Phân tích ban đầu về hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam

Sử dụng phương pháp phân loại cấp độ kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp phân chia

việc làm theo kỹ năng của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và phương pháp xác định sự bất cân

xứng kỹ năng lao động, nghiên cứu phân tích hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam giai đoạn

2009-2015. Kết quả cho thấy phân cực việc làm đã có dấu hiệu xuất hiện ở Việt Nam, diễn ra rõ

nét hơn với lao động nam và khu vực nông thôn. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là sự

tiến bộ của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa kinh tế và chính sách phát triển nguồn nhân lực.

Phân cực việc làm gây ra sự bất cân xứng kỹ năng lao động tại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu nhấn

mạnh cần có những quan sát và phân tích thấu đáo về thị trường lao động; cải thiện kỹ năng cho

người lao động và phối hợp chặt chẽ giữa các nhà hoạch định chính sách, người sử dụng lao động

và các cơ sở đào tạo để giúp nhận dạng, xác định mức độ và giảm bớt tác động tiêu cực của hiện

tượng phân cực việc làm tại Việt Nam.

pdf 11 trang kimcuc 17720
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích ban đầu về hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích ban đầu về hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam

Phân tích ban đầu về hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 
 37
Phân tích ban đầu về 
hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam 
Vũ Thanh Hương*, Tăng Đức Đại 
Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 22 tháng 8 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 10 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017 
Tóm tắt: Sử dụng phương pháp phân loại cấp độ kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp phân chia 
việc làm theo kỹ năng của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và phương pháp xác định sự bất cân 
xứng kỹ năng lao động, nghiên cứu phân tích hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam giai đoạn 
2009-2015. Kết quả cho thấy phân cực việc làm đã có dấu hiệu xuất hiện ở Việt Nam, diễn ra rõ 
nét hơn với lao động nam và khu vực nông thôn. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là sự 
tiến bộ của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa kinh tế và chính sách phát triển nguồn nhân lực. 
Phân cực việc làm gây ra sự bất cân xứng kỹ năng lao động tại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu nhấn 
mạnh cần có những quan sát và phân tích thấu đáo về thị trường lao động; cải thiện kỹ năng cho 
người lao động và phối hợp chặt chẽ giữa các nhà hoạch định chính sách, người sử dụng lao động 
và các cơ sở đào tạo để giúp nhận dạng, xác định mức độ và giảm bớt tác động tiêu cực của hiện 
tượng phân cực việc làm tại Việt Nam. 
Từ khóa: Bất cân xứng kỹ năng, phân cực việc làm, Việt Nam. 
1. Giới thiệu 
Khái niệm phân cực việc làm đã được sử 
dụng trong các nghiên cứu về lao động tại châu 
Âu [1] và tại Mỹ [2] để mô tả hiện tượng gia 
tăng tỷ trọng việc làm kỹ năng thấp và việc làm 
kỹ năng cao, đồng thời giảm tỷ trọng việc làm 
kỹ năng trung bình trong cùng một thời kỳ của 
một quốc gia. Hiện tượng phân cực việc làm 
diễn ra rõ nét ở các nước phát triển từ đầu 
những năm 1980, đặc biệt là ở châu Âu và Mỹ. 
Do việc làm ngày càng được tự động hóa và 
việc làm chi phí thấp bị chuyển ra nước ngoài, 
việc làm dành cho nhóm lao động kỹ năng 
trung bình có xu hướng ngày càng giảm sút. 
Trong khi đó, sự phát triển của khoa học công 
_______ 
* ĐT.: Tác giả liên hệ. 84-977917656. 
 Email: huongvt@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4122 
nghệ lại đem đến nhiều cơ hội việc làm mới cho 
các lao động có kỹ năng cao, đặc biệt là nhóm 
lao động sáng tạo ra công nghệ hoặc có thể sử 
dụng công nghệ hiệu quả. 
Phân cực việc làm gây ra những ảnh hưởng 
tiêu cực nhất định đến nền kinh tế. Hiện tượng 
này đẩy mức lương của lao động kỹ năng cao 
tăng mạnh, trong khi đó mức lương của lao 
động kỹ năng thấp và trung bình tăng không 
đáng kể, từ đó làm tăng tình trạng bất bình đẳng 
lương [3]. Phân cực việc làm còn gây nên tình 
trạng bất cân xứng kỹ năng lao động, dẫn đến 
khả năng tăng tỷ lệ thất nghiệp và giảm tốc độ 
tăng trưởng của nền kinh tế [4]. Do đó, phân 
tích xem xét thực trạng phân cực việc làm để từ 
đó đưa ra các biện pháp giảm tác động tiêu cực, 
giúp người lao động tích lũy các kỹ năng cần 
thiết để chuyển từ việc làm kỹ năng trung bình 
sang việc làm kỹ năng cao là điều cần thiết. Ở 
Việt Nam, tuy có nhiều nghiên cứu phân tích về 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 38
sự thay đổi cơ cấu, tỷ trọng lao động nhưng hầu 
như chưa có nghiên cứu nào nhìn nhận sự thay 
đổi đó dưới góc độ của hiện tượng phân cực 
việc làm - khái niệm khá phổ biến ở các nước 
phát triển. 
