Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu này xem xét việc phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây
dựng ở TPHCM dựa trên đặc điểm và động lực của doanh nghiệp. Phương pháp phân tích
cluster được áp dụng để phân nhóm. Đầu tiên, phương pháp Two-step được thực hiện, sau đó
hai phương pháp Hierarchical và K-mean được dùng để kiểm định độ tin cậy của kết quả. Tổng
cộng 11 nhân tố đại diện cho 74 biến định lượng và 5 biến định danh liên quan đến đặc điểm và
động lực doanh nghiệp được đề nghị. Kết quả chỉ ra rằng: hai nhóm được hình thành, trong đó,
đa số doanh nghiệp nhóm 1 có vốn điều lệ lớn hơn nhóm 2, tuy nhiên, lại có giá trị trung bình
của các biến định lượng thấp hơn nhóm 2. Ngoài ra, giữa hai nhóm có một số đặc điểm chung:
đa số doanh nghiệp có nhân sự ít (từ 10 đến 49 người), vốn ít, phần lớn hoạt động trong lĩnh vực
thi công xây dựng, thời gian hoạt động ngắn (từ 5 đến 10 năm).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Đại học Công nghiệp 75 PHÂN NHÓM CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NGÀNH XÂY DỰNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thu Hằng*, Trương Quang Huya(*), Dương Hoàng Hiệpb, Huỳnh Tấn Khươnga TÓM TẮT Nghiên cứu này xem xét việc phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng ở TPHCM dựa trên đặc điểm và động lực của doanh nghiệp. Phương pháp phân tích cluster được áp dụng để phân nhóm. Đầu tiên, phương pháp Two-step được thực hiện, sau đó hai phương pháp Hierarchical và K-mean được dùng để kiểm định độ tin cậy của kết quả. Tổng cộng 11 nhân tố đại diện cho 74 biến định lượng và 5 biến định danh liên quan đến đặc điểm và động lực doanh nghiệp được đề nghị. Kết quả chỉ ra rằng: hai nhóm được hình thành, trong đó, đa số doanh nghiệp nhóm 1 có vốn điều lệ lớn hơn nhóm 2, tuy nhiên, lại có giá trị trung bình của các biến định lượng thấp hơn nhóm 2. Ngoài ra, giữa hai nhóm có một số đặc điểm chung: đa số doanh nghiệp có nhân sự ít (từ 10 đến 49 người), vốn ít, phần lớn hoạt động trong lĩnh vực thi công xây dựng, thời gian hoạt động ngắn (từ 5 đến 10 năm). Từ khóa: Phân nhóm, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Ngành xây dựng, Phương pháp cluster. INDUSTRIAL CLUSTER ANALYSIS FOR SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN HO CHI MINH CITY AN EMPIRICAL RESEARCH IN CONSTRUCTION INDUSTRY ABSTRACT This paper aims at clustering the small & medium enterprises (SMEs) in construction sector in Ho Chi Minh City according to their characteristics and dynamics. Based on a comprehensive literature review, research model were proposed. There were 5 nominal & 74 quantitative variables belonging to 11 factors that involve to characteristics of enterprises and their dynamics were used as clustering variables. The technique of cluster analysis was used to classify SMEs. Two-step, hierarchical and K-mean tests were used to ensure the accuracy of clustering result, respectively. Two clusters were formed. Both clusters have common characteristics: a majority of surveyed SMEs has few employees (from 10 to 49 employees) & small capital, operates in constructions execution, and has short period of business (from 5 to 10 years). However, most of SMEs in the first clusters have bigger authorized capital than their counterparts in the second one. Cluster analysis result also indicated that factors of the 2 nd cluster have clearly higher mean value than those of the 1 st cluster. Keywords: Industrial Cluster, Small and medium enterprises, Construction industry, Cluster method. