới. Nếu họ 
muốn có công việc để trang trải cho cuộc 
sống, họ nhất thiết phải nâng cao trình độ 
11 
chuyên môn của mình để đáp ứng được yêu 
cầu cao hơn từ những người thuê lao động. 
Do đó, họ sẽ có thể tạm thời rút khỏi TTLĐ 
để trang bị đầy đủ kiến thức, tay nghề, kỹ 
năng trước khi quay trở lại để tìm kiếm công 
việc phù hợp. Hoặc vì nhận ra mình không 
đủ năng lực để cạnh tranh với các đối thủ 
khác, nhiều người sẽ không có động lực để 
tham gia và tự rút khỏi LLLĐ, sống nhờ vào 
những công việc không chính thức hoặc phụ 
thuộc nhiều vào người khác. Chính vì những 
lý do như vậy cho nên trong trường hợp ở 
Việt Nam ta ở giai đoạn 2011 – 2014 này, tỷ 
lệ nữ giới trên 15 tuổi khó mà ảnh hưởng rõ 
ràng được đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của họ. 
Trong khi đó, sự chênh lệch giữa thu 
nhập bình quân hàng tháng giữa nam giới và 
nữ giới theo mô hình này lại không hề ảnh 
hưởng đến sự tham gia vào LLLĐ của nữ 
giới tại Việt Nam. Nếu như theo giải thích ở 
chương đầu, sự chênh lệch này càng cao 
càng khiến cho phụ nữ có tâm lý phụ thuộc 
vào người đàn ông do thấy mình yếu thế 
hơn. Tuy nhiên, sư giải thích này còn chưa 
đủ chặt chẽ, đồng thời những nghiên cứu 
trên thế giới cũng đã có nhắc đến yếu tố này 
có tác động tiêu cực tới tỷ lệ tham gia LLLĐ 
của nữ giới nhưng lại là ở những quốc gia 
như Hàn Quốc và Nhật Bản – những nước 
có tư tưởng phong kiến khắc nghiệt hơn 
nước ta rất nhiều nên trong mô hình này 
biến GAP không ảnh hưởng được đến 
FLFPR cũng là điều dễ hiểu. 
Vì những biến này không có ý nghĩa 
thống kê nên tác giả đã loại bỏ khỏi mô 
hình. Như vậy, mô hình mới có bốn biến độc 
lập là LIT, UNED, MAR và GDP. Những 
khuyết tật mà tác giả sẽ xem xét là đa cộng 
tuyến, phương sai sai số thay đổi, tự tương 
quan và phân phối không chuẩn của nhiễu. 
Dựa vào bảng 2, có thể nhận thấy không 
có hệ số tương quan riêng phần nào có giá 
trị tuyệt đối là lớn hơn 0.8, vì vậy không có 
trường hợp đa cộng tuyến xảy ra trong mô 
hình nghiên cứu. 
Tiếp đến kiểm định về phương sai sai số 
thay đổi sẽ được thực hiện thông qua kiểm 
định Wald chỉ dành riêng cho mô hình FEM. 
Kết quả cho thấy p-value là 0, nhỏ hơn 10%, 
điều đó đồng nghĩa với việc mô hình đang 
nghiên cứu có phương sai sai số thay đổi, 
đòi hỏi cần phải khắc phục thông qua 
Robust. Kết quả mô hình sau khi được khắc 
phục cho thấy các biến vẫn có ý nghĩa thống 
kê với p-value đều nhỏ hơn 10%. 