2. Phương pháp nghiên cứu và số liệu 
Phương pháp nghiên cứu Phương pháp 
phân loại cấp độ kỹ năng nghề nghiệp 
Bài viết sử dụng cách phân loại cấp độ kỹ 
năng nghề nghiệp theo Tiêu chuẩn phân loại 
nghề nghiệp quốc tế (ISCO-08) của ILO. Theo 
đó, nghề nghiệp được chia thành 4 cấp độ kỹ 
năng từ cấp độ kỹ năng 1 đến cấp độ kỹ năng 
4 [5]. 
Phương pháp phân chia việc làm theo kỹ năng 
Bài viết sử dụng cách phân chia việc làm 
theo kỹ năng của ILO (2015), theo đó việc làm 
tại Việt Nam được phân chia thành ba nhóm: 
nhóm việc làm kỹ năng cao, nhóm việc làm kỹ 
năng trung bình và nhóm việc làm kỹ năng thấp 
[6] được trình bày ở Bảng 1. Đây là cơ sở để tác 
giả nhận diện hiện tượng phân cực việc làm tại 
Việt Nam. 
Phương pháp xác định sự bất cân xứng kỹ 
năng lao động 
Dựa trên Tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp 
quốc tế ISCO-08 và phân loại trình độ học vấn 
phù hợp với Tiêu chuẩn phân loại giáo dục 
quốc tế (ISCED), bài viết xây dựng yêu cầu 
trình độ tương ứng với từng nhóm việc làm 
(Bảng 1). Để thấy rõ tình trạng bất cân xứng kỹ 
năng ở Việt Nam, bài viết sử dụng khái niệm 
lao động thiếu kỹ năng, đúng kỹ năng và thừa 
kỹ năng. Trong đó, lao động thiếu/thừa kỹ năng 
là lao động làm việc ở cấp độ kỹ năng có yêu 
cầu trình độ cao hơn/thấp hơn trình độ hiện có 
của mình. Lao động đúng kỹ năng là lao động 
làm việc ở cấp độ kỹ năng có yêu cầu trình độ 
tương đương với trình độ hiện có. Sự bất cân 
xứng kỹ năng xảy ra khi có tình trạng lao động 
thiếu/thừa kỹ năng. 
Bảng 1. Phương pháp phân nhóm việc làm tại Việt Nam 
STT 
Nhóm 
việc làm 
Nghề nghiệp* 
Cấp độ 
kỹ năng 
Yêu cầu trình độ 
1 
Việc làm 
kỹ năng cao 
Nhà lãnh đạo 3, 4 
- Sau đại học 
- Đại học 
- Cao đẳng 
Các nhà chuyên môn bậc cao 4 
- Sau đại học 
- Đại học 
Các nhà chuyên môn bậc trung 3 
- Cao đẳng 
- Trung cấp 
2 
Việc làm 
kỹ năng 
trung bình 
Nhân viên trong các lĩnh vực 2 
- Trung học cơ sở 
- Trung học phổ thông 
- Sơ cấp; Chứng chỉ nghề 
Nhân viên dịch vụ và bán hàng 2 
Lao động có kỹ năng trong 
nông nghiệp, lâm nghiệp và 
thủy sản 
2 
Thợ thủ công và các nghề 
nghiệp khác có liên quan 
2 
Thợ lắp ráp và vận hành máy 
móc, thiết bị 
2 
3 
Việc làm 
kỹ năng thấp 
Lao động giản đơn 1 - Không qua đào tạo chuyên môn 
* Định nghĩa về từng loại nghề nghiệp theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. 
Nguồn: ILO (2012, 2015). 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 39
Số liệu 
Số liệu về ba nhóm việc làm, mức lương 
của mỗi nhóm việc làm được thu thập từ các 
Báo cáo điều tra lao động và việc làm của Việt 
Nam từ năm 2009-2015 do Tổng cục Thống kê 
thực hiện. Số liệu về trình độ chuyên môn ứng 
với mỗi nhóm việc làm năm 2007, 2013 và 
2014 được thu thập từ Nguyễn Bá Ngọc và 
Phạm Minh Thu (2014) [7], ILO & ILSSA 
(2014) [8]. 
Từ số liệu thu thập được, bài viết tiến hành 
tính toán tỷ trọng của ba nhóm việc làm từ năm 
2009-2015 nhằm phát hiện và đưa ra cảnh báo 
về hiện tượng phân cực việc làm tại Việt Nam. 
Bài viết cũng tính toán mức lương trung bình của 
ba nhóm việc làm nhằm đưa ra nhận định về bất 
bình đẳng lương ở nước ta. Cuối cùng, tỷ lệ lao 
động thiếu kỹ năng, đúng kỹ năng, thừa kỹ năng ở 
mỗi nhóm việc làm được tính toán nhằm đánh giá 
sự bất cân xứng kỹ năng lao động. 
3. Phân cực việc làm tại Việt Nam 
Bức tranh chung về phân cực việc làm tại 
Việt Nam 
Trong giai đoạn 2009-2015, tại Việt Nam, 
nhóm việc làm kỹ năng trung bình chiếm vai trò 
chủ đạo, khoảng 50%/năm; sau đó đến việc làm 
kỹ năng thấp với khoảng 40%/năm và cuối 
cùng là việc làm kỹ năng cao chiếm tỷ lệ nhỏ 
(khoảng 10%/năm) (Hình 1). 