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Bách Khoa trong khuôn khổ đề tài mã số T-QLCN-2014-69. a Trường Đại học Bách Khoa TPHCM b Tập đoàn xi măng Nghi Sơn (*) Corresponding author Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng 76 1. GIỚI THIỆU Ở bất kỳ quốc gia nào, doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm tỉ lệ áp đảo và đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, thể hiện ở sự đóng góp vào nhiều mục tiêu kinh tế xã hội như đóng góp vào ngân sách địa phương, tạo công ăn việc làm, tạo ra ngành công nghiệp dịch vụ phụ trợ, làm nhà thầu phụ, làm “thanh giảm sốc” cho nền kinh tế bởi bộ máy gọn nhẹ, linh hoạt, giúp nền kinh tế năng động ứng phó khi có biến đỗi vĩ mô. Làm thế nào để gia tăng hiệu quả các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Trong đó, phân nhóm các doanh nghiệp để xác định những đặc tính của ngành và đặc tính riêng của từng nhóm trong ngành để có thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ hiệu quả giúp cải thiện hoạt động của các doanh nghiệp là một giải pháp nhận được nhiều sự quan tâm của giới học thuật (Meena Sharma và Pawan Wadhawan, 2009). Nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, Ấn Độ đã đạt được nhiều thành công khi thực hiện việc phân nhóm để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó, ở Việt Nam, việc phân nhóm vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành xây dựng ở TP HCM có thể xem là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo ở nhiều lĩnh vực. Kết quả phân nhóm giúp chỉ ra đặc điểm riêng của từng nhóm cũng là cơ sở cho các hàm ý quản lý và đề xuất các chính sách hỗ trợ tập trung phù hợp nhất, giúp các doanh nghiệp cạnh tranh hiệu quả hơn. Qua đó, tăng lợi thế cạnh tranh cho ngành nói riêng và quốc gia nói chung (Porter, 1998). 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU Nhiều nước phát triển trên thế giới đã thực hiện nghiên cứu tương tự cho các ngành công nghiệp trọng điểm của mình. Điển hình là cách phân nhóm truyền thống dựa vào yếu tố địa lý của Schmitz (1992) với cách tiếp cận khởi nguồn từ Marshall’s (1890), ông đã thực hiện khảo sát các doanh nghiệp dệt may và kim loại ở Anh, Đức và Pháp. Sau đó, phương pháp này được sử dụng trong hầu hết nghiên cứu phân nhóm trên thế giới như Piore và Sabel (1984); Zeitlin (1989); Storper và Walker (1989); Becattini (1989); Sengenberger và Pyke (1992); Humphrey (1995). Theo Porter (1990). Việc phân nhóm các doanh nghiệp chỉ dựa vào vị trí địa lý có mức độ tin cậy không cao vì chưa hẳn các doanh nghiệp ở gần nhau sẽ có cùng đặc điểm. Tuy nhiên, nó lại được áp dụng khá rộng rãi dẫn tới hiệu quả của các chính sách hỗ trợ chưa như mong đợi. Một số nghiên cứu gần đây áp dụng kỹ thuật cluster (cluster analysis) để phân nhóm các doanh nghiệp với nhiều biến phân loại khác nhau từ yếu tố vị trí địa lý đến các biến liên quan đến đặc điểm, động lực của doanh nghiệp. Điều này giúp cho các đối tượng trong cùng một nhóm có tính đồng nhất cao hơn và giữa các nhóm có sự khác biệt lớn. Khi đó, các chính sách hỗ trợ của nhà nước sẽ có hiệu quả cao hơn (Meena Sharma và Pawan Wadhawan, 2009). Stuart và Abette (1990) kết hợp phương pháp phân tích nhân tố (factor analysis) và phân tích Cluster để phân nhóm các doanh nghiệp dựa vào dữ liệu phỏng vấn sâu các giám đốc điều hành của 52 công ty trong lĩnh vực công nghệ ở New York/New England với các biến đầu vào để phân loại, bao gồm: (1) kết quả hoạt động kinh doanh, (2) các đặc điểm của chủ doanh nghiệp. Birley và Westhead (1994) phân loại 405 nhà quản lý - chủ của các doanh nghiệp ở Anh với các biến: (1) sự tăng trưởng, (2) quy mô doanh nghiệp, (3) mục tiêu doanh nghiệp, (4) vị trí địa lý, (5) thái độ chủ doanh nghiệp, bằng phương pháp cluster theo thứ bậc (Hierarchical clustering) và đã có bảy nhóm hình thành. Năm 2001, Cunningham và Maloney đã áp dụng phân tích nhân tố và cluster để phân nhóm các doanh nghiệp nhỏ ở Mexico dựa vào Tạp chí Đại học Công nghiệp 77 năm biến lớn: (1) đặc tính chủ doanh nghiệp, (2) đặc tính doanh nghiệp, (3) sự năng động của chủ doanh nghiệp, (4) mức độ tham gia của họ trong thị trường mục tiêu, (5) sự thực thi các thể chế pháp định. Có sáu nhóm doanh nghiệp được hình