Bảng 5. Kết quả mô hình hồi quy sau khi khắc 
phục khuyết tật phương sai sai số thay đổi bằng 
hồi quy Robust 
Tên 
biến 
Hệ số hồi 
quy 
Sai số tiêu 
chuẩn 
p-
value 
LIT 0.4393 0.1573 0.007 
UNED -0.1746 0.098 0.08 
MAR -0.2709 0.1229 0.031 
GDP 0.0000149 0.00000935 0.016 
Hệ số 
tự do 
68.94934 24.94951 0.007 
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 
Tiếp theo, khuyết tật tự tương quan của 
mô hình sẽ được xem xét thông qua kiểm 
định Wooldridge. Kết quả là p-value đạt 0.5, 
lớn hơn 10%, tức là mô hình không mắc tự 
tương quan chuỗi. Cuối cùng, dùng kiểm 
định Skewness-Kurtosis để làm rõ nhiễu có 
phân phối chuẩn hay không. Kết quả cho 
thấy p-value của cả hai hệ số Skewness và 
Kurtosis đều bé hơn 10%, với giá trị lần lượt 
là 0.0011 và 0.0014. Điều đó đồng nghĩa với 
12 
việc bác bỏ H0, hay nhiễu có phân phối 
chuẩn. 
Có thể kết luận là mô hình được nghiên 
cứu tương đối tốt khi khuyết tật duy nhất là 
phương sai sai số thay đổi đã được khắc 
phục. 
4. Kết quả nghiên cứu 
Như vậy, từ bảng 5 có thể xây dựng được 
mô hình kết quả để đi vào phân tích về sau 
là: 
Mô hình đã thể hiện được sự tác động 
thuận chiều của LIT và GDP, ngược chiều 
của UNED, MAR đến tỷ lệ tham gia LLLĐ 
của nữ giới trong giai đoạn 2011 – 2014. 
Khi không có thay đổi ở các biến khác, 
nếu tỷ lệ biết chữ của nữ giới trên 15 tuổi 
tăng 1% thì tỷ lệ nữ giới tham gia LLLĐ 
tăng khoảng 0.44% và ngược lại. Điều này 
có nghĩa là khi phụ nữ Việt Nam biết chữ, 
họ có nhiều động lực tham gia LLLĐ hơn, 
khiến tỷ lệ này được gia tăng. Điều này hoàn 
toàn đúng như dự đoán ban đầu của tác giả. 
Tỷ lệ mù chữ của nữ giới ở một số tỉnh 
thuộc vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ 
như Cao Bằng, Lai Châu, Yên Báicòn khá 
cao và điều này cũng làm cho tỷ lệ tham gia 
LLLĐ của họ trở nên thấp hơn so với các 
nơi khác. 
Trong trường hợp các yếu tố khác không 
đổi, nếu tỷ lệ những người phụ nữ trên 15 
tuổi không trải qua đào tạo CMKT tăng lên 
1%, tỷ lệ tham gia TTLĐ của nữ giới ở nước 
ta sẽ giảm đi trung bình 0.17% và ngược lại. 
Như vậy, nếu nữ giới được đào tạo tay nghề, 
CMKT thì sự tham gia LLLĐ của họ sẽ 
mạnh mẽ hơn. Theo nghiên cứu cụ thể theo 
vùng, tỷ lệ nữ giới chưa qua đào tạo ở Đồng 
bằng sông Cửu Long thấp nhất cả nước và 
điều này khiến cho tỷ lệ tham gia của họ 
cũng thấp nhất cả nước (Tổng cục Thống kê, 
2011 – 2014). 
Nếu như các yếu tố khác không thay đổi, 
khi tỷ lệ nữ giới trên 15 tuổi lập gia đình cao 
hơn 1% thì tỷ lệ phụ nữ quyết định gia nhập 
LLLĐ giảm đi trung bình khoảng 0.27%, và 
ngược lại. Nói cách khác, tỷ lệ phụ nữ kết 
hôn càng gia tăng thì càng khiến sự tham gia 
của họ vào TTLĐ giảm đi. Theo nghiên cứu 
số liệu thống kê, tác giả nhận thấy các tỉnh 
thuộc khu vực Trung du và Miền núi Bắc Bộ 
như Lai Châu, Tuyên Quang nắm giữ tỷ lệ 
kết hôn ở nữ giới cao nhất cả nước và tỷ lệ 
tham gia ở các vùng này cũng tương đối 
thấp qua các năm. 