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tỷ trọng 
nhóm việc làm kỹ năng cao tăng vững chắc, tỷ 
trọng nhóm việc làm kỹ năng trung bình có xu 
hướng giảm đều đặn, tỷ trọng nhóm việc làm kỹ 
năng thấp tuy không ổn định nhưng có xu 
hướng tăng nhẹ. Đáng lưu ý là tốc độ thay đổi 
tỷ trọng của ba nhóm việc làm tại Việt Nam khá 
tương đương với sự thay đổi trong cơ cấu việc 
làm tại Mỹ từ đầu những năm 19801. Như vậy, 
_______ 
1 Theo Abel và Deitz (2012), tại Mỹ, trong 30 năm, từ 
1980-2010, tỷ trọng việc làm có kỹ năng cao tăng 6,5% 
(0,21%/năm). Con số tương ứng với tỷ trọng việc làm có 
kỹ năng thấp là tăng 3,5% (0,1%/năm). Trong khi đó, tỷ 
trọng việc làm có kỹ năng trung bình giảm 10% 
(0,2%/năm). Kết quả là hiện tượng phân cực việc làm đã 
dẫn đến những tác động tiêu cực tới nền kinh tế Mỹ, đặc 
biệt là sự gia tăng bất bình đẳng lương. Tốc độ thay đổi tỷ 
hiện tượng phân cực việc làm đã có dấu hiệu 
xuất hiện ở Việt Nam. Nhận định này rất quan 
trọng vì nó sẽ giúp chúng ta có những phản ứng 
phù hợp để giảm các tác động tiêu cực của hiện 
tượng này. 
Phân cực việc làm tại Việt Nam theo giới 
tính và khu vực 
Trong giai đoạn 2009-2015, việc làm tại 
Việt Nam đã có sự phân cực rõ nét đối với lao 
động nam nhưng khá mờ nhạt với lao động nữ. 
Với lao động nam, tỷ trọng nhóm việc làm kỹ 
năng cao và kỹ năng thấp đều tăng trong khi tỷ 
trọng nhóm việc làm kỹ năng trung bình giảm. 
Với lao động nữ, tuy tỷ trọng nhóm việc làm kỹ 
năng cao tăng nhưng tỷ trọng của nhóm việc 
làm kỹ năng trung bình và kỹ năng thấp lại 
giảm (Bảng 2). 
Xét theo khu vực, trong giai đoạn 
2009-2015, hiện tượng phân cực việc làm diễn 
ra mạnh mẽ với khu vực nông thôn nhưng chưa 
xảy ra ở khu vực thành thị. Đối với khu vực 
nông thôn, tỷ trọng nhóm việc làm kỹ năng cao 
và kỹ năng thấp có xu hướng tăng qua các năm 
trong khi tỷ trọng nhóm việc làm kỹ năng trung 
bình có xu hướng giảm. Đối với khu vực thành 
thị, tỷ trọng nhóm việc làm kỹ năng trung bình 
và kỹ năng cao có xu hướng tăng, kèm theo đó 
là sự suy giảm tỷ trọng nhóm việc làm kỹ năng 
thấp (Bảng 3). 
Hình 1. Tỷ trọng các nhóm việc làm tại Việt Nam 
giai đoạn 2009-2015. 
Nguồn: Tính toán của các tác giả từ các Báo cáo 
điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống kê 
(2010-2016). 
trọng các nhóm việc làm của Việt Nam từ năm 2009-2015 
tương đương với mức tăng đó. 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 40
I 
4. Nguyên nhân và ảnh hưởng của hiện 
tượng phân cực việc làm tại Việt Nam 
4.1. Nguyên nhân 
Các nghiên cứu thực nghiệm, điển hình của 
Goos và Manning (2007), Autor và cộng sự 
(2006), Abel và Deitz (2012), Sparreboom và 
Tarvid (2016) đều chỉ ra hai nguyên nhân chính 
dẫn đến hiện tượng phân cực việc làm ở các 
nước trên thế giới, đó là sự tiến bộ của khoa học 
công nghệ (KHCN) và toàn cầu hóa nền kinh tế 
[1-4]. Bài viết cũng sẽ phân tích hai nguyên 
nhân này trong bối cảnh của Việt Nam, đồng 
thời chỉ ra các nguyên nhân khác liên quan đến 
chính sách phát triển nguồn nhân lực của 
Việt Nam. 
Sự tiến bộ của khoa học công nghệ 
Tại Đại hội Đảng VII năm 1993, lần đầu 
tiên Việt Nam đề cập đến tư duy “Công nghiệp 
hóa (CNH) phải đi đôi với hiện đại hóa 
(HĐH)”. Đến Đại hội Đảng VIII, Việt Nam 
chính thức khẳng định mục tiêu CNH, HĐH là 
xây dựng đất nướctrở thành nước công nghiệp 
có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh 
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp 
với sự phát triển của lực lượng sản xuất [9]. 