thành từ kết quả phân tích này. Ariyawardana và Bailey (2003) áp dụng phân tích cluster để xác định sự tồn tại các nhóm chiến lược. Ba phương pháp phân nhóm, bao gồm: liên kết trung bình, trọng tâm, phương pháp Ward đã cho ra ba giải pháp phân nhóm khác nhau. Theo tác giả, phương pháp Ward cho kết quả tốt hơn hai phương pháp còn lại. Dựa vào phương pháp Ward, ba nhóm được xác định. Mc Mahon (2011) sử dụng phân tích cluster với các biến: (1) tốc độ phát triển, (2) quy mô doanh nghiệp, (3) thời gian hoạt động để phân loại sự phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên nghiên cứu thực nghiệm 871 doanh nghiệp sản xuất. Dữ liệu thứ cấp được thu thập ở Úc mỗi năm một lần trong bốn năm. Các nghiên cứu trên áp dụng phương pháp phân tích cluster để tiến hành phân nhóm doanh nghiệp trong các bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số điểm chưa bao quát trong các nghiên cứu trước đây. Chẳng hạn, trong nghiên cứu của Stuart và Abette (1990), Cunningham và Maloney (2001), Pasenen (2003), Mc Mahon (2011), các tác giả xem xét về đặc điểm của doanh nghiệp, kết quả kinh doanh nhưng thiếu xem xét các khía cạnh liên quan tới động lực của doanh nghiệp. Ariyawardana và Bailey (2003) có đề cập đến vấn đề chiến lược khi tiến hành phân nhóm, Birley và Westhead (1994) phân tích thêm mục tiêu doanh nghiệp, đây là các biến trong động lực doanh nghiệp, nhưng vẫn chưa đầy đủ vì động lực không chỉ thể hiện trong mục tiêu, chiến lược của doanh nghiệp mà còn ở nhiều yếu tố khác như: kết quả tài chính, sự thỏa mãn của khách hàng, hiệu quả vận hành, chất lượng của đội ngũ nhân lực, sự thực hiện thương mại quốc tế và thương mại điện tử Để việc phân nhóm bao quát và toàn diện hơn, đặc biệt để có thể xác định cụ thể và chi tiết hơn đặc điểm các doanh nghiệp trong từng nhóm, nghiên cứu này xem xét việc phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên hai nhóm nhân tố chính: đặc điểm và động lực của doanh nghiệp. Cụ thể: Nhóm đặc điểm của các doanh nghiệp gồm các biến: Số lượng lao động, loại hình doanh nghiệp, vốn điều lệ, lĩnh vực hoạt động, thời gian hoạt động, các hoạt động sản xuất và dịch vụ hàng ngày,... tìm hiểu nhu cầu khách hàng, thiết kế dịch vụ/ sản phẩm, quản lý chất lượng nhà cung cấp, quản lý theo quá trình, logistic, quản trị nguồn nhân lực. Nhóm động lực của các doanh nghiệp gồm: các mục tiêu và chiến lược doanh nghiệp, sự thoả mãn của khách hàng, kết quả tài chính, hiệu quả hoạt động của quá trình sản xuất/ cung cấp dịch vụ, sự thực hiện thương mại quốc tế, thực hiện thương mại điện tử. Trong phạm vi của nghiên cứu này, các tác giả không đề cập đến nhóm biến đặc điểm chủ doanh nghiệp vì nhóm biến này chủ yếu liên quan đến doanh nghiệp trong giai đoạn khởi nghiệp (Duchesneau, 1987). Birley và Westhead (1994) cũng đã kết luận có nhiều nguyên nhân khác biệt khi cá nhân thành lập doanh nghiệp mới nhưng điều đó không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của công ty giai đoạn sau này. Từ đó, mô hình nghiên cứu được đề nghị như sau: Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng 78 PHÂN NHÓM CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NGÀNH XÂY DỰNG ĐẶC ĐIỂM CÔNG TY Số lƣợng nhân viên Loại hình doanh nghiệp Vốn điều lệ Lĩnh vực hoạt động Thời gian hoạt động Các hoạt động sản xuất/ cung cấp dịch vụ ĐỘNG LỰC CỦA CÔNG TY Sự thỏa mãn của khách hàng Kết quả tài chính Hiệu quả hoạt động của quá trình sản xuất/ cung cấp dịch vụ Các mục tiêu và chiến lƣợc của công ty Sự thực hiện thƣơng mại quốc tế Sự thực hiện thƣơng mại điện tử Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Hình 2.1 mô tả quy trình thực hiện nghiên cứu. Dựa vào việc xem xét các lý thuyết trước đây có liên quan, bộ thang đo được thiết kế. Tổng cộng 11 nhân tố đại diện cho 5 biến định danh và 74 biến định lượng liên quan đến đặc điểm và động lực doanh nghiệp được đề nghị. Sau đó, ba chuyên