Với điều kiện các yếu tố khác không có 
sự thay đổi, GDP tăng 1% làm cho tỷ lệ 
tham gia LLLĐ của nữ giới ở nước ta cũng 
tăng lên trung bình là 0.00000149% và 
ngược lại. Như vậy, GDP hay tăng trưởng 
kinh tế nước ta nhìn chung có sự ảnh hưởng 
tích cực nhưng tương đối yếu đến sự tham 
gia LLLĐ của phụ nữ. 
Còn khi không có yếu tố khác bất biến thì 
tỷ lệ này chỉ rơi vào khoảng 68.95%. 
5. Kết luận và kiến nghị 
5.1 Kết luận 
Cũng giống như nhiều nghiên cứu trên 
thế giới trước đây về đề tài tương tự, trong 
bài nghiên cứu này, tác giả cũng nhận thấy 
giáo dục có ảnh hưởng đến sự tham gia vào 
13 
LLLĐ của nữ giới tại Việt Nam. Cụ thể, tỷ 
lệ nữ giới biết chữ tác động tích cực và tỷ lệ 
nữ giới không có trình độ CMKT tác động 
tiêu cực đến tỷ lệ tham gia này. 
Phát hiện quan trọng mà tác giả nhấn 
mạnh là tỷ lệ nữ giới đã kết hôn thực sự có 
ảnh hưởng tiêu cực đến sự gia nhập TTLĐ 
của họ do họ phải san sẻ rất nhiều thời gian 
của mình cho việc chăm sóc gia đình. Bên 
cạnh đó, GDP có tác động tiêu cực đến tỷ lệ 
tham gia LLLĐ của nữ giới nhưng sự tác 
động này là không đáng kể do ảnh hưởng 
hai chiều của GDP. Tăng trưởng kinh tế vừa 
mở ra cơ hội mới về việc làm và thu nhập 
cho nữ giới, thu hút được nữ giới tham gia 
nhiều hơn nhưng cũng đặt ra thách thức khi 
công nghệ tiên tiến nhờ đó cũng được áp 
dụng rộng rãi hơn với các máy móc dần thay 
thế lao động con người khiến những nữ giới 
có trình độ CMKT thấp hoặc không có thì sẽ 
khó mà tham gia được, nhất là khi tỷ lệ nữ 
giới không có CMKT ở nước ta hiện nay là 
trên 80%. Vì thế mà sự tác động ròng của 
GDP lên tỷ lệ tham gia LLLĐ tuy là tích cực 
nhưng không mạnh mẽ. 
Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, 
không có bằng chứng nào cho thấy tỷ suất 
sinh, tỷ lệ nữ giới sinh sống ở thành thị hay 
chênh lệch thu nhập bình quân hàng tháng 
giữa nam và nữ giới có ảnh hưởng đến tỷ lệ 
tham gia LLLĐ của nữ giới nước ta. 
5.2 Kiến nghị 
Trên cơ sở những phát hiện về từ kết quả 
nghiên cứu, tác giả có một vài đề xuất như 
sau: 
Về mặt giáo dục, các Bộ, Ban, Ngành, 
các cơ quan hành chính cần quan tâm đến 
hoạt động xóa mù chữ, giảm tỷ lệ tái mù chữ 
và gia tăng khả năng tiếp tục tham gia nâng 
cao trình độ sau khi được xóa mù chữ. Đồng 
thời, Nhà nước nên có sự phân bổ đầu tư 
hợp lý hơn, tập trung hơn vào mảng đào tạo 
và dạy nghề nhằm nâng cao tay nghề và 
CMKT của nữ giới. 
Về mặt văn hóa – xã hội, do việc kết hôn 
sẽ có ảnh hưởng đến sự tham gia LLLĐ của 
nữ giới, nên Nhà nước cần ban hành chính 
sách đãi ngộ hơn cho lao động nữ trong và 
hậu thời kỳ thai sản, có biện pháp tăng 
cường xây dựng nhà trẻ, trường mầm non. 