Đến nay, về cơ bản, nền tảng pháp lý cho hoạt 
động KHCN đã được quan tâm hoàn thiện với 7 
luật chuyên ngành1 và hơn 300 văn bản hướng 
_______ 
1 Các luật chuyên ngành: Luật Khoa học và Công nghệ, 
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển 
giao Công nghệ, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Tiêu 
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm 
hàng hóa. 
Bảng 2. Tỷ trọng các nhóm việc làm tại Việt Nam theo giới tính, giai đoạn 2009-2015 
Năm 
Nhóm việc làm 
kỹ năng thấp (%) 
Nhóm việc làm 
kỹ năng trung bình (%) 
Nhóm việc làm 
kỹ năng cao (%) 
Nam giới Nữ giới Nam giới Nữ giới Nam giới Nữ giới 
2009 36,2 42,9 54,5 47,6 9,3 9,5 
2010 35,1 43,3 55,3 46,8 9,6 9,9 
2011 37,1 43,9 53,1 45,9 9,7 10,0 
2012 37,8 43,3 52,2 46,4 9,6 10,2 
2013 38,1 43,7 51,7 45,8 9,7 10,4 
2014 37,2 43,1 52,3 46,4 10,0 10,5 
2015 37,3 42,5 52,1 46,0 10,2 11,3 
Nguồn: Tính toán của các tác giả từ các Báo cáo điều tra lao động việc làm 
của Tổng cục Thống kê (2010-2016). 
Bảng 3. Tỷ trọng các nhóm việc làm tại Việt Nam theo khu vực, giai đoạn 2009-2015 
Năm 
Nhóm việc làm 
kỹ năng thấp (%) 
Nhóm việc làm 
kỹ năng trung bình (%) 
Nhóm việc làm 
kỹ năng cao (%) 
Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn 
2009 18,1 47,6 60,4 47,6 21,6 4,7 
2010 16,3 47,7 61,1 47,4 22,6 4,9 
2011 17,2 50 61,2 44,8 21,7 5,1 
2012 17,6 50,7 61,6 44,1 20,9 5,2 
2013 18,1 50,8 60,9 43,9 21,2 5,3 
2014 17,1 50,1 61,1 44,4 21,9 5,5 
2015 16 50,6 61,6 43,8 22,4 5,6 
Nguồn: Tính toán của các tác giả từ các Báo cáo điều tra lao động việc làm 
của Tổng cục Thống kê (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016). 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 41
dẫn thi hành. Nhiều quỹ và chương trình hỗ trợ 
phát triển KHCN đã được xây dựng và thực 
hiện như Chương trình quốc gia phát triển công 
nghệ cao, Chương trình đổi mới công nghệ 
quốc gia, Chương trình phát triển thị trường 
công nghệ. Các chính sách và chương trình phát 
triển KHCN trên đã khuyến khích các cá nhân, 
tổ chức, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động 
sáng tạo và tạo động lực cho phát triển KHCN 
[10]. Kết quả là sau hơn 30 năm đổi mới và gần 
30 năm thực hiện CNH, HĐH, Việt Nam đang 
có những thay đổi trong phát triển KHCN nói 
chung và sự sáng tạo nói riêng. Việt Nam cũng 
đang hội nhập, giao lưu với nền KHCN của thế 
giới nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế của 
đất nước. Việt Nam đã tiếp nhận các dây 
chuyền công nghệ của thế giới vào nhiều lĩnh 
vực như sản xuất ô tô, thiết bị điện - điện tử, 
thiết bị di động cầm tay, các sản phẩm viễn 
thông, dịch vụ tài chính ngân hàng; kèm theo 
đó là sự phát triển mạnh mẽ của hình thức 
thương mại điện tử nhờ sự phát triển của 
Internet trong những năm gần đây. Ngành công 
nghiệp dệt may thâm dụng lao động của Việt 
Nam cũng đang chứng kiến những đổi mới 
công nghệ như áp dụng công nghệ máy cắt tự 
động [11]. 
Các dây chuyền công nghệ tiên tiến, công 
nghệ máy cắt tự động và các dịch vụ qua 
Internet đã thay thế một phần hoặc làm giảm 
nhu cầu việc làm kỹ năng trung bình ở Việt 
Nam. Các ngân hàng Việt Nam đang ngày càng 
phát triển các dịch vụ và tiện ích online, từ 
đódần thay thế các dịch vụ ngân hàng truyền 
thống cần nhiều nhân viên. Theo ILO (2016), 
do tự động hóa và tiến bộ khoa học công nghệ, 
86% người lao động Việt Nam trong ngành dệt 
may, da giày có thể phải đối mặt với nguy cơ 
mất việc cao; 75% lao động trong ngành điện, 
điện tử có thể sẽ bị thay thế bởi robot [11]. Đây 
là những ngành sản xuất và xuất khẩu chính của 
Việt Nam, chiếm hơn 41% tổng số việc làm 
trong lĩnh vực sản xuất và chủ yếu là việc làm 
kỹ năng trung bình. Do đó, chính sự phát triển 
của khoa học công nghệ là một trong những lý 
do chính làm giảm việc làm kỹ năng trung bình 
ở Việt Nam. 