gia trong lĩnh vực này được mời tham gia phỏng vấn để chỉnh sửa bảng câu hỏi. Nội dung thảo luận được tổng hợp và sửa chữa lại trước khi tiến hành khảo sát Q-sort. Trong quá trình thực hiện Q-sort, mười một nhà quản lý của các công ty xây dựng ở TPHCM được mời tham gia nhằm mục đích đánh giá các thang đo, xác định các biến nào được giữ lại, cần bổ sung, chỉnh sửa hoặc cần thêm vào. Đây là cơ sở để hiệu chỉnh lại thang đo lần cuối trước khi hoàn chỉnh và hình thành bảng câu hỏi chính thức. Mỗi câu hỏi định lượng có năm giá trị từ 1 đến 5, đại diện cho mức độ quan tâm của doanh nghiệp vào yếu tố được hỏi. Trong đó, 1 là ít quan tâm và 5 là rất quan tâm. Đề tài nhắm tới các đáp viên (target respondents) là các nhà quản lý của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng tại TPHCM. Kết hợp danh sách của tổng cục thống kê năm 2008 (có 28.311 doanh nghiệp lĩnh vực này) và thông tin từ website những trang vàng, địa chỉ, email và điện thoại của hơn 4.000 doanh nghiệp được tổng hợp. Bảng câu hỏi chính thức được gởi đến các doanh nghiệp thông qua email. Nhằm gia tăng tỷ lệ hồi đáp, các bảng câu hỏi cũng được gửi trực tiếp đến các đáp viên bằng phương pháp thuận tiện. Tạp chí Đại học Công nghiệp 79 Chưa đạt Chỉnh sửa các câu hỏi Q- Sort Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu Đạt Thiết kế thang đo Phỏng vấn Sâu (1) Bảng câu hỏi hoàn chỉnhThiết kế mẫuThu thập dữ liệu định lượng Xác định thủ tục phân nhóm Kiểm định các giải pháp phân nhómPhân nhóm Phỏng vấn sâu (2)Giải thích và mô tả các giải pháp phân nhómKết luận Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu Tổng cộng 357 bảng khảo sát được thu về 357 bảng này được làm sạch trước khi đưa vào xử lý và phân tích nhằm hạn chế lỗi xảy ra trong quá trình phỏng vấn hoặc nhập liệu. Quá trình làm sạch có 316 bảng hợp lệ, đạt 88,52%. Theo đó, phần lớn các doanh nghiệp khảo sát có số lượng nhân viên từ 10 đến 49 người. Doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm gần một nửa số doanh nghiệp khảo sát. Vốn điều lệ từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng có tần số cao nhất. 67,7% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thi công xây dựng. Doanh nghiệp hoạt động từ 5 đến 10 năm có tần số cao nhất. Phần tiếp theo trình bày quy trình phân tích dữ liệu. Đầu tiên, các thủ tục phân nhóm được xác định. Nghiên cứu áp dụng đồng thời ba phương pháp để nâng cao độ tin cậy của kết quả phân nhóm: phương pháp Two-step clustering, thứ bậc (Hierarchical) và K-mean. Bắt đầu với two-step vì những ưu điểm sau: Có thể xử lý các biến phân loại và liên tục cùng một lúc. Cung cấp cho người dùng sự linh hoạt để xác định số nhóm. Số lượng tối đa của các nhóm, hoặc cho phép các kỹ thuật để tự động chọn số nhóm trên cơ sở các tiêu chí thống kê. Các thủ tục hướng dẫn các quyết định có bao nhiêu nhóm giữ lại từ nguồn dữ liệu bằng cách tính toán các biện pháp phù hợp. Trong nghiên cứu này, vì số nhóm tối ưu chưa được xác định cụ thể, nên Two-step clustering là phương pháp phù hợp nhất để tiến hành phân nhóm. Sau đó, hierchical clustering và K-means được áp dụng để kiểm định tính đồng nhất của kết quả. Nếu kết quả kiểm định cho thấy mức độ đồng nhất cao giữa ba phương pháp, bước tiếp theo, dựa vào kết quả phân nhóm, một số các doanh nghiệp trong các nhóm sẽ được mời phỏng vấn để xác định đặc điểm cụ thể của từng nhóm. Đây cũng là cơ sở để đề xuất các hàm ý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong các nhóm khác nhau nói riêng và ngành xây dựng nói chung. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trước khi tiến hành phân tích cluster, các biến khảo sát cần kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến (Mooi và Sarstedt, 2011). Kết quả kiểm định cho thấy sự tương quan các biến < 0,9. Điều này khẳng định không có hiện tượng đa cộng tuyến trong tập dữ liệu khảo sát. Tiếp theo, các biến phù hợp sẽ được đưa vào phân tích cluster, bắt đầu với phương pháp Two- Step. Kết quả chạy cluster theo phương pháp Two-step cho số nhóm tối ưu là 2. Với 186 doanh nghiệp thuộc nhóm 1, chiếm tỷ lệ 58,86% và 130 doanh nghiệp ở nhóm 2, chiếm tỷ lệ 41,14% mẫu khảo sát. Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng 80 Kết quả phân nhóm theo biến định danh được mô tả như Bảng 4.1 cho thấy ở cả 2 nhóm có một số đặc điểm chung: số lượng doanh nghiệ ... 3.23 2.89 3.21 4 3.75 3.86 Quản lý theo quá trình 3.23 2.95 3.17 4.14 3.8 4 Logistic 3.23 2.95 3.15 4.03 3.75 3.94 Quản trị nguồn nhân lực 3.26 2.8 3.11 4.19 3.9 4.13 Quản lý kế hoạch chiến lược 3.2 2.82 3.09 4.14 3.82 4.05 Giao dịch quốc tế 3 2.71 2.87 3.84 3.53 3.78 Thương mại điện tử 2.92 2.66 2.83 3.68 3.41 3.61 Thỏa mãn khách hàng 3.21 2.82 3.07 4.1 3.8 4.04 Kết quả tài chính 3.14 2.82 3.02 4.11 3.76 4.02 Hiệu quả vận hành 3.25 2.85 3.17 4.19 3.88 4.07 Giá trị trung bình 3.19 2.84 3.1 4.04 3.75 3.95 (Nguồn: Kết quả xử lý thông tin của tác giả) Để kiểm định độ tin cậy của kết quả phân nhóm, phương pháp Hierarhical và K-means được thực hiện. Kết quả cho thấy, ở cả hai phương pháp, hai nhóm được hình thành và nhóm 1 có giá trị trung bình các biến nhỏ hơn nhóm 2 (bảng 4.2). Qua đó, ta có thể khẳng định độ tin cậy và độ giá trị của kết quả phân tích cluster được thực hiện trong nghiên cứu này. 5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ Sau khi có kết quả phân tích cluster, mười doanh nghiệp trong hai nhóm được chọn ngẫu nhiên để tiến hành phỏng vấn sâu. Đây là cơ sở để mô tả đặc điểm của từng nhóm. Kết quả phân tích theo biến định danh cho thấy phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả hai nhóm có số lượng nhân viên ít, vốn điều lệ nhỏ, chủ yếu là loại hình tư nhân hoặc trách nhiệm hữu hạn, phần lớn hoạt động lĩnh vực thi công xây dựng (67,7%), thời gian hoạt động ngắn (từ năm đến mười năm). Điều này có thể được giải thích bằng nhiều lý do. Loại hình tư nhân hoặc trách nhiệm hữu hạn là loại hình dễ thành lập, chỉ cần số vốn nhỏ. Ngành xây dựng ở Việt Nam tuy khó khăn trong ngắn hạn nhưng vẫn có tiềm năng trong dài hạn. Giai đoạn thi công xây dựng là giai đoạn mất nhiều thời gian. Tuy nhiên lại là giai đoạn tạo ra nhiều việc làm nhất trong Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng 82 chuỗi giá trị của ngành. Vì vậy, thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia, thể hiện ở số lượng doanh nghiệp mới gia nhập ngành và có tuổi đời trẻ. Nhưng điều đó cũng thể hiện sự khắc nghiệt khi ít có doanh nghiệp tồn tại lâu dài. Cụ thể, số liệu thống kê cho thấy số lượng doanh nghiệp hoạt động trên 40 năm chỉ chiếm 6%. Một số doanh nghiệp cứ vài ba năm làm thủ tục phá sản công ty và thành lập công ty mới để hưởng ưu đãi về thuế hoặc giải quyết nợ nần. Đa số các doanh nghiệp có nhân viên biên chế ít, chủ yếu là công nhân thi công thời vụ tùy vào công trình. Điều này cho phép họ có bộ máy gọn nhẹ, ít tốn chi phí và linh hoạt ứng phó với tình hình kinh doanh. Nhưng đó cũng chính là hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ khó có được đội ngũ công nhân lành nghề, tác phong chuyên nghiệp, được đào tạo an toàn, ổn định về quân số, nên khó cạnh tranh được các tập đoàn lớn. Kết quả cũng cho thấy các phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ ở hai nhóm có vốn điều lệ quá nhỏ, dao động từ 1 đến 5 tỷ đồng. Trong khi đó, ngành xây dựng đòi hỏi vốn rất lớn cho vật tư, máy móc thiết bị và nhân công. Khó khăn lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp vừa và nhỏ là khó tiếp cận nguồn vốn. Trong thời gian qua, nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ về lãi suất và tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng vốn vẫn khó đến được đối tượng cần hỗ trợ. Doanh nghiệp có vốn yếu sẽ ít có lợi thế cạnh tranh khi đấu thầu và thường gặp rủi ro. Đa số doanh nghiệp nhóm 1 lại có