Giải pháp này sẽ giúp san sẻ những khó 
khăn sau kết hôn của phụ nữ, đặc biệt về 
mặt thời gian dành cho con cái, và giúp 
động viên phụ nữ vẫn tiếp tục tham gia 
TTLĐ sau khi sinh con. 
Về mặt kinh tế, như đã đề cập ở phần kết 
luận trên, dù tăng trưởng kinh tế có tác động 
tích cực đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ 
giới, nhưng còn yếu nên việc tăng trưởng 
kinh tế vẫn là cần thiết, cần tăng trưởng toàn 
diện hơn, đặc biệt thu hút đầu tư trong và 
ngoài nước, kiểm soát chặt chẽ vấn đề ưu 
đãi với vốn đầu tư nước ngoài để tránh thất 
thu thuế. Đặc biệt, có sự đầu tư nhiều hơn 
cho hoạt động R&D để có thể tạo ra những 
sản phẩm hiện đại với mức giá hợp lý để có 
thể sử dụng rộng rãi trong hộ gia đình, nhằm 
giúp người phụ nữ rút ngắn thời gian làm 
việc nhà. Đó cũng là một giải pháp nhằm 
san sẻ những khó khăn của phụ nữ sau khi 
lập gia đình, tạo động lực để họ tham gia 
LLLĐ và giữ chân họ ở lại lâu hơn trên 
TTLĐ. 
14 
Tài liệu tham khảo 
1. Abbas Aboohamidi và Benaissa Chidmi, 2013, Female Labor Force Participation in 
Pakistan and some MENA Countries, Texas Tech University. 
2. Clarence D.Long, 1958, The Labor Force Under Changing Income and Employment, 
Princeton University. 
3. Claudia Goldin, 1995, The U-Shape Female Labor Force Function in Economic 
Development and Economic History, The Brookings Institution. 
4. Dante Contreras và Gonzalo Plaza, 2010, Cultural Factors in Women’s Labor Force 
Participation in Chile, Feminist Economics, Quyển tập 16, Số 2 tháng 4/2010, trang 27 – 46. 
5. Dollar và Gatti, 1999, Gender Inequality, Income and Growth: Are Good Times Good for 
Women?, The World Bank. 
6. Gary S.Becker, 2002, Investment in Human Capital: A Theoretical Analysis, The Journal of 
Political Economy, Quyển tập 70, trang 11 – 26. 
7. Idil Goksel, 2013, Female labor force participation in Turkey: The role of conservatism, 
Women’s Studies International Forum, Quyển tập số 41, trang 45 – 54. 
8. Julia Robinson, 2005, Female Labor Force Participation in the Middle East and North 
Africa, Wharton Research Scholars Journal, số tháng 1/2005, trang 4 – 5. 
9. Mehak Ejaz, 2007, Determinants of Female Labor Force Participation in Pakistan: An 
Empirical Analysis of PLSM (2004-05) Micro Data, The Lahore Journal of Economics, Quyển 
tập đặc biệt, Số tháng 9/2007, trang 1. 
10. Sauré và Zoabi, 2012, International Trade, the Gender Wage Gap, Female Labor Force 
Participation and Growth, Tel Aviv University. 
11. Sher Verick, 2014, Female labor force Participation in developing countries, IZA World of 
Labor 2014, Quyển tập 87, trang 1. 
12. UNDP, 2015, Work for Human Development, Hument Develop Report, Việt Nam. 
13. Yakubu, 2010, Factors Influencing Female Labor Force Participation in South Africa in 
2008, The African Statistical Journal, Quyển tập 11, trang 100 – 101. 
14. Yuko Kinoshita và Fang Guo, 2015, What Can Boost Female Labor Force Participation in 
Asia?, International Monetary Fund. 
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ 
Tổng cục Thống kê Việt Nam:  

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_cac_yeu_to_tac_dong_den_su_tham_gia_luc_luong_lao.pdf