Trong khi đó, khoa học công nghệ lại thúc 
đẩy gia tăng việc làm kỹ năng cao. Sự phát triển 
của các dịch vụ qua Internet, các dây chuyền 
công nghệ đã làm gia tăng nhu cầu về kỹ sư 
máy tính, chuyên gia bảo trì, an ninh và phát 
triển hệ thống công nghệ có yêu cầu trình độ 
cao. Những việc làm kỹ năng cao khó có thể 
thay thế được bằng máy tính và máy móc vì yêu 
cầu người lao động cần có năng lực phân tích, 
giải quyết vấn đề và sáng tạo. Tuy nhiên, sự gia 
tăng tỷ trọng của nhóm việc làm kỹ năng cao ở 
Việt Nam trong những năm qua chưa thật sự có 
sự biến đổi đáng kể. Điều này cho thấy các 
chính sách liên quan đến KHCN để thúc đẩy 
CNH, HĐH của Việt  ... ấy sự phân cực trong việc làm ảnh 
hưởng đến bất bình đẳng lương nhưng hiện 
tượng này lại có những ảnh hưởng nhất định 
đến sự bất cân xứng kỹ năng lao động. 
Bất bình đẳng lương 
Nghiên cứu tính toán mức lương bình quân 
chung và của từng nhóm việc làm theo công 
thức sau: 
Wit = 
 jit jit
jit
W x S
S


Trong đó: 
- Wit: Mức lương bình quân của nhóm việc 
làm kỹ năng i vào năm t; 
- jitW : Mức lương của nhóm nghề nghiệp 
j thuộc nhóm việc làm kỹ năng i vào năm t; 
- jitS : Tỷ trọng của nhóm nghề nghiệp 
j thuộc nhóm việc làm kỹ năng i vào năm t; 
- i = 0, 1, 2, 3 tương ứng với tổng việc làm, 
việc làm kỹ năng thấp, việc làm kỹ năng trung 
bình và việc làm kỹ năng cao. 
Tiếp đó, bài viết so sánh mức lương của 
từng nhóm việc làm với mức lương bình quân 
chung. Kết quả cho thấy chênh lệch tiền lương 
giữa các nhóm việc làm thay đổi ít (Hình 2). 
Như vậy, mặc dù tỷ trọng việc làm kỹ năng cao 
và kỹ năng thấp tăng, kỹ năng trung bình giảm 
nhưng điều đó không làm cho tương quan giữa 
mức lương của các nhóm việc làm thay đổi 
mạnh trong giai đoạn 2009-2015. Điều đó phản 
ánh sự phân cực việc làm chưa có ảnh hưởng rõ 
ràng đến bất bình đẳng lương ở Việt Nam. 
o 
Hình 2. So sánh tiền lương bình quân của các nhóm việc làm 
với mức lương bình quân chung tại Việt Nam, giai đoạn 2009-2015. 
Nguồn: Tính toán của các tác giả từ các Báo cáo điều tra lao động việc làm 
của Tổng cục Thống kê (2010-2016). 
Bất cân xứng kỹ năng lao động 
Khi đào tạo không theo kịp yêu cầu của thị 
trường lao động, sự thay đổi tỷ trọng giữa các 
nhóm việc làm sẽ gây nên bất cân xứng kỹ năng 
lao động. Hiện tượng này sẽ gây ra tình trạng sử 
dụng lao động không hiệu quả, năng suất lao 
động thấp và tình trạng thất nghiệp trá hình gia 
tăng khi người lao động phải chuyển sang 
những việc làm có kỹ năng không tương đương 
với trình độ hiện tại. Điều đó đồng nghĩa với 
việc nền kinh tế sử dụng không hiệu quả nguồn 
lực,từ đó gây giảm sút tốc độ tăng trưởng 
kinh tế. 
Với nhóm việc làm kỹ năng trung bình, tỷ 
lệ người lao động làm đúng kỹ năng rất thấp, 
thấp nhất trong cả ba nhóm và giảm rất mạnh 
(năm 2007: 14,1%; năm 2014: 5,19%) 
(Bảng 4). Người lao động có kỹ năng trung 
bình chủ yếu là lao động thiếu kỹ năng, nghĩa là 
làm những công việc có yêu cầu trình độ cao 
hơn trình độ hiện có của mình. Thêm vào đó, tỷ 
lệ thiếu kỹ năng đang có xu hướng tăng mạnh 
(năm 2007: 78,53%, năm 2014: 85,94%). Lao 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 44
động thiếu kỹ năng trong nhóm này chủ yếu 
diễn ra ở các nghề như nhân viên trợ lý văn 
phòng, nhân viên dịch vụ và bán hàng, lao động 
có kỹ năng trong nông nghiệp và thợ thủ công. 
Đây chính là những nhóm nghề nghiệp đang sử 
dụng nhiều lao động không qua đào tạo, không 
có chuyên môn kỹ thuật. Chính tỷ lệ lao động 
đúng kỹ năng thấp và tỷ lệ lao động thiếu kỹ 
năng rất cao là nguyên nhân quan trọng của tình 
trạng năng suất lao động thấp của Việt Nam, 
đồng thời cũng đặt câu hỏi cho sự phù hợp của 
các chương trình đào tạo với nhu cầu thực tế 
của thị trường lao động. 