vốn điều lệ lớn hơn nhóm 2 nhưng điều này cũng không nhiều ý nghĩa vì số vốn cả hai nhóm đều quá nhỏ nên không nhiều sự khác biệt. Ngoài ra doanh nghiệp vừa và nhỏ có 100% vốn nước ngoài tuy chiếm tỷ trọng không cao (hơn 5%) nhưng cho thấy đó là đối thủ tiềm ẩn của các doanh nghiệp xây dựng trong nước. Kết quả phân tích các biến định lượng cho thấy hầu hết các nhân tố đều có giá trị trên trung bình, đây là tín hiệu lạc quan, thể hiện các doanh nghiệp được khảo sát có sự quan tâm nhất định đến các yếu tố này. Đặc biệt, các yếu tố tập trung vào khách hàng, quản trị nguồn nhân lực, quản lý quá trình và quản lý kế hoạch chiến lược. Mặt khác, có sự khác nhau về mức độ quan tâm giữa hai nhóm và ở từng yếu tố. Nhóm 1 là nhóm có động lực tương đối với giá trị trung bình 3.19. Nhóm 2 có giá trị trung bình cao hơn hẳn nhóm 1 (4.04) và được xếp vào nhóm có động lực cao. Trong nhóm 1, giá trị trung bình cao nhất ở nhân tố tập trung vào khách hàng, quản trị nguồn nhân lực, quản lý chiến lược nhưng chỉ ở mức 3.4, 3.26 và 3.2. Các nhân tố quản lý chất lượng nhà cung cấp, thiết kế sản phẩm, dịch vụ, quản lý quá trình, logistic có cùng giá trị trung bình 3.23. Các doanh nghiệp thường khá thụ động, chạy theo việc giải quyết yêu cầu hay khiếu nại của khách hàng. Đối với công tác quản lý chất lượng nhà cung cấp, chủ yếu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhà cung cấp đưa đến, nếu không đạt yêu cầu họ sẽ tìm nhà cung cấp khác. Các doanh nghiệp thi công xây dựng, chiếm số lượng lớn nhóm 1, không quan tâm nhiều đến kho bãi, vận chuyển trong khi các doanh nghiệp trong lĩnh vực vật liệu quan tâm nhiều đến yếu tố này. Phần lớn doanh nghiệp trong nhóm 1 chưa chuẩn hóa được các hoạt động của mình, đặc biệt là quy trình, lưu đồ, dòng chảy công việc. Các đáp viên cũng cho rằng cần tập trung giải quyết nhu cầu khách hàng hơn là giải quyết vấn đề nội bộ nên chưa quan tâm nhiều đến đào tạo, sự hài lòng nhân viên. Bên cạnh đó, chiến lược công ty của nhóm này chủ yếu là kế hoạch trong ngắn hạn. Đây là các nguyên nhân dẫn đến kết quả của sự thỏa mãn khách hàng, hiệu quả tài chính và hiệu quả vận hành chưa được như kỳ vọng. Đối với nhóm 2, giá trị trung bình của yếu tố tập trung vào khách hàng cao hơn hẳn nhóm 1. Họ có kế hoạch khảo sát thị trường, xây dựng kênh tiếp xúc, nhận phản hồi khách hàng thường xuyên nên hiểu rõ yêu cầu khách hàng, chủ động thiết kế sản phẩm đáp ứng xu thế thị Tạp chí Đại học Công nghiệp 83 trường. Chẳng hạn, một số doanh nghiệp khảo sát tìm hiểu và phát hiện nhu cầu nhà ở cho đối tượng có thu nhập trung bình ở vùng ven thành phố là rất lớn nên đã tập trung khai thác phân khúc này và gặt hái nhiều thành công. Họ có kế hoạch định hướng phát triển công ty dài hạn, thường xuyên thăm dò sự hài lòng không chỉ khách hàng bên ngoài mà còn ở nhân viên là khách hàng nội bộ. Vì vậy công tác quản trị nguồn nhân lực của nhóm này có giá trị trung bình cao (4.19). Công tác quản lý quá trình của họ cũng làm tốt hơn nhóm 1. Hầu hết có xây dựng quy trình làm việc, có thiết bị giám sát tại công trường. Tuy vậy cũng chưa sử dụng thống kê kiểm soát lỗi sản phẩm, quy trình. Đặc biệt, về quản lý chất lượng nhà cung cấp, các công ty trong nhóm này thường xuyên trao đổi với nhà cung cấp từ khâu thiết kế để đảm bảo nhà cung cấp đáp ứng đúng tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra. Các doanh nghiệp thường chỉ lựa chọn và sử dụng một số ít nhà cung cấp có năng lực tốt, đáng tin cậy. Thêm vào đó, nhóm này cũng quan tâm cung đường vận chuyển ngắn nhất, phương thức thuận tiện nhất để có giá thành vật liệu rẻ. Nói tóm lại, họ có định hướng tập trung vào khách hàng, có động lực quan tâm đến các nhân tố khác cao hơn các doanh nghiệp nhóm 1. Điều này cũng khá hợp lý để giải thích tại sao các doanh nghiệp thuộc nhóm 2 có giá trị trung bình của các nhân tố thỏa mãn khách hàng, hiệu quả tài chính và hiệu quả vận hành cao hơn hẳn nhóm 1. Mặt khác, cả hai nhóm đều ít quan tâm đến việc chuẩn hóa các thành phần tạo nên sản phẩm vì họ cho rằng các công trình rất đa dạng về hình dáng, kích thước, kết cấu nên khó chuẩn hóa. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thương mại điện tử và giao dịch quốc tế không phải là mục tiêu cơ bản cả hai nhóm với giá trị trung bình cả hai nhóm đều thấp nhất trong số các nhân tố. Dựa trên đặc điểm của từng nhóm nhân tố, ba nhóm nhân tố cuối cùng gồm sự thỏa mãn khách hàng, hiệu quả tài chính và hiệu quả vận hành là ba nhóm nhân tố quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn đạt được. Chính vì thế, để nâng cao hiệu quả thực hiện của ba nhân tố này, doanh nghiệp phải cải thiện từ các nhân tố còn lại. Quá trình cải tiến các nhân tố được thực hiện qua hai bước: bước thứ nhất thực hiện cải tiến các nhân tố trong nhóm 1 để có thể đạt mức độ thực hiện như nhóm 2 và bước hai tiến hành cải tiến chung để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng. Cụ thể: Các doanh nghiệp nhóm 1 nên tiến hành tìm hiểu nhu cầu khách hàng thông qua khảo sát thị trường hoặc từ thông tin thứ cấp để thiết kế sản phẩm/ dịch vụ phù hợp. Ngoài ra, cần chú ý quan tâm đến chất lượng nhà cung cấp, phát triển mối quan hệ bền vững, lâu dài với một số ít nhà cung cấp (khoảng từ hai đến ba nhà cung cấp cho cùng một loại nguyên vật liệu đầu vào) nhằm làm tăng tính ổn định của chất lượng sản phẩm và giảm chi phí tìm kiếm, đánh giá nhà cung cấp mới. Thêm vào đó, các doanh nghiệp phải xây dựng được quy trình công việc cho từng hoạt động chính của công ty, giao cho nhân viên nhiều quyền hơn, đào tạo cho nhân viên tính đa năng để có đảm nhận nhiều vị trí công việc khác nhau. Đối với nhóm 2, công tác tập trung vào khách hàng phải được truyền đạt thông suốt đến nhà cung cấp, đến đối tác kinh doanh của công ty để đảm bảo chất lượng sản phẩm/ dịch vụ đạt yêu cầu của khác hàng. Bên cạnh đó, các công ty cần phát triển mối quan hệ chặt chẽ hơn với nhà cung cấp đã chọn thông qua việc tham gia vào quy trình sản xuất sản phẩm của nhà cung cấp hoặc đầu tư chéo để kiểm soát chất lượng cung ứng tốt hơn. Thực hiện thống kê kiểm soát lỗi sản phẩm, quy trình. Nâng cao khả năng dự báo nhu cầu và bố trí trụ sở, kho bãi gần nguồn khách hàng. Và một điều rất quan trọng, tạo môi trường học tập tốt để nhân viên có cơ hội phát triển bản thân, đóng góp nhiều hơn cho doanh nghiệp. Phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng 84 Giao dịch quốc tế và Thương mại điện tử là hai yếu tố ít được quan tâm nhất ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, khi Việt Nam thâm nhập sâu rộng với thị trường thế giới thì việc áp dụng thương mại điện tử và giao dịch quốc tế là rất cần thiết. 6. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã thực hiện phân nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng ở TPHCM theo các nhân tố liên quan tới đặc điểm và động lực công ty. Kết quả phân nhóm theo phương pháp Two-step và được kiểm định lại bằng phương pháp thứ bậc và K- mean hình thành hai nhóm riêng biệt. Xét về giá trị trung bình của tất cả các nhân tố thì nhóm 2 cao hơn nhóm 1. Vì vậy có thể kết luận, về mặt tổng thể, các doanh nghiệp trong nhóm 2 thực hiện tốt hơn nhóm 1. Dựa trên đặc điểm của từng nhóm nhân tố, sự thỏa mãn khách hàng, hiệu quả tài chính và hiệu quả vận hành là ba nhóm quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hướng tới. Đây là ba nhóm nhân tố liên quan đến đầu ra của doanh nghiệp. Để cải thiện được những yếu tố này, doanh nghiệp cần quan tâm, cải thiện từ các nhân tố tác động lên chúng. Quá trình cải tiến các nhân tố được đề nghị nên thực hiện qua hai bước: bước một là cải tiến các nhân tố trong nhóm 1 để có thể đạt mức độ thực hiện như nhóm 2. Bước hai, tiến hành cải tiến chung để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành xây dựng. Nghiên cứu