Với nhóm việc làm kỹ năng cao, tỷ lệ người 
lao động làm đúng kỹ năng rất cao (năm 2014: 
84,1%) (Bảng 4). Tuy nhiên, vẫn có một bộ 
phận trong nhóm này là lao động thiếu kỹ năng 
(năm 2014: 13,78%). Sự thay đổi đáng chú ý là 
tỷ trọng các nhà lãnh đạo thiếu kỹ năng giảm 
mạnh trong khi tỷ trọng các nhà chuyên môn 
bậc trung thiếu kỹ năng tăng mạnh. Bên cạnh 
đó, một bộ phận các nhà chuyên môn kỹ thuật 
bậc trung đang tăng lên nhanh chóng. 
Với việc làm kỹ năng thấp, tỷ lệ người lao 
động làm đúng kỹ năng rất cao (năm 2007: 
96,08%, năm 2013: 96,6%, năm 2014: 
96,62%). Ngoài ra, vẫn còn một lượng rất nhỏ 
trong nhóm này là lao động thừa kỹ năng, nghĩa 
là có một bộ phận lao động có qua đào tạo 
chuyên môn, kỹ thuật nhưng lại làm các công 
việc giản đơn. 
Bảng 4. Tỷ trọng lao động thừa, thiếu và đúng kỹ năng tại Việt Nam các năm 2007, 2013 và 2014 
Nhóm 
việc làm 
Nghề nghiệp 
Thừa kỹ năng (%) Thiếu kỹ năng (%) Đúng kỹ năng (%) 
2007 2013 2014 2007 2013 2014 2007 2013 2014 
Việc làm 
kỹ năng 
cao 
Nhà lãnh đạo 0,00 0,00 0,00 36,94 19,86 18,29 63,06 80,14 81,71 
Các nhà chuyên 
môn bậc cao 
0,00 0,00 0,00 12,94 11,79 12,26 87,06 88,21 87,74 
Các nhà chuyên 
môn bậc trung 
3,33 6,03 6,97 7,39 16,49 15,10 89,28 77,48 77,93 
Tổng 1,46 1,95 2,12 13,24 14,26 13,78 85,31 83,79 84,10 
Việc làm 
kỹ năng 
trung 
bình 
Nhân viên trong 
các lĩnh vực 
31,18 39,99 43,81 51,17 56,86 52,99 17,66 3,15 3,21 
Nhân viên dịch vụ 
và bán hàng 
9,01 9,87 10,42 83,66 87,97 87,51 7,32 2,16 2,08 
Lao động có kỹ 
năng trong nông 
nghiệp, lâm nghiệp 
và thuỷ sản 
3,49 2,90 2,53 93,24 95,87 96,58 3,26 1,23 0,89 
Thợ thủ công và 
các nghệ nghiệp 
khác có liên quan 
5,20 7,61 7,35 81,54 86,28 86,92 13,26 6,11 5,73 
Thợ lắp ráp và vận 
hành máy móc, 
thiết bị 
7,25 10,33 10,49 52,27 69,67 70,12 40,49 19,99 19,39 
Tổng 7,37 8,82 8,86 78,53 85,61 85,94 14,10 5,57 5,19 
Việc làm 
kỹ năng 
thấp 
Lao động giản đơn 3,92 3,40 3,38 0,00 0,00 0,00 96,08 96,60 96,62 
Tổng 3,92 3,40 3,38 0,00 0,00 0,00 96,08 96,60 96,62 
Nguồn: Các tác giả tính toán dựa trên số liệu từ Nguyễn Bá Ngọc và Phạm Minh Thu (2014), 
ILO và ILSSA (2014)
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 45
5. Kết luận 
Các kết quả phân tích ban đầu cho thấy 
trong giai đoạn 2009-2015, hiện tượng phân 
cực việc làm đã có dấu hiệu xuất hiện tại Việt 
Nam với sự suy giảm mạnh mẽ tỷ trọng nhóm 
việc làm kỹ năng trung bình (2,1%), trong khi 
tỷ trọng nhóm việc làm kỹ năng cao và thấp gia 
tăng, tương ứng 1,7% và 0,7%. Theo giới tính, 
việc làm đã có dấu hiệu phân cực đối với cả lao 
động nam và lao động nữ nhưng diễn ra rõ nét 
hơn với lao động nam. Theo khu vực, hiện 
tượng phân cực việc làm diễn ra mạnh mẽ ở 
khu vực nông thôn nhưng chưa xảy ra ở khu 
vực thành thị. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện 
tượng phân cực việc làm ở Việt Nam hiện nay 
là sự tiến bộ của KHCN, toàn cầu hóa nền kinh 
tế và các chính sách phát triển nguồn nhân lực. 
Các kết quả phân tích ban đầu cũng cho thấy 
phân cực việc làm tuy chưa ảnh hưởng đến vấn 
đề bất bình đẳng thu nhập nhưng đã có tác động 
nhất định dẫn tới sự bất cân xứng kỹ năng 
lao động. 
Với những ảnh hưởng tiêu cực của hiện 
tượng phân cực việc làm đến nền kinh tế, bài 
viết đưa ra một số hàm ý nhằm đối phó với hiện 
tượng phân cực việc làm cũng như tác động tiêu 
cực của hiện tượng này với Việt Nam. 
Thứ nhất, cần có những quan sát và phân 
tích kịp thời, thấu đáo về thị trường lao động để 
nhận ra xu hướng, tốc độ phân cực việc làm ở 
Việt Nam, từ đó có những chính sách phù hợp. 
Có thể thấy, phân cực việc làm tại Việt Nam 
hiện nay chưa diễn ra sâu rộng như các nước 
phát triển. Một phần là do Việt Nam chưa phải 
chịu những tác động lớn của công nghệ ở mức 
độ tương tự như ở các nước tiến bộ hơn. Tuy 
nhiên, dưới tác động của cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0 cùng những sáng kiến như tự động 
hóa bằng robot đã bắt đầu thâm nhập vào các 
ngành công nghiệp khác nhau, bao gồm cả 
ngành dệt may - da giày và ngành sản phẩm 
điện - điện tử, phân cực việc làm có nhiều khả 
năng sẽ diễn ra mạnh hơn ở Việt Nam trong 
tương lai. Chính vì vậy, việc theo dõi, nghiên 
cứu để nhận dạng xu hướng, tốc độ tăng giảm 
lao động và cơ cấu việc làm là điều cần thiết 
với Việt Nam để đưa ra những chính sách nhằm 
điều chỉnh nguồn lao động phù hợp. Đồng thời, 
cần học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác 
nhằm đối phó với hiện tượng phân cực việc làm 
cũng như có chính sách giáo dục và đào tạo hợp 
lý, thích hợp với xu thế nhu cầu việc làm 
hiện nay. 
Thứ hai, cần có những giải pháp cụ thể để 
cải thiện kỹ năng cho người lao động. Trước 
hết, tập trung vào nhóm việc làm kỹ năng trung 
bình do đây là lực lượng lao động chủ yếu của 
đất nước hiện nay và cũng là nhóm có tỷ lệ lao 
động đúng kỹ năng thấp nhất. Bên cạnh đó, bài 
viết đã chỉ ra lao động thiếu kỹ năng ở nhóm 
việc làm kỹ năng cao và đặc biệt là nguồn lao 
động kỹ năng trung bình còn lớn. Để nâng cao 
kỹ năng của người lao động, Việt Nam cần đổi 
mới giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, 
hiện đại nhằm giúp người lao động có được 
những kiến thức và kỹ năng cần thiết, phù hợp 
với nhu cầu việc làm của xã hội hiện đại và 
những thay đổi của cơ cấu kinh tế. Việc đào tạo 
kiến thức cần gắn với các kỹ năng mềm như 
ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, tư duy sáng 
tạo, công nghệ thông tin, tác phong lao động và 
kỷ luật lao động. 
Thứ ba, để nắm bắt nhu cầu gia tăng nhóm 
việc làm kỹ năng cao, Việt Nam cần tăng cường 
đầu tư KHCN, đẩy mạnh các hoạt động R&D 
và chuyển giao công nghệ, ưu đãi cho các hoạt 
động giáo dục. Một điểm lưu ý là Nhà nước 
không chỉ xây dựng hệ thống chính sách đồng 
bộ để khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham 
gia vào hoạt động KHCN, mà quan trọng là tạo 
ra các cơ chế thực thi hiệu quả, minh bạch trong 
việc hỗ trợ các hoạt động KHCN như xây dựng 
các tiêu chí rõ ràng cho hoạt động hỗ trợ, cải 
tiến quy trình và thủ tục xét chọn hồ sơ xin hỗ 
trợ, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng 
xét chọn. Có như vậy mới giúp cho các chính 
sách phát triển KHCN đi vào thực tiễn, từ đó 
nâng cao số lượng và chất lượng nhóm việc làm 
kỹ năng cao. 
Thứ tư, Việt Nam cần thực hiện tích cực 
hơn, tận dụng các cam kết liên quan đến di 
chuyển lao động lành nghề, trình độ cao theo 
các Hiệp định công nhận lẫn nhau trong 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 46
ASEAN và các hiệp định thương mại tự do dịch 
vụ với các đối tác khác trên thế giới. Đây là 
cách giúp lao động trình độ cao của Việt Nam 
tiếp cận được thị trường lao động thế giới và 
tiếp nhận được nguồn lao động chất lượng cao 
từ các nước đối tác. Bên cạnh đó, Việt Nam cần 
tăng cường thông tin, tuyên truyền, phổ biến 
các cam kết liên quan đến lao động trong khuôn 
khổ các Hiệp định đã ký kết và sắp ký kết, các 
chủ trương của Nhà nước về vấn đề lao động, 
việc làm trong thời kỳ hội nhập. Điều này 
không chỉ giúp cộng đồng nâng cao nhận thức, 
mà còn hiểu về cơ hội, thách thức, từ đó trang 
bị cho mình điều kiện cần thiết khi Việt Nam 
hội nhập quốc tế. 