được kỳ vọng giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách, nhà tư vấn nắm rõ đặc điểm của từng nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngành xây dựng để có những chính sách hỗ trợ hợp lý, hiệu quả và kịp thời. Bên cạnh kết quả đạt được, nghiên cứu còn những tồn tại gợi mở cho các nghiên cứu tiếp theo: Thứ nhất, nghiên cứu chọn phương pháp lấy mẫu thuận tiện, do đó dữ liệu không hoàn toàn đại diện cho tổng thể. Các nghiên cứu tiếp theo có thể tiến hành lấy mẫu theo các phương pháp khác, như lấy mẫu phân tầng hay lấy mẫu theo cụm... Thứ hai, nghiên cứu này chỉ tiến hành khảo sát trong lĩnh vực xây dựng mà chưa tính đến đến tác động của các yếu tố từ những lĩnh vực kinh tế khác. Vì vậy, các nghiên cứu tiếp theo có thể xem xét trong một tổng thể rộng hơn với mối tương quan với các lĩnh vực kinh tế khác có liên quan. Nghiên cứu chỉ thực hiện trong khu vực TPHCM nên khi đề xuất các hàm ý quản lý có thể chưa thực sự phù hợp cho tình hình xây dựng ở những khu vực khác. Nếu có điều kiện nghiên cứu toàn diện hơn ở nhiều địa phương thì độ tin cậy nghiên cứu và tính hiệu quả của các hàm ý quản lý sẽ cao hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alfred Marshall (1890), “Principles of Economics (8th ed.)”, London: Macmillan and Co. 8th ed. 1920. 2. Ariyawardana A and Bailey W.C (2003), “Strategic Group Formation: An Application Cluster Analysis”, Journal of Applied Statistics, Vol. 4, pp. 47-57. 3. Birley S and Westhead P (1994), “A Taxonomy of Business Start-Up Reasons and Their Impact on Firm Growth and Size”, Journal of Business Venturing, Vol. 9, pp. 7-31. 4. Cunningham W V and Maloney W F (2001), “Heterogeneity among Mexico’s Micro Enterprises: An Application of Factor and Cluster Analysis”, Economic Development and Cultural Change, University of Chicago Press, Vol. 50, No. (1), pp. 131-156. 5. De Jong J P J and Marsili O (2006), “The Fruit Flies of Innovation: A Taxonomy of Innovative Small Firms”, Research Policy, Vol. 35, No. (2), pp. 213-229. Tạp chí Đại học Công nghiệp 85 6. Duchesneau D (1987), “New Venture Success in an Emerging Industry”, Nova University, Dissertation. 7. E. Mooi and M. Sarstedt (2011), “A Concise Guide to Market Research”, Springer-Verlag Berlin Heidelberg. DOI 10.1007/978-3-642-12541-6_9, #. 8. Fort Lauderdale, FL.Entrialgo Montserrat (2002), “The Impact of the Alignment of Strategy and Managerial Characteristics on Spanish SMEs”, Journal of Small Business Management, Vol. 40, No. (3), pp. 260-270. 9. Hubert Schmitz and Khalid Nadvi (1999), “Clustering and Industrialization: Introduction”, World Development, Vol. 27, No. (9), pp. 1503-1514, published by Elsevier Science ltd. all rights reserved printed in Great Britain, 2009. 10. Michael Porter (1998), “Cluster and the new economics of competition”, Internet: 11. Mika Pasanen (2003), “In Search of Factors Affecting SME Performance, The Case of Eastern Finland”, the Faculty of Business and Information Technology of the University of Kuopio for public examination in Auditorium, Microteknia building, University of Kuopio, on Saturday 29 Th, November 2003, at 12 noon. 12. Professor Richard G.P. McMahon (2011), “Financial Slack Amongst Manufacturing Smes From Australia’s Business Longitudinal Survey: An Exploratory Study”, The Flinders University of South Australia, GPO Box 2100, Adelaide South Australia 5001, 2011. 13. Robert W.Stuart and Pier A.Abetti (1990), “Impact Of Ewreneurial Andmanag- Experience”, On Early Performance Northeastern University, 214 Hayden Hall, 360 Huntington Avenue, Boston, MA 02115. 14. Sharma, Dr Meena and Wadhawan, Pawan (2009), “A Cluster Analysis Study of Small and Medium Enterprises”, The IUP Journal of Management Research, Vol. 8, No. (10), pp. 7- 23, October 2009. Available at SSRN:
File đính kèm:
- phan_nhom_cac_doanh_nghiep_vua_va_nho_trong_nganh_xay_dung_t.pdf