Thứ năm, trong bối cảnh hiện nay, việc chú 
trọng vào kỹ năng và sự sẵn sàng của lực lượng 
lao động Việt Nam rất quan trọng. Điều đó đòi 
hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà 
hoạch định chính sách, người sử dụng lao động 
và các cơ sở đào tạo nhằm giúp các chương 
trình đào tạo thực tế hơn và phù hợp hơn với 
nhu cầu của thị trường lao động. Chính phủ cần 
có những chính sách khuyến khích gắn kết cơ 
sở đào tạo với doanh nghiệp và nâng cao trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Ngược lại, các 
doanh nghiệp cần tích cực, có trách nhiệm hơn 
trong việc tham gia vào các các hoạt động đào 
tạo học sinh, sinh viên thông qua các chương 
trình thực tập, thực tế. Người lao động cần năng 
động tìm kiếm việc làm phù hợp cũng như rèn 
luyện kỹ năng “chủ động học tập suốt đời”. 
Cuối cùng, xây dựng và phát triển hệ thống tư 
vấn, hướng nghiệp, dịch vụ việc làm và thông 
tin thị trường lao động là cần thiết nhằm giúp 
người lao động có cái nhìn rõ nét về xu thế 
cung- cầu hiện nay, từ đó đưa ra lựa chọn ngành 
nghề - kỹ năng phù hợp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Goos, Maarteen, Manning, Alan, “Lousy and 
Lovely Jobs: The Rising 
Polarization of Work in Britain”, The Review of 
Economics and Statistics, 89 (2007) 1, 118-133. 
[2] Autor, David H., Lawrence F. Katz và Kearney, 
Melissa S., “The Polarization 
of the U.S. Labor Market”, American Economic 
Review Papers and Proceedings, 
96 (2006) 2, 189-194. 
[3] Abel, Jaison R., Deitz, Richard, “Job polarization 
and rising inequality in the nation and the New York 
- Northern New Jersey Region”, Curreny Issues in 
Economics and Finance, 18 (2012) 7, 1-7. 
[4] Sparreboom, Theo & Tarvid, Alexander, 
“Imbalanced Job Polarization and Skills 
Mismatch in Europe”, Journal of Labour Market 
Res, 49 (2016), 
[5] ILO, “International Standard Classfication of 
Occupation Volume 1: Structure, group 
definitions and correspondence tables”, Geneva: 
International Labour Organization, 2012. 
[6] ILO, “Who are Viet Nam’s 18 million wage 
workers?”, Hanoi: International Labour 
Organization, 2015. 
[7] Nguyễn Bá Ngọc và Phạm Minh Thu, “Năng suất 
lao động Việt Nam nhìn từ góc độ cơ cấu lao động 
và kỹ năng”, Bản tin Khoa học, 41 (2014), 4. 
[8] ILO & ILSSA, “Lao động trình độ cao - Nhân tố 
quyết định để phát triển bền vững đất nước”, Bản 
tin tóm tắt chính sách, 1 (2014). 
[9] Ban Kinh tế Trung ương, “Báo cáo tổng kết một 
số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới 
(1986-2016) về đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện 
đại hóa đất nước”, Hà Nội, 2014. 
[10] Nguyễn Anh Thu, Vũ Thanh Hương, Nguyễn Thị 
Thanh Mai, “Cải thiện tiếp cận của Doanh nghiệp 
vừa và nhỏ Việt Nam với các hỗ trợ đổi mới công 
nghệ”, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, 
Hà Nội, 2017. 
[11] ILO, “ASEAN trong quá trình chuyển đổi: 
Công nghệ đang làm thay đổi việc làm và 
doanh nghiệp như thế nào”, Báo cáo tóm tắt về 
Việt Nam, Hà Nội, 2016. 
[12] Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê, truy cập 
ngày 10/3/2017, từ 
temID=13412. 
[13] Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Cẩm Nhung, Vũ Thanh 
Hương và Nguyễn Thị Minh Phương, “Kinh tế thế 
giới và Việt Nam năm 2016, triển vọng năm 2017 và 
một số gợi ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí 
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh 
doanh, 32 (2016) 4, 1-11. 
[14] Tổng cục Hải quan, “Xuất nhập khẩu hàng hóa 
tháng 12 và 12 tháng năm 2016”, truy cập ngày 
10/3/2017, từ 
<https://customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/
ViewDetails.aspx?ID=1038&Category=Phân%20t
%C3%ADch%20định%20kỳ&Group=Phân%20t
%C3%Adch>. 
V.T. Hương, T.Đ. Đại / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 37-47 47
An Initial Analysis of the Job Polarization in Vietnam 
Vu Thanh Huong, Tang Duc Dai 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: By adopting the methods of occupation classification and job classification by skill of 
the International Labour Organization’s and the method of skill mismatch identification, the paper 
analyzes the job polarization in Vietnam in the 2009-2015 period. It is shown in the research that job 
polarization has signs to occur in Vietnam, and more clearly for male workers and in rural areas. There 
are two major reasons for the job polarization in Vietnam including scientific and technological 
advancements and economic globalization. The job polarization has also resulted in skill mismatch in 
Vietnam. Therefore, the implications proposed in the paper focus on thorough observation and 
analysis on labor market, improvement of labor skills and promotion of close cooperation among 
policy makers, labor users and training institutions so as to recognize, identify and alleviate negative 
impacts of the labor polarization in Vietnam. 
Keywords: Skills mistmach, job polarization, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_ban_dau_ve_hien_tuong_phan_cuc_viec_lam_tai_viet_n.pdf